Bài giảng Tâm lý học

Thế giới tâm lý của con người vô cùng kỳ diệu và phong phú, được loài

người quan tâm nghiên cứu cùng với lịch sử hình thành và phát triển nhân loại.

Từ những tư tưởng đầu tiên sơ khai về hiện tượng tâm lý, tâm lý học đã hình

thành, phát triển không ngừng và ngày càng giữ một vị trí quan trọng trong

nhóm các khoa học về con người. Đây là khoa học có ý nghĩa to lớn trong việc

phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

pdf73 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 789 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài giảng Tâm lý học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của họ. Thông qua giao tiếp với người khác chúng ta mới biết soi mình vào người khác để tự đánh giá chính mình. Giao tiếp là một phương thức giúp cá nhân tiến hành so sánh xã hội để đánh giá người khác cũng như tự đánh giá chính mình. d. Quan hệ giao tiếp và hoạt động. Trong tâm lý học, giao tiếp còn được coi như một hoạt động. Hoạt động này diễn ra trong mối quan hệ người người nhằm mục đích thiết lập sự hiểu biết lẫn nhau, nhằm tác động đến tri thức, tình cảm và toàn bộ nhân cách. Đó là sự tác động trực tiếp người - người diễn ra trong mối quan hệ giữa chủ thể với chủ thể. Phương pháp và nội dung giao tiếp phụ thuộc vào vị trí của con người trong quan hệ sản xuất, vào tầng lớp hay nhóm xã hội của người đó. Nói về mối quan hệ giữa giao tiếp và hoạt động, có hai quan điểm khác nhau. - Đại diện cho quan điểm thứ nhất, A.A. Lêônchiep cho rằng giao tiếp có thể là một dạng của hoạt động, giao tiếp cũng diễn ra bằng các hoạt động và có cả các thao tác cụ thể, sử dụng các phương tiện khác nhau, nhằm đạt những mục đích xác định thoả mãn các nhu cầu cụ thể, tức được thúc đẩy bởi động cơ. - Đại diện cho quan điểm thứ hai, B. F. Lômôp cho rằng giao tiếp và hoạt động là hai phạm trù đồng đẳng, có quan hệ qua lại với nhau: * Có trường hợp giao tiếp là điều kiện của một hoạt động khác. Ví dụ: Trong lao động sản xuất, giao tiếp là điều kiện để con người phối hợp với nhau quan hệ với nhau cùng tiến hành làm ra sản phẩm chung. * Có trường hợp hoạt động là điều kiện để thực hiện mối quan hệ giao tiếp giữa con người với con người. Ví dụ: Người diễn viên múa làm động tác trên sân khấu thì các hành động chân tay, điệu bộ, cử chỉ là điều kiện để thực hiện mối quan hệ giao tiếp giữa diễn viên và khán giả. Theo Lômốp phạm trù hoạt động phản ánh mối quan hệ “ chủ thể- khách thể”, còn phạm trù giao tiếp phản ánh mối quan hệ “ chủ thể - chủ thể”. Lômốp còn cho rằng quan niệm của Lêônchiep chưa thoả đáng bởi trong giao tiếp có 2 chủ thể, mỗi chủ thể có động cơ riêng, vậy đâu là động cơ chủ đạo? - Cuộc sống giao tiếp và hoạt động có mối quan hệ gắn bó khăng khít với nhau. Sự gắn bó giữa hoạt động và giao tiếp diễn ra như một điều kiện, một phương thức để tiến hành một hoạt động khác. 53 Ví dụ: Các quan hệ giao tiếp giữa những người công nhân trong hoạt động lao động, giao tiếp giữa thầy giáo với học sinh trong hoạt động dạy học. e. Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp. Tâm lý của con người là kinh nghiệm xã hội - lịch sử chuyển thành kinh nghiệm của bản thân, thông qua hoạt động và giao tiếp. Nói cách khác, tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp. Đồng thời hoạt động và giao tiếp là nơi tâm lý vận hành, thưc hiện vai trò của mình đối với cuộc sống. Có thể tóm tắt sơ đồ tổng quát về sự hình thành và phát triển tâm lý người như sau: CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích khái niệm, các đặc điểm và cấu trúc của hoạt động? 2. Phân tích khái niệm giao tiếp, các loại giao tiếp 3. Tại sao nói: Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp? Xã hội ( các quan hệ xã hội ) Giao tiếp Hoạt động Con người - chủ thể hoạt động , giao tiếp. tâm lý-ý thức-nhâncách Đối tượng giao tiếp Đối tượng hoạt động 54 CHƯƠNG III SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ, Ý THỨC Tâm lý, ý thức của con người là kết quả của sự phát triển lâu dài của vật chất, trải qua 3 giai đoạn: + Từ vật chất vô sinh ( chưa có sự sống) đến vật chất hữu sinh ( có sự sống). Sự sống ra đời vào khoảng 1500 – 2000 triệu năm trước với hình thái đầu tiên là giọt prôtit ( côaxecva). Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên ( 1883) Ph. Ăngghen đã kết luận: Sự sống là phương thức tồn tại của thể prôtit, và khâu căn bản của phương thức tồn tại ấy là trao đổi chất thường xuyên với ngoại giới xung quanh. Các sinh vật, kể cả động vật và thực vật, khác vật vô sinh ở chỗ có tính cảm ứng kích thích là khả năng đáp ứng thuận hay nghịch, đối với những kích thích trực tiếp có lợi hay có hại đối với sự sống của nó. + Từ sinh vật không có cảm giác đến sinh vật có cảm giác – ( phản ánh tâm lý đầu tiên) ra đời dưới hình thái của tính nhạy cảm là năng lực có thể trả lời cả các kích thích có ảnh hưởng trực tiếp lẫn các kích thích có ảnh hưởng gián tiếp đối với sự sống còn của cơ thể và giống loài. Tính nhạy cảm được coi như mầm mống đầu tiên của tâm lý xuất hiện khoảng 600 triiêụ năm trước đây ở loài côn trùng. Ví dụ : Sinh vật có khả năng trả lời màu sắc của mồi ăn chỉ là tác động trung tính báo hiệu về tác động trực tiếp ảnh hưởng đến sự tồn tại của cơ thể và định hướng tới tác động trực tiếp ấy. + Từ sinh vật có mầm mống của cảm giác nhưng chưa có ý thức đến chủ thể có ý thức – ý thức xuất hiện ở loài người dưới hình thức phản ánh tâm lý cao nhất về các hình ảnh tâm lý khác, nhờ có lao động, đời sống xã hội, ngôn ngữ và được thực hiện bằng não người như là một bộ máy tích hợp tự động rất tinh vi. I.SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÍ. 1. Sự nảy sinh và hình thành tâm lý về phương diện loài người. Tiêu chuẩn xác định sự nảy sinh tâm lý là tính nhạy cảm ( hay còn gọi là tính cảm ứng). Xét về phương diện loài người, người ta chia các thời kỳ phát triển tâm lý theo các căn cứ khác nhau: - Xét theo mức độ phản ánh thì tâm lý của loài người đã trải qua 3 thời kỳ: Cảm giác, tri giác, tư duy. - Xét theo nguồn gốc nảy sinh của hành vi thì tâm lý trải qua 3 thời kỳ: Bản năng, kỹ xảo, trí tuệ. a. Xét theo mức độ phản ánh: Cảm giác, tri giác, tư duy. - Thời kỳ cảm giác. 55 Đây là thời kỳ đầu tiên trong phản ánh tâm lý có ở động vật không xương sống. Ở thời kỳ này con vật mới có khả năng trả lời từng kích thích riêng lẻ. Mọi động vật ở bậc thang tiến hoá cao hơn đều có cảm giác. Cảm giác ở người khác xa về chất so với cảm giác ở động vật. - Thòi kỳ tri giác. Bắt đầu xuất hiện ở loài cá. Thời kỳ này con vật có khả năng đáp lại một tổ hợp các kích thích ngoại giới ( chứ không phải từng kích thích riêng lẻ). - Thời kỳ tư duy. Từ vượn người bắt đầu có tư duy bằng tay, tư duy cụ thể. Tư duy ngôn ngữ chỉ có ở người, giúp con người nhận thức được bản chất, quy luật của thế giới. Nhờ tư duy ngôn ngữ mà hoạt động của con người có tính mục đích, tính kế hoạch cao nhất, hoàn chỉnh nhất, giúp con người không chỉ nhận thức, cải tạo thế giới mà còn nhận thức và cải tạo chính bản thân mình. b. Xét theo nguồn gốc nảy sinh hành vi: Bản năng, kỹ xảo, hành vi trí tuệ. - Thời kỳ bản năng: Bản năng là hành vi bẩm sinh, mang tính di truyền có cơ sở là những phản xạ không điều kiện. Ví dụ: vịt nở ra đã biết bơi. Bản năng nhằm thoả mãn các nhu cầu có tính thuần tuý cơ thể ( bản năng dinh dưỡng, bản năng tự vệ, bản năng sinh dục). Từ loài côn trùng trở đi bắt đầu có bản năng. Người và động vật đều có bản năng, nhưng bản năng ở người khác xa so với bản năng của con vật: “ Bản năng của con người là bản năng có ý thức” ( C. Mác), bản năng của con người có sự tham gai của tư duy, mang tính xã hội và mang đặc điểm lịch sử loài người. Ví dụ: Con vật: đói ăn ( kích thích phản ứng) Con người: đói ăn Không ăn - Thời kỳ kĩ xảo. Xuất hiện sau bản năng. Kĩ xảo là hành vi mới do cá nhân tụ tạo trên cơ sở luyện tập. Ví dụ: Chim bồ câu đưa thư. Hổ nhảy qua vòng lửa. Mèo bắt chuột. - Thời kỳ hành vi trí tuệ. Hành vi trí tuệ là kết quả của luyện tập, do cá thể tự tạo trong đời sống của nó. Hành vi trí tuệ ở con vật chủ yếu nhằm vào giải quyết các tình huống cụ thể có liên quan đến việc thoả mãn các yêu cầu sinh vật của cơ thể. 56 Hành vi trí tuệ của con người sinh ra trong hoạt động, nhằm nhận thức bản chất, các mối quan hệ có tính quy luật, nhằm thích ứng và cải tạo thực tế khách quan. Hành vi trí tuệ của con người gắn liền với ngôn ngữ, là hành vi có ý thức. 2. Các giai đoạn phát triển tâm lý về phương diện cá thể. Sự phát triển tâm lý con người về phương diện cá thể là một quá trình biến đổi liên tục từ cấp độ này sang cấp độ khác, ở mỗi cấp độ lứa tuổi, sự phát triển tâm lý đạt tới một chất lượng mớiv diễn ra theo các quy luật đặc thù. L. X . Vưgôtxki căn cứ vào những thời điểm mà sự phát triển tâm lý có những đột biến để xác định thời kỳ phát triển tâm lý. A. N. Leônchiep chỉ ra rằng, sư phát triển tâm lý của con người gắn lền với sự sự phát triển hoạt động của con người trong thực tiễn đời sống của nó, trong đó một số hoạt động đóng vai trò chính ( chủ đạo) trong sự phát triển, một số hoạt động khác chỉ đóng vai trò phụ. Sự phát triển tâm lý của con người phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động chủ đạo. Hoạt động của đạo là hoạt động mà sự phát triển của hoạt động đó quy định những biến đổi chủ yếu nhất trong các quá trình tâm lý và trong các đặc điểm tâm lý của nhân cách trẻ em ở một giai đoạn phát triển nhất định. Hoạt động chủ đạo là hoạt động có tác dụng quyết định nhất đối với sự hình thành những nét tâm lý căn bản và đặc trưng cho giai đoạn hoặc thời ký lứa tuổi, đồng thời quy định tính chất của các hoạt động khác trong cùng giai đoạn. Đặc điểm của hoạt động chủ đạo: + Là hoạt động đầu tiên trong đời sống cá thể được nảy sinh, hình thành và phát triển. + Khi đã nảy sinh, hình thành và phát triển thì không tự thủ tiêu mà tiếp tục tồn tại mãi. + Hoạt động chủ đạo sẽ mang lại thành tựu mới cho một lứa tuổi. 57 Dấu hiệu cơ bản nhất để xem xét một hoạt động có phải là hoạt động chủ đạo hay không chính là xem xét hoạt động đó co vai trò chủ yếu gây ra sự thay đổi về tâm lý trong giai đoạn đó hay không. Ví dụ: Hoạt động học của học sinh Tiểu học là hoạt động chủ đạo, hoạt động này có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự hình thành hệ thống tri thức, phương pháp lĩnh hội tri thức, sự phát triển trí tuệ Các giai đoạn phát triển tâm lý theo lứa tuổi và hoạt động chủ đạo. * Giai đoạn sơ sinh và hài nhi ( 0 – 12 tháng) : Hoạt động chủ đạo là hoạt động giao lưu cảm xúc trực tiếp với người lớn và trước hết là với mẹ. * Giai đoạn trước tuổi học. + Giai đoạn tuổi vườn trẻ ( 1 – 3 tuổi): Hoạt động chủ đạo là hoạt động với đồ vật, đối tượng do loài người tạo ra. + Giai đoạn tuổi mẫu giáo ( 3 – 6 tuổi): Hoạt động chủ đạo là hoạt động trò chơi sắm vai theo chủ đề. * Giai đoạn tuổi đi học. + Giai đoạn tuổi học sinh Tiểu học ( 6 – 11,12 tuổi): Hoạt động chủ đạo là hoạt động học tập. + Giai đoạn tuổi thiếu niên, học sinh THCS ( 11,12 – 14, 15 tuổi): Hoạt động chủ đạo là hoạt động học tập và giao tiếp với bạn bè. 58 + Giai đoạn tuổi thanh niên (15 – 24 tuổi): Hoạt động chủ đạo là hoạt động học tập và hoạt động xã hội. * Giai đoạn tuổi trưởng thành: 24, 25 tuổi trở lên. * Giai đoạn người già: Sau tuổi về hưu, 55 – 60 tuổi trở lên. II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN Ý THỨC. 1. Khái niệm chung về ý thức. a. Ý thức là gì? - Bàn đến tâm lý con người, theo quan điểm maxit, không thể không nói đến ý thức. - Triết học và Tâm lý học cùng nghiên cứu ý thức:  Triết học: + Nghiên cứu ý thức trong quan hệ giữa ý thức và vật chất, ý thức và tồn tại. + Nghiên cứu vai trò chung của ý thức đối với tồn tại.  Tâm lý học: + Nghiên cứu ý thức được hình thành như thế nào trong quá trình phát triển của vật chất, của xã hội, của từng người. + Bàn đến vai trò chuyên biệt của ý thức đối với hoạt động của con người. 59 Song như vậy không có nghĩa rằng những vấn đề của Triết học và Tâm lý học nghiên cứu ý thức hoàn toàn tách biệt hay chống đối nhau vì:  Quan niệm triết học về ý thức là quan điểm chỉ đạo Tâm lý học nghiên cứu ý thức một cách khoa học và đúng đắn.  Ngược lại, Tâm lý học bằng những cứ liệu thực nghiệm và kết luận lý luận đã góp phần chứng minh những tư tưởng triết học ( DVBC và DVLS ). - Vậy ý thức là gì? Theo Triết học: “ Ý thức chẳng qua là vật chất được chuyển vào óc người và được cải tạo lại trong đó” ( C. Mác). Nghĩa là ý thức phản ánh tồn tại khách quan, chứ không phải là cái gì huyền bí vốn có ở trong người phát ra, mà cũng không phải là cái gì siêu nhiên từ không trung nhập vào đầu ta. Đây là quan điểm xuất phát cơ bản để giả quyết vấn đề ý thức trong Tâm lý học. - Theo nghĩa rộng, ý thức thường được dùng đồng nghĩa với tinh thần, tư tưởng ( ý thức tổ chức, ý thức kỷ luật). - Theo nghĩa hẹp, khái niệm ý thức được dùng để chỉ một cấp độ đặc biệt trong tâm lý con người. Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất riêng con người mới có, phản ánh bằng ngôn ngữ, là khả năng con người hiểu được các tri thức ( hiểu biết) mà con người đã tiếp thu được. Có thể nói: ý thức là tri thức về tri thức, phản ánh của phản ánh. 60 Phân tích: Ý thức có quan hệ với hoạt động nhận thức. Thường trước khi làm một việc gì người ta phải tính toán xem nên làm như thế nào, dự định sẽ thu được kết quả gì Dự tính như vậy và làm theo dự tính đó là hoạt động của ý thức. Ví dụ: So sánh công việc của người thợ dệt và con nhện dăng tơ, Mac chỉ ra rằng người thợ dệt khác con nhện ở chỗ trược khi dệt người ấy đã “biết” đến kết quả công việc ở trong đầu người ấy, nói cách khác, hoạt động của người thợ dệt là hoạt động có ý thức. Ý thức và nhận nhận thức có cái chung nhưng không phải là một: Không những có “ tính toán” trước khi làm, có dự tính kết quả, hướng mọi hoạt động để đạt kết quả mong muốn, mà bản thân sự suy nghĩ về sự vật ấy lại trở thành đối tượng của chính sự suy nghĩ. Đây chính là ý thức. Tư duy và ý thức có quan hệ như vậy. Khi quá trình cảm giác, tri giác diễn ra , con người biết mình có cảm giác, tri giác đó hay một hiện tượng tâm lý nào đó khác, tức là ở người ấy diễn ra hoạt động có ý thức. Nếu cảm giác, tri giác, tư duy đem lại cho ta tri thức ( hiểu biết) về hiện thực khách quan, thì ý thức là năng lực hiểu biết về tri thức ( hiểu biết) ấy. Vì vậy có thể nói ý thức là tri thức của tri thức, hiểu biết của hiểu biết. Tất cả các hiện tượng tâm lý đều phản ánh hiện thực khách quan. Hiện thực khách quan tác động vào não tạo ra các hình ảnh tâm lý.Các hình ảnh đó trở thành đối tượng trực tiếp của ý thức, vì vậy có thể nói ý thức là phản ánh của 61 phản ánh ( hình ảnh tâm lý của hình ảnh tâm lý ). Thông qua các hình ảnh tâm lý do các quá trình tâm lý, các thuộc tính tâm lý tạo ra, ý thức phản ánh hiện thực khách quan. Như vậy chính các hình ảnh tâm lý lại trở thành đối tượng của phản ánh. Con người ở đây dương như bị chia làm hai: + Một phần làm nhiệm vụ tạo ra những hình ảnh tâm lý phản ánh hiện thực khách quan. + Một phần làm nhiệm vụ phản ánh những hình ảnh ở phần kia. Có thể so sánh ý thức như “cặp mắt thứ hai” soi vào xem các ảnh ( các hình ảnh tâm lý) do “cặp mắt thứ nhất” – là các hiện tượng tâm lý khác như cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, cảm xúc “ chụp” được ở trong óc về hiện thực khách quan. Với ý nghĩa đó, Mác nói: Ý thức là tồn tại của nhận thức. Như vậy, nhờ có ý thức mà toàn bộ các hiện tượng tâm lý có một chất lượng hoàn toàn mới. Phân biệt hiện tượng tâm lý có ý thức và không có ý thức. Như ta đã biết, sự phản ánh có ý thức là dạng phản ánh thực tế cao nhất và quan trọng nhất, nhưng không phải là dạng phản ánh duy nhất có ở người, tức các hiện tượng tâm lý có khi có sự tham gia của ý thức, có khi không. Thật vậy: 62 Nếu một vật kích thích nào đó của hệ thống tín hiệu thứ nhất không tạo nên trong vỏ các bán cầu đại não những mối liên hệ với các vật kích thích của hệ thống tín hiệu thứ hai thì hiện tượng tương ứng không được nhận biết, con người không hiểu rõ về hiện tượng ấy. Ví dụ: Khi một người đi ở ngoài phố đang mải nói chuyện với một người khác thì ở trong đầu người đó không xuất hiện những hình tượng có ý thức về những người đang đi ngược chiều, về vỉa hè mà người đó đi qua Mặc dù anh ta không hiểu rõ về các hiện tượng đang tác động đến mình này nhưng các tác động này vẫn đang điều chỉnh các động tác của anh ta. Vì thực ra anh ta không va vào người khác, không bước hụt khi bước từ vỉa hè xuống lòng đường thế có nghĩa là những tác động này được phản ánh vào não anh ta và gây nên những động tác hành vi tương ứng. Nhưng người không hiểu những hiện tượng do chính họ phản ánh này. Sự phản ánh các hiện tượng này không diễn ra dưới dạng của ý thức. Đây là một sự phản ánh tâm lý chứ không phải là sự phản ánh có ý thức. Phản ánh có ý thức và phản ánh không có ý thức có mối quan hệ tương hỗ với nhau và chuyển hoá lẫn nhau. Có những hiện tượng hoặc tác động trong trường hợp này không được phản ánh có ý thức, trong trường hợp khác lại có thể được ý thức rõ rệt. Ví dụ: Chỉ cần người đi đường đó nhìn thấy người quen là lập tức ấn tượng này sẽ được ý thức. 63 Như vậy, mặc dù các hiện tượng không phải lúc nào tác động đến người cũng được phản ánh trong đầu người dưới dạng ý thức, nhưng bất kỳ hiện tượng nào tác động đến giác quan của con người cũng có thể, trong những điều kiện nhất định, tạo nên sự phản ánh có ý thức của con người. Nói chung, khi người có nhiệm vụ tìm hiểu một hiện tượng hay một nhóm hiện tượng nào đó thì những hiện tượng ấy sẽ được người ý thức. b. Các thuộc tính cơ bản của ý thức ( vai trò của ý thức). Ý thức thể hiện năng lực nhận thức cao nhất của con người về thế giới. - Nhận thức cái bản chất, nhận thức khái quát bằng ngôn ngữ. - Dự kiến trước kế hoạch hành vi, kết quả của nó làm cho hành vi mang tính chủ định. Ý thức thể hiện thái độ của con người đối với thế giới. Ý thức không chỉ nhận thức sâu sắc về thế giới mà trong mọi hoạt động nhận thức, ý thức còn thể hiện thái độ, cảm xúc của con người đối với nó ( Cảm xúc kích thích con người nhận thức hiện thực khách quan, làm cho nhận thức có chiều sâu và sức mạnh tìm ra cái mới). Không có nhận thức “ lạnh lùng”, thuần lý trí, vì ngay “ lạnh lùng” đã là một thái độ, một cảm xúc. Ý thức thể hiện năng lực điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người. 64 Đối với vai trò của con người ý thức giữu vai trò định hướng, điều khiển, điều chỉnh. Ví dụ: Lao động – hoạt động đặc thù của con người. + Trước khi lao động phải hình dung được nên làm như thế nào, thu được kết quả gì, hậu quả ra sao tức phải có ý thức. + Trong khi tiến hành công việc cụ thể đều phải theo hình ảnh về kết quả đã hình dung ( sau có thể sửa dần để hoàn chỉnh hơn). Có quá trình định hướng kỹ càng, điều khiển chặt chẽ và điều chỉnh kịp thời. Như vậy, đầu tiên ý thức vạch hướng chung cho hoạt động, sau waj vào kết quả từng hành động, ý thức điều khiển, điều chỉnh hoạt động. Khả năng tự ý thức. Con người không chỉ ý thức về thế giới mà ở mức độ cao hơn con người có khả năng tự ý thức: Tự nhận thức về mình. Tự xác định thái độ đối với bản thân. Tự điều chỉnh, điều khiển. Tự hoàn thiện mình. Đứa trẻ mới sinh ra chưa có ý thức, lại càng chưa thể có tự ý thức, mà mới chỉ có tâm lý. Khi nào trẻ biết cảm giác về thân thể mình, rồi hình thành cảm xúc, ý nghĩ về mình tức tự nhận ra mình, khi đó trẻ bắt đầu có tự ý thức. 65 c. Cấu trúc của ý thức. + Mặt nhận thức. Nhận thức cảm tính mang lại những tài liệu đầu tiên cho ý thức. Nhận thức lý tính mang lại những hình ảnh khái quát bản chất về thực tại khách quan và các mối liên hệ có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. + Mặt thái độ của ý thức. Ý thức luôn thể hiện thái độ của con người với thế giới khách quan như thái độ cảm xúc, thái độ đánh giá, thái độ lựa chọn. Thái độ được hình thành trên cơ sở nhận thức thế giới. + Mặt năng động của ý thức. Ý thức tạo cho con người có khả năng dự kiến trước hoạt động, điều khiển, điều chỉnh hoạt động nhằm thách nghi và cải tạo thế giới khách quan, đồng thời hiểu biết và cải tạo bản thân. 2. Sự hình thành và phát triển ý thức. a. Sự hình thành ý thức của con người ( về phương diện loài người). 66 Lao động và ngôn ngữ là hai động lực chủ yếu đã biến bộ não con vượn thành bộ óc con người. Đây cũng chính là hai yếu tố tạo nên sự hình thành ý thức của con người. b. Sự hình thành ý thức và tự ý thức của cá nhân. + Ý thức của cá nhân được hình thành trong hoạt động và thể hiện trong sản phẩm hoạt động của cá nhân. Hoạt động đòi hỏi con người phải nhận thức được nhiệm vụ, các phương pháp, điều kiện và kết quả hành động. Ngược lại, cá nhân đem vốn hiểu biết, kinh nghiệm, năng lực của mình thể hiện trong quá trình làm ra sản phẩm. Qua hoạt động, cá nhân nhận thức được chính bản thân mình, từ đó có khả năng tự đánh giá, điều khiển, điều chỉnh hành vi. Nói cách khác, bằng hoạt động đa dạng và phong phú trong cuộc sống thực tiễn, cá nhân hình thành, phát triển tâm lý, ý thức của mình. Ví dụ: Đánh giá học sinh phải qua hoạt động học, qua bài kiểm tra + Ý thức của cá nhân được hình thành trong mối quan hệ của cá nhân với cá nhân, với xã hội. Trong quan hệ giao tiếp ( con người trao đổi thông tin, trao đổi cảm xúc, tác động qua lại với người khác), con người đối chiếu mình với người khác, với chuẩn mực đạo đức xã hội để có ý thức về người khác và ý thức về chính bản thân mình ( hình thành và bộc lộ ý thức). 67 + Ý thức của cá nhân được hình thành bằng con đường tiếp thu nền văn hoá xã hội, ý thức xã hội. Thông qua các hình thức hoạt động đa dạng, bằng con đường dạy học, giáo dục và giao tiếp trong quan hệ xã hội, cá nhân tiếp thu các giá trị xã hội, các chuẩn mực xã hội để hình thành ý thức cá nhân. Ví dụ: Học ăn học nói, học gói học mở. Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Trăm nghe không bằng một thấy. + Ý thức của cá nhân được hình thành bằng con đường tự nhận thức, tự đánh giá, tự phân tích hành vi của mình, tự rèn luyện, tự học, tự hoàn thiện mình. Trong quá trình hoạt động, giao tiếp trong xã hội, cá nhân hình thành ý thức về bản thân mình ( tự ý thức ) trên cơ sở đối chiếu mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, cá nhân tự giáo dục, tự hoàn thiện mình theo yêu cầu của xã hội. 3. Các cấp độ ý thức. Người ta phân chia các hiện tượng tâm lý của con người thành 3 cấp độ: a. Cấp độ chưa ý thức. 68 Trong cuộc sống, cùng với các hiện tượng tâm lý có ý thức, chúng ta thường gặp những hiện tượng tâm lý chưa có ý thức diễn ra chi phối hoạt động của con người. Ví dụ: người bị mộng du vừa ngủ vừa đi trên mái nhà, người say rượu nói nhảm nhí, người bị thần kinh hành động khi lên cơn, người hành động trong trạng thái bị thôi miên Các hiện tượng đó được gọi là hiện tượng vô thức. Vô thức là hiện tượng tâm lý ở tầng bậc chưa ý thức, nơi mà ý thức không thực hiện chức năng của mình. Vô thức bao gồm nhiều hiện tượng tâm lý khác nhau: + Vô thức ở tầng bản năng ( dinh dưỡng, tự vệ, sinh dục) tiềm tàng ở tầng sâu, dưới ý thức, mang tính bẩm sinh di truyền. + Vô thức còn bao gồm cả những hiện tượng tâm lý dưới ngưỡng ý thức ( tiền ý thức). Ví dụ: Ta cảm thấy thích một cái gì đó nhưng không xác định được một cách rõ ràng, không hiểu vì sao. Hiện tượng tâm thế cũng là hiện tượng tâm lý dưới ý thức, hướng tâm lý sẵn sàng chờ đón, tiếp nhận một điều gì đó, ảnh hưởng đến tính linh hoạt và tính ổn định của hoạt động. Ví dụ: Tâm thế sẵn sàng học tập. tâm thế sẵn sàng lao động mà nhà trường chẩn bị cho học sinh, làm cho học sinh tốt nghiệp ra trường không chờ đợi dịp may mà tích cực lao vào cuộc sống để khẳng định chỗ đứng của bản thân trong xã hội. 69 Có những hiện tượng tâm lý vốn là có ý thức nhưng do lặp đi lặp lại nhiều lần trở thành tự động hoá ( kỹ xảo) cũng được gọi là dưới ý thức, hay còn gọi là tiềm thức ( không cần ý thức tham gia vẫn hoạt động được). Bậc vô thức có vai trò nhất định trong cuộc sống, có liên quan tới bậc ý thức. Đó là trạng thái tâm lý - thần kinh chuẩn bị cho bậc ý thức. Hoạt động dạy - học diễn ra chủ yếu và phần lớn ở bậc ý thức, nhưng quá trình lĩnh hội kinh nghiệm, nhào nặn thông tin, giải quyết vấn đề có trường hợp diễn ra trong vô thức. Ví dụ: Trong giấc ngủ tìm ra lời giải của bài toán làm dở trước khi đi ngủ, một phát minh khoa học được kết luận trong giấc ngủ. Gần đây có nhiều thực nghiệm dạy học ngoại ngữ, dạy vẽ trong giấc ngủ. b. Cấp độ ý thức và tự ý thức. Ở cấp độ ý thức, con người nhận thức, tỏ thái độ có chủ tâm và dự kiến trước được hành vi của mình, làm cho hành vi trở nên có ý thức. Tự ý thức là mức phát triển cao của ý thức. Tự ý thức bắt đầu hình thành từ tuổi lên ba. Thông thường tự ý thức biểu hiện ở các mặt sau: + Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung tâm hồn, đến vị thế và các quan hệ xã hội. + Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, tự đánh giá. + Tự điều chỉnh, tự điều khiển hành vi theo mục đích tự giác. 70 + Có khả ngăng tự giáo dục, tự hoàn thiện mình. c. Cấp độ ý thức nhóm và ý thức tập thể. Trong mối quan hệ giao tiếp và hoạt động, ý thức của cá nhân sẽ phát triển dần đến cấp độ ý thức, ý thức nhóm, ý thức tập thể. Ví dụ: Ý thức về gia đình, ý thức về dòng họ, ý thức dân tộc, ý thức nghề nghiệp Trong cuộc số

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgtmn0025_p1_2995.pdf
Tài liệu liên quan