Bài thuyết trình - Lạm phát và chính sách điều hành lạm phát ở Việt Nam

Đối với vấn đề lạm phát có rất nhiều trường phái với nhiều cách tiếp cận khác nhau và mỗi trường phái đều có những lý luận khác nhau.

 

• Trường phái lưu thông tiền tệ (School of currency circulation):

Theo trường phái lạm phát "lưu thông tiền tệ" (đại diện là Miltơn Priedman) họ cho rằng lạm phát tiền tệ là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả hàng hoá tăng lên.

 

• Trường phái cầu kéo (Schools demand pull):

Trường phái lạm phát do cầu kéo mà đại diện là J.Keynes cho rằng. Lạm phát là "cầu dư thừa tổng quát cho phát hành tiền ra quá mức sản xuất trong thời kỳ toàn dụng dẫn đến mức giá chung tăng.

 

doc31 trang | Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1471 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài thuyết trình - Lạm phát và chính sách điều hành lạm phát ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thuyết trình môn : LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ (Theory of financial and monetary) Đề tài : LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH ĐIỀU HÀNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM. (Inflation and inflationary policies operating in Vietnam) MỤC LỤC: Phần 1: Những vấn đề chung về lạm phát. Các quan niệm về lạm phát Khái niệm về lạm phát Phân loại lạm phát Căn cứ định lượng Căn cứ định tính Nguyên nhân lạm phát Nguyên nhân chính Nguyên nhân khác Tác động của lạm phát 1.5.1 Tác động chung Tác động tiêu cực Tác động tích cực Chính sách và biện pháp kiềm chế lạm phát Lạm phát mục tiêu Giơí thiệu giảm phát. Phần 2: Chính sách điều hành lạm phát qua các thời kỳ ở Việt Nam. 2.1 Việt Nam thời kỳ 1986 – 1990 2.2 Việt Nam thời kỳ 1990 – đầu 2007 2.3 Việt Nam thời kỳ cuối 2007 -2008 2.4 Việt Nam thời kỳ 2009-2010 2.5 Tình hình lạm phát ở Việt Nam Qúi 1/2011 Phần 1.Những vấn đề chung về lạm phát (The common problems of inflation) Các quan niệm về lạm phát (The concept of inflation ): Đối với vấn đề lạm phát có rất nhiều trường phái với nhiều cách tiếp cận khác nhau và mỗi trường phái đều có những lý luận khác nhau. Trường phái lưu thông tiền tệ (School of currency circulation): Theo trường phái lạm phát "lưu thông tiền tệ" (đại diện là Miltơn Priedman) họ cho rằng lạm phát tiền tệ là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả hàng hoá tăng lên. Trường phái cầu kéo (Schools demand pull): Trường phái lạm phát do cầu kéo mà đại diện là J.Keynes cho rằng. Lạm phát là "cầu dư thừa tổng quát cho phát hành tiền ra quá mức sản xuất trong thời kỳ toàn dụng dẫn đến mức giá chung tăng. Trường phái giá cả và lạm phát (School of price and inflation): Trường phái lạm phát giá cả họ cho rằng lạm phát là sự tăng giá. Thực chất lạm phát chỉ là một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá. Trường phái K.Marx ( School of K.Marx ): K.Marx đã cho rằng "lạm phát là sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân phối lại sản phẩm xã hội giữa các giai cấp trong dân cư có lợi cho giai cấp tư sản. Trên đây là các quan điểm của các trường phái kinh tế học chính. Nói chung các quan điểm đều chưa hoàn chỉnh, nhưng đã nêu được một số mặt của hai thuộc tính cơ bản của lạm phát. Bàn lạm phát là vấn đề rộng và để định nghĩa được nó đòi hỏi phải có sự đầu tư sâu và kỹ càng. Khái niệm về lạm phát (Concept of inflation): Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá,giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên hang loạt.Lạm phát có những đặc trưng sau: + Hiện tượng gia tăng quá mức của lượng tiền có trong lưu thông dẫn đến đồng tiền bị mất giá. + Mức giá cả chung tăng lên. Thông thường lạm phát được đo lường bằng hai chỉ tiêu cơ bản là chỉ số giá tiêu dùng (CPI - Consumer price index) và chỉ số khử lạm phát GDP (GDP deflator). 1.2.1 Đo lường lạm phát (Measure of inflation): Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một "mức giá cả trung bình", gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó. Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:     * Chỉ số giá sinh hoạt (Cost of Living Index ) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung). * Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra). Ví dụ: CPI của năm 2005 là 196,8 và CPI của năm 2006 là 201,8 thì ta sẽ có tỷ lệ lạm phát năm 2006 là : * Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ. * Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI. * Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc. * Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của mình. Trong đó GDP danh nghĩa đo lường sản lượng theo giá năm hiện tại; GDP thực đo lường sản lượng theo giá năm gốc. Ví dụ: chọn năm 2000 làm cơ sở , tính chỉ số giá giảm phát năm 2008 so với 2007; biết năm 2007 GDP danh nghĩa là 82 tỷ , 2000 là 74 tỷ; năm 2008 GDP danh nghĩa là 88 tỷ , 2000 là 78 tỷ. Tính chỉ số GDP 2007 so 2000: Tính chỉ số GDP 2008 so 2000: Tính chỉ số lạm phát 2008 so 2007: 1.3 Phân loại lạm phát: 1.3.1 Căn cứ vào định lượng: Lạm phát vừa phải (Moderate inflation): Còn gọi là lạm phát một con số ,có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm .Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường ,đời sống của người lao động ổn định .Sự ổn định đó được biểu hiện : Giá cả tăng chậm ,lãi xuất tiền gửi không cao ,không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hang hoá với số lượng lớn … Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được ,những tác động của nó là không đáng kể. Lạm phát phi mã (high inflation): Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong phạm vi hai hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách. Nhìn chung lạm phát thì phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải. Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó không nhỏ .Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế. Siêu lạm phát (hyperinflation) : Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa cổ điển về siêu lạm phát do nhà kinh tế ngưười Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo định nghĩa này thì cho đến nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu lạm phát. Một trường hợp được ghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là nước Đức sau Thế chiến thứ nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mark vào tháng 1 năm 1922 lên đến 70.000.000 mark chỉ trong chưa đầy hai năm sau. Giá cả của các thứ khác cũng tăng tương tự. Từ tháng 1 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 lên 10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới nền kinh tế Đức đến mức nó thường được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức quốc xã và Thế chiến thứ hai. Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát có xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về ngân sách chính phủ. Vào thập niên 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng hoảng nợ của Thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm phát ở một số nước Mỹ La-tinh. Tiêu chí xác định siêu lạm phát: (1) người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền; (2) giá cả hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định; (3) các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn; (4) lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần trăm. Tóm lại ,siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng .Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra . 1.3.2 Căn cứ vào định tính: Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng . - Lạm phát cân bằng (inflation equilibrium): Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động ,tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp .Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền kinh tế nói chung. -Lạm phát không cân bằng (Inflation unbalanced):Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra. Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường. - Lạm phát dự đoán trước (Predicted inflation): là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn .Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt tâm lý ,người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước.Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống ,đến kinh tế . - Lạm phát bất thường(Unexpected inflation): xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện .Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý ,đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi .Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút .Đối với các nước đang phát triển lạm phát thường kéo dài , do đó các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ khác nhau : lạm phát kinh liên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm ,lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% và siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm . 1.4 Nguyên nhân lạm phát: 1.4.1 Các nguyên nhân chính: MỨC GIÁ GIÁ HÀNG HÓA PHI THƯƠNG MẠI GIÁ HÀNG HÓA THƯƠNG MẠI TỔNG CUNG TỔNG CẦU GIÁ THẾ GIỚI (GIÁ XĂNG DẦU VÀ CÁC ĐẦU VÀO NHẬP KHẨU KHÁC) TỶ GIÁ Chi phí đầu vào trong nước và nhập khẩu, giá phía cung và tỷ giá. Tiền tệ và tín dụng,lãi suất,thu nhập , tài sản,chi tiêu và thuế của chính phủ. (Các kênh truyền tải đến lạm phát) Lạm phát do cầu kéo (Demand pull – inflation): Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân chính là do tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp , hay nói cách khác là nền king tế đã vượt qua mức sản lượng tiềm năng của nó . Lúc này thì đồng tiền cầu sẽ vượt quá mức cung hàng hóa có giới hạn và sẽ làm cho chúng tăng giá . Do đó chính mức cầu cao hơn kéo giá lên cao hơn , đó là lạm phát do cầu kéo. Chúng ta bắt đầu với trạng thái cân bằng ban đầu trong dài hạn, tại đó đường LAS cắt đường SAS và AD0 ở mức giá P0. Sự gia tăng tổng cầu từ AD0 đến AD1 làm mức giá tăng từ P0 lên P1 và GDP thực tăng từ Yp đến Y1. Lạm phát do chi phí đẩy (cost push - inflation): Lạm phát chi phí đẩy là loại lạm phát do thu hẹp tổng cung hoặc do các doanh nghiệp buộc lòng phải nâng giá bán khi chi phí đầu vào tăng cao. Sự thu hẹp tổng cung có thể xuất phát từ sự khan hiếm về hàng hóa hay thiên tai bất ngờ làm cho quá trình sản xuất bị gián đoạn. Chi phí đầu vào tăng cao khi giá nguyên liệu đầu vào tăng hoặc giá lao động tăng.Điều này chỉ có thể đạt trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn . Lạm phát nguyên nhân tiền tệ (monetary inflation): Lạm phát do nguyên nhân tiền tệ xảy ra khi tốc độ tăng trưởng cung tiền vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sự của nền kinh tế. Sự mất cân đối này sẽ làm cho đồng tiền bị mất giá. Công thức mối quan hệ giữa thu nhập danh nghĩa PY và lượng tiền M thể hiện qua công thức: MV = PY, công thức này biến đổi ra ta được : %ΔP = %ΔM +%ΔV - %ΔY (*) - %ΔP là % tăng lên của giá hàng hóa hay còn gọi là lạm phát π (lạm phát π được đo lượng bằng GDP deflator) - %ΔM tăng trưởng của cung tiền - %ΔV- Thay đổi trong vòng quay tiền - %ΔY - Tăng trưởng thực của nền kinh tế Qua công thức đó chúng ta sự tăng giá (%ΔP) vế trái của phương trình (*) phụ thuộc vào 3 biến số của vế phải, thay đổi cung tiền, thay đổi vòng quay tiền và tăng trưởng thực của nền kinh tế. 1.4.2 Các nguyên nhân khác: Lạm phát đẻ ra lạm phát (inflation spawned inflation): Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước, họ sẽ không giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó … Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao ,từ đó lạm phát sẽ xảy ra .Có thể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng ,cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát. Thâm hụt ngân sách (budget deficit relative): Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ để vay vốn từ người dân nhằm bù đắp phần thiếu hụt .Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy mà làm tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát.Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền.Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền ,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát .Tuy nhiên,đối với các nước đang phát triển ,việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế .Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất .Vì thế mà khi thâm hụt ngân sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây lạm phát càng lớn. Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát hành trái phiếu có lợi hơn.Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về vốn sẽ tăng và lãi xuất tăng cao hơn .Lúc này để giảm lãi xuất trên thị trưòng Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó .Như thế mức cung tiền lại tăng lên và dễ gây lạm phát. Tỷ giá hối đoái (exchange rate): Khi tỷ giá tăng đồng bản tệ bị mất giá, khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái .Mặt khác khi tỷ giá hối đoái tăng ,chi phí cho các nguyên vật liệu, hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên .Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao. Lạm phát do cơ cấu ( Inflation caused by structural): Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó. Lạm phát do xuất khẩu ( Inflation by exporting): Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng. Lạm phát do nhập khẩu (Inflation due to imported): Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên. Lạm phát do cầu thay đổi (inflation due to change of demand): Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát. 1.5 Tác động của lạm phát: 1.5.1 Tác động chung: Sự gia tăng mức giá chung hàm ý sự giảm sức mua của tiền tệ. Đó là bởi vì khi mức giá chung tăng, mỗi đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Ảnh hưởng của lạm phát được phân đều trong nền kinh tế, và kết quả là chi phí của một số mặt hàng và lợi nhuận của một số mặt hàng sẽ bị ẩn giấu bởi sự sụp giảm sức mua của tiền tệ này. Ví dụ: khi xảy ra lạm phát, với những chủ cho vay hoặc người gửi tiền, những người được trả một mức lãi suất cố định với những khoản cho vay hoặc khoản tiền gửi, sẽ bị giảm sức mua của những khoản tiền lãi suất của họ, trong khi những người vay họ lại được hưởng lợi. Những cá nhân hoặc tổ chức có tài sản tiền mặt sẽ bị giảm sức mua của những cổ phần họ nắm giữ. Tăng khoản tiền thanh toán cho công nhân và những người hưởng lương hưu thường chậm hơn tỷ lệ lạm phát, đặc biệt với những người được thanh toán những khoản tiền cố định. Tăng mức giá (lạm phát) làm giảm giá trị thực của tiền (đồng tiền chức năng) và những mặt hàng khác có bản chất tiền tệ (ví dụ các khoản vay và trái phiếu). Tuy nhiên, lạm phát không có ảnh hưởng đến giá trị thực của các khoản mục tiền tệ (ví dụ hàng hóa, vàng, bất động sản). 1.5.2 Tác động tiêu cực: Tác động đến lĩnh vực sản xuất: Tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và giá đầu ra biến động không ngừng gây ra sự mất ổn định đối với nhà sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm cho nghiệp vụ kế toán không còn chính xác nữa. Những doanh nghiệp có tỷ xuất lợi nhuận thấp sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. Khi lạm phát xảy ra với một tỷ lệ chấp nhận được thì sẽ có lợi cho nền kinh tế. Lãi xuất giảm khuyến khích doanh nghiệp gia tăng vốn đầu tư để mở rộng sản xuất. Đồng thời cũng khuyến khích tiêu dùng làm cho hàng hóa được bán chạy hơn. Do đó, lúc này lạm phát sẽ có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế. Tác động đến lĩnh vực lưu thông: Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ, tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hóa, làm mất cân đối quan hệ cung cầu trên thị trường. Đồng thời do đồng tiền đang bị mất giá nên không ai muốn giữ tiền. Tiền nhanh chóng bị đẩy ra kênh lưu thông. Do có nhiều người tham gia vào lưu thông nên lĩnh vực này trỏ nên hỗn loạn, tốc độ lưu thông tiền tăng vọt và điều này càng thúc đẩy lạm phát gia tăng. Tác động đến lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Lạm phát làm cho quan hệ thương mại, tín dụng, ngân hàng bị thu hẹp. Lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc giảm sút quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những các nhân, doanh nghiệp đang có lượng tiền nhàn rỗi trong tay. Ngân hàng gặp khó khăn trong viêc huy động vốn, hệ thông ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mức lãi suất ổn định. Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Khi tỷ lệ lạm phát cao, muốn lãi suất thực tế ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát. Trong khi đó, người đi vay là những người có lợi từ sự mất giá của đồng tiền. Do vậy hoạt động của hệ thống ngân hang không còn bình thường nữa, chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế. Tác động đến cán cân ngân sách-chính sách tài chính của nhà nước: Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa. Khi lạm phát xảy ra thì những thộng tin trong xã hội bị phả hủy do biến động của giá cả và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó khó cố thể phân biệt được doanh nghiệp làm ăn tốt hay kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu vốn, giảm các nguồn thu. Do đó, các khoản chuyển nhượng, trợ cấp, phúc lợi xã hội hay các khoản đầu tư của nhà nước trong các ngành nghề, lĩnh vực đều bị cắt giảm. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiên và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện. Lạm phát có xu hướng phân phối lại của cải từ những người có tài sản với lãi suất danh nghĩa cố định sang tay những người có những khoản nợ với lãi suất danh nghĩa cố định. 1.5.3 Tác động tích cực: Điều chỉnh thị trường lao động: Keynes cho rằng việc điều chỉnh tiền lương danh nghĩa xuống sẽ chậm. Nó có thể dẫn tới trạng thái mất cân bằng kéo dài và tỷ lệ thất nghiệp cao trong thị trường lao động. Bởi vì lạm phát sẽ làm giảm tiền lương thực tế khi tiền lương danh nghĩa được giữ ở mức ổn định, Keynes cho rằng một số lạm phát sẽ tốt cho nền kinh tế, bởi vì nó sẽ cho phép thị trường lao động đạt được trạng thái cân bằng nhanh hơn. Giảm nợ :Các chủ nợ, những người có khoản nợ với tỷ lệ lãi suất danh nghĩa cố định sẽ bị giảm tỷ lệ lãi suất “thực tế” khi tỷ lệ lạm phát tăng. Tỷ lệ lãi suất “thực tế” của một khoản vay bằng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát.[tỷ giá không có thực – tỷ giá thảo luận] (R=n-i). Ví dụ, nếu bạn vay tiền với tỷ lệ lãi suất đưa ra là 6% và tỷ lệ lạm phát là 3%, tỷ lệ lãi suất thực tế mà bạn sẽ trả cho khoản vay là 3%. Điều này cũng sẽ đúng khi bạn vay tiền với tỷ lệ lãi suất cố định là 6% và tỷ lệ lạm phát tăng tới 20% bạn sẽ có tỷ lệ lãi suất thực tế là -14%. Các ngân hàng và các chủ cho vay khác điều chỉnh rủi ro lạm phát này hoặc bằng cách tính phí lạm phát trong chi phí cho vay tiền hoặc bằng cách tạo ra một tỷ lệ lãi suất ban đầu cao hơn hoặc bằng cách quy định một tỷ lệ lãi suất biến đổi. Phạm vi đề phòng:Những công cụ chủ yếu để kiểm soát cung tiền là khả năng xác định tỷ lệ chiết khấu, tỷ lệ mà ở đó các ngân hàng có thể mượn tiền của ngân hàng trung ương, các hoạt động thị trường mở, đó là sự can thiệp của ngân hàng trung ương vào thị trường trái phiếu với mục đích tác động đến tỷ lệ lãi suất danh nghĩa. Nếu một nền kinh tế tự thấy nó đang ở trong giai đoạn suy thoái với tỷ lệ lãi suất danh nghĩa thấp hoặc thậm chí bằng không, thì khi đó ngân hàng không thể giảm những tỷ lệ này (bởi vì tỷ lệ lãi suất danh nghĩa không thể âm) để kích thích nền kinh tế - tình trạng này được xem như là một bẫy tiền mặt. Một tỷ lệ lạm phát ở mức vừa phải sẽ đảm bảo rằng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa sẽ luôn lớn hơn không để nếu nhu cầu tăng thì ngân hàng vẫn có thể giảm tỷ lệ lãi suất danh nghĩa. Hiệu ứng Tobin:Nhà kinh tế học James Tobin, người đã từng đạt giải Nobel cho rằng một mức độ lạm phát vừa phải có thể tăng đầu tư trong một nền kinh tế , dẫn đến tăng trưởng nhanh hơn hoặc ít nhất cũng đạt được một mức thu nhập ổn định cao hơn. Đó là do thực tế lạm phát làm cho lợi nhuận từ những tài sản tiền tệ giảm so với lợi nhuận từ bất động sản chẳng hạn như vốn hiện vật. Để tránh lạm phát, các nhà đầu tư nên thay đổi từ việc n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docthuyet_trinh_lam_phat_va_chinh_sach_dieu_hanh_lam_phat_o_viet_nam_20_5.doc