Bài viết Thất nghiệp và những giải pháp tìm kiếm việc làm

Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế xã hội tồn tại ở nhiều thời kì , nhiều xã hội . Thất nghiệp là vấn đề trung tâm của các xã hội hiện đại . Tỷ lệ thất nghiệp cao nó trực tiếp hay gián tiếp tác động tới mọi mặt đời sống xã hội .

Khi tỷ lệ thất nghiệp cao thì tài nguyên bị lãng phí , thu nhập của người dân bị giảm sút . Về mặt kinh tế , mức tỷ lệ thất nghiệp cao đi liền với tỷ lệ sản lượng bị bỏ đi hoặc không sản xuất . Về mặt xã hội , thất nghiệp gây ra những tổn thất về người , xã hội , tâm lý nặng nề .

Mặc dù , thất nghiệp gây ra những hậu quả xấu đối với xã hội nhưng đòi hỏi một xã hội không có thất nghiệp là vấn đề rất khó khăn , mà các chính sách , các biện pháp của Chính phủ nhằm mục đích giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống đúng bằng thất nghiệp tự nhiên . Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên được áp dụng ở mỗi quốc gia khác nhau , có thể không bằng nhau như ở Mỹ tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên 5 - 6% , Nhật tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 3 - 4%

Đối với nước ta là một nước có dân số đông thì vấn đề việc làm cho người lao động đang gặp rất nhiều khó khăn , đặc biệt là những vùng ở nông thôn . Việc giải quyết việc làm đang là vân đề bức xúc của toàn xã hội . Trong bài viết này em muốn làm rõ thêm vấn đề " Thất nghiệp và những giải pháp tìm kiếm việc làm " . Do lượng kiến thức và thời gian có hạn nên bài viết của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót mong cô hướng dẫn và bổ sung thêm để bài viết sau em có thể thực hiện tốt hơn

doc24 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bài viết Thất nghiệp và những giải pháp tìm kiếm việc làm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế xã hội tồn tại ở nhiều thời kì , nhiều xã hội . Thất nghiệp là vấn đề trung tâm của các xã hội hiện đại . Tỷ lệ thất nghiệp cao nó trực tiếp hay gián tiếp tác động tới mọi mặt đời sống xã hội . Khi tỷ lệ thất nghiệp cao thì tài nguyên bị lãng phí , thu nhập của người dân bị giảm sút . Về mặt kinh tế , mức tỷ lệ thất nghiệp cao đi liền với tỷ lệ sản lượng bị bỏ đi hoặc không sản xuất . Về mặt xã hội , thất nghiệp gây ra những tổn thất về người , xã hội , tâm lý nặng nề . Mặc dù , thất nghiệp gây ra những hậu quả xấu đối với xã hội nhưng đòi hỏi một xã hội không có thất nghiệp là vấn đề rất khó khăn , mà các chính sách , các biện pháp của Chính phủ nhằm mục đích giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống đúng bằng thất nghiệp tự nhiên . Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên được áp dụng ở mỗi quốc gia khác nhau , có thể không bằng nhau như ở Mỹ tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên 5 - 6% , Nhật tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 3 - 4% … Đối với nước ta là một nước có dân số đông thì vấn đề việc làm cho người lao động đang gặp rất nhiều khó khăn , đặc biệt là những vùng ở nông thôn . Việc giải quyết việc làm đang là vân đề bức xúc của toàn xã hội . Trong bài viết này em muốn làm rõ thêm vấn đề " Thất nghiệp và những giải pháp tìm kiếm việc làm " . Do lượng kiến thức và thời gian có hạn nên bài viết của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót mong cô hướng dẫn và bổ sung thêm để bài viết sau em có thể thực hiện tốt hơn. I. Các lý thuyết về thất nghiệp 1. Các khái niệm về thất nghiệp. Trong thực tế, không phải mọi người đều muốn có việc làm . Vì vậy không thể nói rằng những người không có việc làm đều là những người thất nghiệp. Để có cơ sở xác định thất nghiệp và tỷ lệ thất n ghiệp,chúng ta cần phải phân biệt một số khái niệm sau: Những người trong độ tuổi lao động là những người ở độ tuổi có nghĩa vụ và quyền lợi lao động theo quy định đã ghi trong hiến pháp. Lực lượng lao động là số người trong độ tuổi lao động đang có hoặc chưa có việc làm nhưng đang tìm kiếm việc làm. Người có việc là những người đang làm trong các cơ sở kinh tế,văn hoá, xẵ hội,trong lực lượng vũ trang và trong các cơ quan nhà nước ... Người thất nghiệp là những người hiện chưa có việc nhưng mong muốn và đang tìm kiếm việc làm. Ngoài những người có việc làm và thất nghiệp,những người còn lại trong độ tuổi lao động được coi là những người không nằm trong lực lượng lao động, bao gồm người về hưu, đi học, nội trợ gia đình, những người không có khả năng lao động do đau ốm, tàn tật...và một phận không muốn tìm việc làm với những lý do khác nhau. 2. Tỷ lệ thất nghiệp: - Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm(%) số người thất nghiệp so với tổng số ngừơi trong lực lượng lao động. - Tỷ lệ thất nghiệp là chỉ tiêu phản ảnh khái quát tình trạng thất nghiệp của một quốc gia. Cũng vì thế mà có những quan điểm khác nhau về nội dung và phương pháp tính toán để có khả năng biểu thị đúng và đầy đủ đặc điểm nhiều vẻ của tình trạng thất nghiệp thực tế, đặc biệt là ở những nước đang phát triển.Việc đưa ra các giải pháp nhằm hạ tỷ lệ thất nghiệp là mối quan tâm của mọi quốc gia, mọi xã hội. 3.Các loại thất nghiệp. a) Phân theo loại hình thất nghiệp: Một trong những vấn đề mà các nhà quản lý rất quan tâm là con số ngươì thất nghiệp tập trung ở đâu, bộ phận dân cư nào,ngành nghề nào ... Cần phải biết những điều đó để hiểu rõ đặc điểm,tính chất,mức độ tác hại...của thất nghiệp trong thực thế. Căn cứ vào tình trạng trạng phân bố thất nghiệp trong dân cư có các dạng sau : - Thất nghiệp chia theo giới tính(nam, nữ) - Thất nghiệp chia theo lứa tuổi (tuổi-nghề) - Thất nghiệp chia theo vụng lãnh thổ (thành thị -nông thôn) - Thất nghiệpchia theo nghành nghề(nghành sản xuất,dịch vụ) - Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc Thông thường trong xã hội, tỷ lệ thất nghiệp đối với nữ giới cao hơn nam giới, tỷ lệ thất nghiệp ơ nhữnh người trẻ tuổi cao hơn so với người có tuổi với tay nghề và kinh nghiệm lâu năm...Việc nắm được con số này sẽ giúp cho nhà lãnh đạo vạch ra những chính sáchthích hợp để có thể sử dụng tốt hơn lực lượng lao động dư thừa trong từng loại hình thất nghiệp cụ thể b) Phân loại lý do thất nghiệp: Có thể chia làm bốn loại như sau: -Bỏ việc : một số người tự nguyện bỏ việc hiện tại của mình về những lý do khắc nhau, như cho rằng lư ơng thấp, điều kiện làm việc không thích hợp... -Mất việc: Một số người bị sa thải hoặc trở nên dư thừado nhữnh khó khăn cửa hãng trong kinh doanh -Mới vào :Là những người lần đầu bổ xung vào lượng lao động nhưng chưa tìm được việc làm ( thanh niên đến tuổi lao động đang tìm việc, sinh viên tốt nghiệp đang chờ công tác ...) -Quay lại :Những người đã từng có việc làm, sau đấy thôi việc và thậm chí không đăng ký thất nghiệp, nay muốn quay lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm Kết cục những người thất nghiệp không phải là vĩnh viễn. Người ta ra khỏi đội quân thất nghiệp theo các hướng ngược lại .Một số tìm được việc làm, một sốkhác từ bỏ việc tìm kiếm công việc và hoàn toàn rút ra khỏi con số lực lượng lao động . Mặc dù trong nhóm rút lui hoàn toàn này có một số người do điều kiện bãn thân hoàn toà không phù hợp so với yêu cầu của thị trường lao động, nhưnh đa phần trong số họ không hứng thú làm việc, những người chán nản về triển vọng có thể tìm đựoc việc làm và quyết địng không làm việc nữa. Như vậy số người thất nghiệp không phải là con số cố định mà là con số mang tính thời điểm . Nó luôn biến đổi không ngừng theo thời gian .Thất nghiệp là một quá trình vận động từ có việc, mới trưởng thành trở lên thất nghiệp ròi ra khỏi thạng thái đó .Vì thế, việc nghiên cứu dòng lưu chuyển thất nghiệp là rất có ý nghĩa Gióng như một bể nước, khi dòng vào (số người thất nghiệp ) lớn hơn dòng ra (số người tìm được việc mới ) thì quy mô thất nghiệp sẽ giảm xuống . Khi dòng thát nghiệp cân bằng thì quy mô thất nghiệp sẽ không đổi, tỷ lệ thấtnghiệp tương đối ổn định .Dòngssss Thất nghiệp nói trên đồng thời cũng phản ảnh sự vân đọng hoặc những biến đọng của các thi trường lao động . Quy mô thất nghiệp còn gắn với khoảng thời gian thất nghiệp trung bình . Trong một đợt thất nghiệp, mỗi một người có một thời gian thất nghiẹp liên tục nhát định . Độdài thời gian này có sự khác nhau giữa các nguyên nhân . Khoảng thời gian trung bình là đọ dài bình quân thời gian mất c) Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp Việc tìm hiểu nguồn gốc thất nghiệp có ý nghĩa phân tích sâu sắc về thực trạng thất nghiệp, từ đó tìm ra hướng giải quyết +Thất nghiệp tạm thời : Thất nghiệp tạm thời xảy ra khi có một số người lao độngthi gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn, phù hợp với ý muốn riêng (lương cao hơn,điều kiện làm việc ttốt hơn...)hoặc nhưng người bước vào thị trường lao động hoặc đang tìm kiến việc làm hoặc đang chờ đợi đi làm ... Mọi xã hội trong bất kỳ thời điểm nào cũng tồn tại loại thất nghiệp này + Thất nghiệp cơ cấu : Thất nghiệp cơ cấu xẩy ra khi có sự mất cân đối cung cầu giữa các loạilaođộng ( giữa các nghành,nghề, khu vực) .Loại này gắn liền với sự biến động cơ cấu kinh tế và khẳ năng điểu chỉnh chung của thị trường laođộng (tổ chưc đào tạo lại, môi giới ...) khi sự biến động này là mạnh và kéo dài, nạn thất nghiệp trở lên trầm trọng và chuyển sang thấtnghiệp dài hạn + Thất nghiệp do thiếu cầu Loại thất nghiệp này xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm xuống. Nguyên nhân chính ở đây là sự suy giảm tổng cầu .Loại này còn gọi là thất nghiệp chu kỳ bởi ở các nền kinh tế thị trường, nó gắn liền với thời kỳ syu thoái của chu kỳ kinh doanh .Dấu hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của loại này là tình trạng thất nghiệp xảy ra trà lan ở khắp mọi, mọi nghành nghề .Đây là thất nghiệp theo lý thuyết của Keynes khi tổng cầu giảm mà tiền lương và giá cẩ chưa kịp điều chỉnh để phục hội mức hữunghp toàn phần .Tổng cầu thiếu vì nó thấp hơn so với tổng cầu trong tình trạng hưu nghiệp toàn phần . chúng ta đã biết rằng khi tiền lương và giá cả được điều chỉnh theo mức cân bằng dài hạn mới thì một mức giame sút tổng cầu sẽ làm cho sẳn lượng và mức hữu nghiệp thấp hơn. Một số công nhân muốn làm việc tại mức lương thực tế hiện hành nhưng không thể tìm được việc làm . Chr có trong dài hạn, tiền lương và giá cãegiảm đến mức đủ để tăng nhanh mứclương và giá cả sẽ giảm lãi xuất đến mức cần thiết để phục hồi tổng cầu ở mức hữu nghiệp toàn phần vãhỉ có lúc đó thì thất nghiệp do thiếu xầi mới bị triệt tiêu. + Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: Loại thất nghiệp này còn được gọi là thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển .Nó xảy ra khi tiền lương được ấn định khong bởi các lực lượng thị trường và cao hơn mức lươ ng cân bằng thực tế của thị trường lao động .Vì tiền lương không chỉ quan hệ đến sự phân bố thu nhập găn liền với kết quả đến lao động mà còn quan hệ đến mức sống tối thiểu nên nhiều quốc gia (chính phủ hoặc công đoàn) do có quy định cứng nhắc về mức lương tối thiểu, hạn chế sự linh hoạt của tiền lương (ngược lại với sự năng động của thị trường lao động ) dẫn đêns một bộ phận lao động mất việc làm . Các phân tích hiện đại về thất nghiệp cũng sử dụng các dạng thất nghiệp này nhưng phân loại chúng hơi khác nhau một chút để làm sáng rõ các khía cạnh hành vi và hậu qủa của chúng đối với chính sách của chính phủ .Ccách phân tích hiện tại nhấn mạnh về sự khác nhau giữa thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện . 4. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và các nhân tố ảnh hưởng đến thất nghiệp tự nhiên. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên Mức lương thực tế Số lượng công nhân W2 W* N2 N1 N* AJ LF A B C E LD (hình 2) Hình 2 trên đây trình bày về thị trường lao động. Đường cầu về lao động LĐ dốc xuống cho thấy rằng các hãng sẽ thuê nhiều nhân công hơn khi tiền lương thực tế thấp hơn. Đồ thị LF cho biết có bao nhiêu người muốn tham gia lực lượng lao động tại mỗi mức lương thực tế. Chúng ta giả thiết rằng một mức gia tăng tiền lương thực tế sẽ làm tăng số người muốn làm việc. Đồ thị AJ cho biết có bao nhiêu người chấp nhận công việc sẵn có tại mỗi mức lương thực tế. Đồ thị này nằm bên trái đường LF vì luôn có một số người nằm trong giai đoạn chuyển công việc taị kỳ thời điểm nào, vừa vì một mức lương lao động mặc dù họ chỉ chấp nhận làm việc nếu họ tìm ra được việc mang lại mức lương cao hơn một ít so với mức trung bình. Cân bằng thị trường lao động xảy ra tại điểm E. Mức hữu nghiệp N* là mức cân bằng hay là mức hữu nghiệp toàn phần. Khoảng cách EF gọi là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là tỷ lệ thất nghiệp khi thị trường lao động cân bằng. Con số thất nghiệp này là hoàn toàn tự nguyện. Tại mức tiền lương cân bằng thực tế W* có N1 người muốn ở trong lực lượng lao động nhưng chỉ có N* người chấp nhận công việc tại mức lương cân bằng thực tế. Có thể nói thất nghiệp tự nguyện bao gồm số người thất nghiệp tạm thời và số người thất nghiệp cơ cấu vì đó là những người chưa sẵn sàng làm việc với mức lương tương ứng, còn đang tìm kiếm những cơ hội tốt hơn. Nếu xã hội có chế độ quy định mức lương tối thiểu, giả sử ở W2 cao hơn mức lương cân bằng của thị trường lao động (W* ). ở mức lương W2 cung lao động sẵn sàng chấp nhận việc làm (AJ) sẽ lớn hơn cầu lao động. Đoạn AB trên hình vẽ biểu thị sự chênh lệch này. Tổng con số thất nghiệp bây giờ được xác định bằng đoạn AC. Với tư cách cá nhân, một số AB công nhân vẫn muốn làm việc tại mức lương W2 nhưng không thể tìm được việc làm vì các hãng chỉ cần số công nhân tại mức của điểm A. Về cá nhân, này bị thất nghiệp một cách không tự nguyện. Một công nhân gọi là thất nghiệp không tự nguyện nếu họ vẫn muốn làm việc ở mức lương hiện hành. Tuy nhiên thông qua công đoàn các công nhân đã quyết định theo tập thể cho mức tiền lương W2 lớn hơn so với mức cân bằng, do vậy làm giảm mức hữu nghiệp. Vì vậy đối với công nhân nói chung, chúng ta phải coi con số thất nghiệp thêm như là tự nguyện. Do đó chúng ta cũng tính thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển vào con số của tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Nếu như trong dài hạn công đoàn duy trì mức tiền lương W2 thì nền kinh tế sẽ vẫn tồn tại ở điểm A và AC là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Thất nghiệp do thiếu cầu hay thất nghiệp theo lý thuyết Keynes xảy ra khi tổng cầu suy giảm, sản xuất đình trệ, công nhân mất việc ... nên loại thất nghiệp này gọi là không tự nguyện. Thất nghiệp dạng này được gây ra bởi sự điều chỉnh chậm hơn của thị trường lao động so với sự điều khiển của các cá nhân hoặc của công đoàn. Cách phân chia như trên giúp chúng ta hiểu rõ các chính sách cần thiết của chính phủ để giải quyết các vấn đề thất nghiệp. Chúng ta đã biết rằng trong dài hạn, nền kinh tế có thể từ từ quay trở lại trạng thái hữu nghiệp toàn phần thông qua việc điều chỉnh dần dần tiền lương và giá cả, nên thất nghiệp theo lý thuyết Keynes cuối cùng rồi cũng mất đi. Nhưng trong ngắn hạn, thất nghiệp theo lý thuyết Keynes là một phần trong tổng số thất nghiệp mà chính phủ có thể góp phần giảm bớt bằng cách sử dụng chính sách tài khoá và tiền tệ để làm tăng nhanh tổng cầu chứ không phải ngồi chờ cho tiền lương và giá cả giảm để tăng mức cung ứng thực tế của tiền và giảm lãi xuất. Ngược lại tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cho chúng ta biết phần trăm con số thất nghiệp mà không thể khử bỏ được chỉ bằng cách phục hồi tổng cầu trở lại mức hữu nghiệp toàn phần. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là mức thất nghiệp trong trạng thái hữu nghiệp toàn phần. Để giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ cần đến các chính sách trong cung tác động đến các động lực trên thị trường lao động. Các nhân tố ảnh hưởng đến thất nghiệp tự nhiên: Có hai nhân tố chính ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là khoảng thời gian thất nghiệp và tần số thất nghiệp. Khoảng thời gian thất nghiệp Giả sử rằng thường xuyên có một lượng người nhất định bổ sung vào đội ngũ tìm kiếm việc làm và nêú mỗi người phải chờ đợi quá nhiều thời gian mới tìm được việc thì trong một thời kỳ nào đó số lượng người thất nghiệp trung bình tăng lên, tỷ lệ thất nghiệp sẽ bị nâng cao. Thời gian chờ đợi nói trên được gọi là “Khoảng thời gian thất nghiệp” và nó phụ thuộc vào: Cách thức tổ chức thị trường lao động. Cấu tạo nhân khẩu của những người thất nghiệp (tuổi đời, tuổi nghề, ngành nghề ....). Cơ cấu việc làm và khả năng có sẵn việc. Mọi chính sách cải thiện các yếu tố trên sẽ dẫn đến rút ngắn khoảng thời gian thất nghiệp. Tần số thất nghiệp. Lần số trung bình một người lao động bị thất nghiệp trong thời kỳ nhất định (ví dụ trong một năm bị thất nghiệp hai lần). Tần số thất nghiệp phụ thuộc vào: Sự thay đổi nhu cầu lao động của các doanh nghiệp. Sự gia tăng tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động. Trong ngắn hạn, khi tổng cầu không đổi nhưng có sự biến động về cơ cấu của nó và khi có tỷ lệ tăng dân số cao thì tần số thất nghiệp bị đẩy lên nhanh. Tần số thất nghiệp lớn có nghĩa là thường xuyên có số thất nghiệp nhiều, tỷ lệ thất nghiệp cao. Hạ tỷ lệ tăng dân số và ổn định kinh tế là hướng đi quan trọng giữ cho tần số thất nghiệp ở mức thấp. Chú ý rằng, ở các nước có nền kinh tế đang phát triển, loại “dân số hoạt động kinh tế tự do” (buôn bán nhỏ, sản xuất nhỏ ... ) có số người tham gia đáng kể nhưng thu nhập rất thấp và không ổn định. Họ luôn mong muốn tìm kiếm việc làm mới có thu nhập cao hơn và ổn định hơn và như vậy họ là nguồn dự trữ lớn cho sự gia tăng lực lưọng lao động. ở các nước phát triển khi có trợ cấp thất nghiệp cũng có thể làm tăng tỷ lệ thất nghiệp do có điều kiện thuận lợi để kéo dài thời gian tìm việc. 5. Tác động của thất nghiệp tới đời sống kinh tế xã hội: Công ăn việc làm gắn liền với kinh tế thị trường. Khi không có công ăn việc làm người ta sẽ trở thành thất nghiệp. Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải của mọi quốc gia có nền kinh tế thị trường cho dù quốc gia đó có trình độ kém phát triển hay phát triển cao. Trước hết, thất nghiệp là đòn rất mạnh giáng vào tâm lý và đời sống của mọi người và từ đó ảnh hưởng mãnh liệt đến đời sống xã hội. Thanh niên mới lớn không có việc làm dễ sinh bi quan, chán nản hoặc hận đời, xung đột với gia đình, dần dần nhiễm các thói hư, tật xấu, làm trầm trọng thêm các tệ nạn xã hội như cướp của, mại dâm... Số người ngoài tuổi thanh niên bị thất nghiệp thường là nguyên nhân của các cuộc tan vỡ gia đình, sa sút nhân cách (nghiện hút, lừa đảo trộm cắp ...) gây suy thoái đời sống xã hội. Thứ hai là trong cơ chế thị trường nhiều thành phần, nếu nhà nước không có các thể chế chặt chẽ, số người không có việc làm sẽ phát triển sống bằng đủ cách, từ việc khai thác bừa bãi tài nguyên (vàng, đá quý, gỗ, than, quặng kim loại...) đến các băng đảng buôn lậu, làm hàng giả, trộm cắp đồ cổ ... làm hại nền kinh tế, văn hoá và môi trường tự nhiên của đất nước. Thứ ba là do thừa lao động và giải quyết việc làm, nước ta không thể tiến nhanh lên trình độ hiện đại hoá vì càng trang bị hiện đại, càng cần ít lao động.Trong một thời gian khá dài, chúng ta vẫn cần có nhiều việc dùng ít máy móc và nhiều lao động để cố gắng giải quyết một phần nạn thất nghiệp. Thứ tư là việc gia tăng đội quân thất nghiệp lên quá nhanh khiến nhà nước phải bỏ ra những khoản chi phí lớn để trợ cấp cho những người thất nghiệp, mở các lớp dạy nghề...làm cho ngân sách bị thu hẹp, không thể mở rộng đầu tư, xây dựng các dự án kinh tế khác. Như vậy tác hại của thất nghiệp là rất rõ ràng. Người ta có thể tính toán được sự thiệt hại kinh tế. Đó là sự giảm sút về to lớn về sản lượng đôi khi còn kéo theo nạn lạm phát nghiêm trọng. Sự thiệt hại về kinh tế do thất nghiệp mang lại ở nhiều nước lớn đến mức không thể so sánh với thiệt hại do tính không hiệu quả của bất cứ hoạt động kinh tế vĩ mô nào khác... I. Các lý thuyết nhằm hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp 1.Loại bỏ thất nghiệp theo lý thuyết kinh tế học trọng cung Kinh tế học trọng cung là việc sử dụng các động lực kinh tế vi mô thay đổi mức hữu nghiệp toàn phần, mức sản lượng tiềm tàng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Chúng ta nghiên cứu dưới đây các chính sách trọng cung để giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên: a) Cắt giảm thuế thu nhập: Thuế thu nhập làm cho tiền lương sau khi nộp thuế mà các hộ gia đình nhận được sẽ thấp hơn so với tiền lương ban đầu mà các hãng trả. Khi đoạn thẳng đứng AB đo số tiền mà mỗi công nhân nộp thuế thu nhập, thì con số hữu nghiệp cân bằng là N1, tức là số lượng công nhân mà các hộ gia đình muốn cung ứng tại mức tiền lương đã trừ đi thuế W3 và các hãng nhu cầu tại mức tiền lương ban đầu W1. Tại mức tiền lương sau khi nộp thuế W3 thì tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là đoạn thẳng nằm ngang BC, tức là số lượng công nhân trong lực lượng lao động không muốn làm việc tại mức lương hiện hành đem về nhà(đã trừ thuế). Giả sử thuế thu nhập được bãi bỏ, trạng thái cân bằng mới của thị trường lao động diễn ra tại điểm E. Khi đó mức hữu nghiệp sẽ tăng lên từ N1 đến N2; và mặc dù có nhiều người hơn muốn ở trong lực lượng lao động vì số tiền được đưa về nhà tăng lên từ W3 đếnW2, nhưng tỷ lệ thất nhiệp tự nhiên đã được giảm khoảng EF nhỏ hơn. Như vậy, đối với mức trợ cấp thất nghiệp cố định, mức gia tăng tiền lương sau nộp thuế từ W3 đến W2 sẽ làm giảm mức thất nghiệp tự nguyện. Tương tự, việc thay đổi các mức đóng góp của các hãng và và công nhân và công nhân vào bảo hiểm quốc gia sẽ làm thay đổi tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. các khoản đóng góp này đóng vai trò như là thuế thu nhập, do đó việc cắt giảm các khoản đóng góp này sẽ làm tăng mức hữu nghiệp cân bằng, tăng mức tiền công cân bằng được đưa về và giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. b) Các chính sách nhằm vào cung ứng lao động Chúng ta đã biết bằng cách hạn chế mức cung ứng lao động, công đoàn có thể buộc các hãng đẩy đường cầu về lao động của họ lên cao hơn. Kết quả là mức tiền lương cân bằng thực tế sẽ cao hơn mức hữu nghiệp cân bằng sẽ thấp hơn. Chúng ta nói rằng khi nâng mức lương thực tế, các công đoàn đã tăng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Do vậy bất kỳ sự can thiệp nào của chính phủ vào thị trường lao động nhằm giảm sức mạnh độc quyền của công đoàn nên được coi là chính sách trọng cung nhằm mục đích giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và tăng mức hữu nghiệp cân bằng. Các chính sách như vậy sẽ bao gồm những thay đổi về luật lao động của công đoàn, hoặc là các chính sách thu nhập-điều tiết trực tiếp tiền công. Như trên chúng ta đã thấy rằng thất nghiệp dai dẳng và thất nghiệp do cơ cấu là hai cấu phần quan trọng trong trong tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Các chính sách nhằm giảm thất nghiệp dai dẳng và thất nghiệp do cơ cũng nên đưa vào kinh tế học trọng cung. Mục tiêu của các chính sách này là nhằm chuyển dịch đường AJ sang phải so với một đường cung ứng lao động đã xác định LF. Trong số các chính sách này chúng ta tính đến các khoản trợ cấp do công nhân dư thừa để đào tạo lại tay nghề phù hợp, các biện pháp của nhà nước để giúp học sinh tốt nghiệp phổ thông có được tay nghề và kinh nghiệm làm việc lúc ban đầu và những biện pháp đặc biệt khuyến khích những người thất nghiệp lâu quay laị lực lượng lao động. Bằng cách làm cho lực lượng lao động có nghề nghiệp phù hợp hơn nhu cầu, những chính sách như vậy nhằm mục đích tạo điều kiện cho các hãng đưa ra các mức lương mà các công nhân đang thất nghiệp có thể chấp nhận được. Do vậy các biện pháp này là giảm con số thất nghiệp tự nhiên. c) Chính sách nhằm vào nhu cầu lao động: Đối với các hãng sản xuất, những cú sốc bất lợi về cung ứng sẽ làm giảm nhu cầu đối với lao động, làm cho đường ccầu về lao động dịch chuyển xuống phía dưới. Khi đó sẽ làm cho mức hữu nghiệp cân bằng giảm xuống. Đồng thời vì tiền lương thực tế cân bằng giảm làm cho một số người không muốn lao động nữa do đó khiến cho tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng lên. Kinh tế học trọng cung có mục tiêu làm đảo ngược ảnh hưởng này. Nếu các hãng được khuyến khích đầu tư thêm vào sản xuất thì đường cầu về lao động sẽ tăng lên. Do vậy mức lương cân bằng sẽ tăng lên và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên giảm xuống. Do nhu cầu đầu tư của các hãng phụ thuộc vào ba vấn đề: Sản lượng tương lai và triển vọng lợi nhuận, chi phí cho lao động và lãi xuất, nên để thực hiện được mục tiêu trên nhà nước có thể tác động đến giá cả của tư liệu lao động mới bằng các trợ cấp (trợ cấp đầu tư) hoặc giảm thuế. Ví dụ: Các hãng có thể được giá mua tư liệu lao động mới trên cơ sở lợi nhuận chưa đánh thuế, như vậy giảm trách nhiệm của chúng trong việc đóng thuế lợi tức. Thứ hai nhà nước có thể đưa lãi xuất xuống thấp hơn. Trong dài hạn, nếu nền kinh tế ở mức hữu nghiệp toàn phần thì mục tiêu của lãi xuất thấp không phải tăng tổng cầu mà là thay đổi thành phần của tổng cầu ở mức hữu nghiệp toàn phần, cho phép tăng phần đầu tư, tuy nhiên điều này cũng có nghĩa là một số cấu phần khác của tổng cầu phải giảm xuống, nếu không, dư cầu về hàng hoá sẽ đẩy giá lên, làm giảm mức cung ứng tiền và lại nâng lãi xuất lên. 2-Loại bỏ thất nghiệp theo lý thuyết của Keynes Các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes cho rằng giá cả và tiền công danh nghĩa là không linh hoạt, thậm chí trong trường hợp cực đoan chúng không thay đổi. Tiền công thực tế do vậy cũng không thay đổi và thị trường luôn trong tình trạng thất nghiệp. đường tổng cung trong trường phái Keynes là đường nằm ngang. Đường này ngụ ý rằng các doanh nghiệp sẵn sàng cung ứng mọi khối lượng sản phẩm cần thiết ở mức giá đã cho P*, đó là luôn có thất nghiệp nên các hãng có thể thuê mướn bao nhiêu nhân công cũng được theo mức lương đã cho. Vì vậy họ có thể cung cho mọi nhu cầu mà không phải tăng giá. Tại điểm E1 với sản lượng Y thấp hơn sản lượng tiềm năng, sản lượng thất nghiệp do đó sẽ tăng lên. Để giải quyết vấn đề này, một chính phủ theo quan điểm của Keynes sẽ thực hiện chính sách mở rộng tổng cầu(nới lỏng tiền tệ hoặc hàng hóa) đẻ dịch chuyển đường cầu sang phải về vị trí AD. Trong trường hợp này, các hãng cung cấp sẽ hài lòng sản xuất một mức sản lượng thêm và như vậy họ sẽ phải thuê thêm công nhân. Kết quả là làm cho tỷ lệ thất nghiệp giảm đi. Tuy nhiên việc chính phủ tăng tổng cầu sẽ ảnh hưởng như thế nào đến mức hữu nghiệp và thất nghiệp nếu như nền kinh tế khởi đầu với công suất nhàn rỗi và có thất nghiệp theo lý thuyết của Keynes, còn phụ thuộc vào ở chỗ những cấu phần nào trong tổng cầu được tăng lên. Việc chính phủ chi tiền để tăng thêm lực lượng cảnh sát để bổ sung thêm vào mức hữu nghiệp so vơí việc tăng chi tiêu tương tự cho nghành điện là ngành sản xuất bao gồm rất nhiều vốn. Tính trung bình thì tăng tổng cầu thêm 1% sẽ không làm tăng mức hữu nghiệp thêm 1% hoặc giảm con số thất nghiệp bớt 1%. Thực tế cho thấy lúc đầu quả trình tăng cầu làm tăng rất nhiều số giờ làm việc. Quá trình giảm cầu dẫn đến việc thôi làm thêm giờ, áp dụng chế độ làm việc không chọ ngày và giảm đáng kể số giờ làm việc. Do vậy, những thay đổi về nhu cầu và sản lượng dẫn đến những thay đổi nhỏ hơn về mức hữu nghiệp. Hơn nữa, những thayđổi về mức hữu nghiệp không dẫn đến những thay đổi về con số thất nghiệp. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến kết quả này là do “ảnh hưởng của công nhân không hứng thú làm việc” gây ra. Khi con số thất nghiệp cao và đang tiếp tục tăng lên, một số người thực sự muốn làm việc nhưng nhưng cảm thấy bi quan đến mức họ từ bỏ không muốn tìm việc nữa, do đó họ không được xếp vào con số thất nghiệp. Ngược lại, trong thời phồ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50065.doc
Tài liệu liên quan