Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay

Cơ chế bảo hiến ở nước ta hiện nay được thể hiện cụ thể qua bản Hiến pháp 1992

hiện hành. Đó là cơ chế giám sát tương đối tòan diện. Người ta gọi cơ chế bảo

hiến theo việc giám sát như thế này là mô hình Quốc hội vì Quốc hội thực hiện

quyền giám sát tối cao. Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao đối vơi toàn

bộ họat động của Nhà nước và giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật,

nghị quyết của Quốc hội. bên cạnh đó, các cơ quan khác cũng thực hiện chức năng

giám sát việc tuân theo Hiến pháp và giám sát các văn bản quy phạm pháp luật

khác để nó không trái với nội dung cũng như tinh thần của Hiến pháp. Cụ thể, cơ

chế giám sát đó được thể hiện chi tiết qua những quy định sau đây trong Hiến

pháp:

pdf27 trang | Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1222 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay – Phần 2 2.2.2. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam qua Híên pháp 1992[7] - cơ chế bảo hiến hiện nay Cơ chế bảo hiến ở nước ta hiện nay được thể hiện cụ thể qua bản Hiến pháp 1992 hiện hành. Đó là cơ chế giám sát tương đối tòan diện. Người ta gọi cơ chế bảo hiến theo việc giám sát như thế này là mô hình Quốc hội vì Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao. Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao đối vơi toàn bộ họat động của Nhà nước và giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. bên cạnh đó, các cơ quan khác cũng thực hiện chức năng giám sát việc tuân theo Hiến pháp và giám sát các văn bản quy phạm pháp luật khác để nó không trái với nội dung cũng như tinh thần của Hiến pháp. Cụ thể, cơ chế giám sát đó được thể hiện chi tiết qua những quy định sau đây trong Hiến pháp: - Điều 83: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. ... Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước". - Điều 84: "Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; 2- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; ... 9- Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; ... 13- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước;" - Điều 91: "Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: ... 3- Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; ... 5- Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; 6- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân" - Điều 94, 95 quy định Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội giám sát việc thi hành pháp luật trong lĩnh vực mà mình phụ trách. - Trong các chế định Chủ tịch nước, chính phủ, tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân, hiến pháp cũng quy định Chủ tịch nước, chính phủ, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân bảo vệ Hiến pháp thông qua việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Không những vậy, pháp luật hiện hành có quy định cơ chế giám sát và bảo vệ Hiến pháp thông qua việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật - một trong những nội dung quan trọng nhất của cơ chế bảo hiến. Theo đó, Quốc hội thực hiện quyền giám sát văn bản quy phạm pháp luật của chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, chính phủ, thủ tướng chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và có quyền bãi bỏ căn bản của các cơ quan này nếu văn bản đó được ban hành trái với với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật của chính phủ, thủ tướng chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối cao, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và có quyền đình chỉ văn bản của những cơ quan này nếu trái Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội. Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của quốc hội có trách nhiệm bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với cá dự án luật, pháp lệnh khi trình Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua. Thủ tướng có việc đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân và chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trái Hiến pháp, đình chỉ thi hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nếu nó trái Hiến pháp. Hội đồng nhân dân giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và có quyền bãi bỏ nếu trái Hiến pháp. Chủ tịch ủy ban nhân dân có quyền đình chỉ hoặc bãi bỏ văn bản trái pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp mình và văn bản trái pháp luật của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp, đình chỉ việc thi hành nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp[8]. Như vậy, cơ chế bảo hiến ở nước ta hiện nay chính là giám sát theo mô hình Quốc hội vì Quốc hội giữ vai trò giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp. Đó cũng là cơ chế bảo hiến với nhiều chủ thể cùng với những họat động, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Quá nhiều chủ thể, nhiều tầng nấc làm hạn chế và làm lu mờ vai trò giám sát tối cao của Quốc hội đồng thời làm hạn chế, giảm đi tính tối cao, tính hiệu lực của các họat động đó. Việc giám sat quá nhiều chủ thể dẫn đến tình trạng “lắm sãi không ai đóng cửa chùa”, “cha chung không ai khóc”. Hơn nữa, Quốc hội vừa là cơ quan lập pháp, vừa là cơ quan thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp. Theo đó, Quốc hội vừa làm luật, vừa giám sát, quyết định về việc một đạo luật do chính Quốc hội ban hành là trái Hiến pháp! Điều này là không khách quan. Bên cạnh đó, Quốc hội còn có trách nhiệm giải quyết việc tuân thủ hiến pháp trong họat động xét xử của Tòa án (quyền tư pháp). Như vậy “còn có sự lẫn lộn giữa quyền lập pháp và quyền tư pháp trong họat động của Quốc hội”[9]. Trong khi đó các đại biểu Quốc hội là chuyên gia pháp luật không nhiều, đa số đại biểu họat động theo chế độ kiêm nhiệm, Quốc hội làm việc theo chế độ Hội nghị và quyết định theo đa số. Cơ cấu như vậy không đảm bảo đươc hiệu quả của cơ chế bảo hiến và thực tiễn cho thấy cơ chế này chưa hiệu quả. Trên thực tế, đã có các trường hợp văn bản Luật trái hiến pháp và các văn bản luật cũng trái nhau nhưng không có cơ quan nào đứng ra “phán quyết”, hay hủy bỏ văn bản pháp luật không hợp hiến, hợp pháp. Đó là minh chứng cho sự không hiệu quả của cơ chế bảo hiến hiện nay. Sau đây là những bằng chứng cụ thể cho tình trạng vi Hiến, vi pháp: Nghị định số 27-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ngày 9-3- 1988 “Về kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải” đã thừa nhận thành phần kinh tế tư nhân, công nhận hình thức sở hữu tư nhân, trong khi Hiến pháp năm 1980 không thừa nhận thành phần kinh tế và hình thức sở hữu tư nhân. Vì vậy, phần mở đầu của Nghị định này không phải căn cứ vào Hiến pháp năm 1980 mà căn cứ vào “Nghị quyết Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam và Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng, vận tải”; Hay Luật đầu tư nước ngoài được Quốc hội thông qua ngày 29/12/1987 cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài được thành lập xí nghiệp 100% vốn nước ngoài; Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990 quy định: “Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp tư nhân với các doanh nghiệp khác", "chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh” , trong khi Điều 18 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động” vẫn đang có hiệu lực, chưa hề được sửa đổi v.v. Những văn bản pháp luật này thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng, có vai trò và tác dụng to lớn trong việc chuyển đổi cơ chế, khai thác và phát huy mọi tiềm năng để phát triển kinh tế của đất nước. Tác dụng và hiệu quả của những văn bản pháp luật này là không thể phủ nhận được. Nhưng sẽ là hợp hiến và tốt hơn nếu trước khi ban hành những văn bản pháp luật “có lợi cho dân, cho nước” này chúng ta cần phải sửa đổi, bãi bỏ các quy định lỗi thời, lạc hậu của Hiến pháp năm 1980. Hay Chỉ thị số 406/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 08.8.1994 “Về cấm sản xuất, kinh doanh và đốt pháo nổ”, mặc dù ý nghĩa, giá trị xã hội và hiệu quả kinh tế - xã hội của Chỉ thị này là đặc biệt lớn lao, nhưng thời điểm ban hành chỉ thị này (1994), sản xuất, kinh doanh (“SXKD”) pháo nổ vẫn là ngành nghề SXKD không bị pháp luật cấm . Điều 9 Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990 quy định thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng pháo với mức thuế suất là 70% và đến ngày 5/7/1993, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990 còn nâng mức thuế suất đối với mặt hàng pháo là 100%. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ trái với Nghị định số 221-HĐBT và Nghị định số 222- HĐBT ngày 23/7/1991 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty liên quan đến SXKD các loại pháo và trái với Luật thuế tiêu thụ đặc biệt của Quốc hội, nhưng những người, những cơ sở SXKD pháo nổ đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép hành nghề SXKD pháo nổ vẫn nghiêm chỉnh chấp hành, không khiếu kiện gì và cũng không biết khiếu kiện ở đâu, vì Tòa án nước ta cho đến nay cũng không có thẩm quyền xét xử các khiếu kiện về VBQPPL bị cho là trái Hiến pháp, trái luật làm thiệt hại đến quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân v.v. Nếu như những văn bản trên đây tuy trái với Hiến pháp, luật nhưng phù hợp với thực tiễn, phù hợp với lợi ích của Nhà nước, của nhân dân thì cũng có một số văn bản pháp luật khác vừa trái với Hiến pháp hoặc Luật, vừa hạn chế, “cắt xén” quyền hiến định của công dân. Ví dụ điển hình nhất là Thông tư số 02/2003/TT- BCA ngày 13/1/2003 của Bộ Công an quy định mỗi người được đăng ký 1 môtô hoặc xe máy là trái với quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 58 của Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt (tác giả nhấn mạnh – T.Đ.L.), tư liệu sản xuất ...”. Phải 2 năm sau, khi người dân ở thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh khốn khó vì quy định vi hiến nói trên đã kêu ca, phàn nàn và báo chí đồng loạt lên tiếng… Bộ Công an mới ban hành Thông tư số 17/2005/TT-BCA ngày 21/11/2005 bãi bỏ quy định trái Hiến pháp này v.v.[10] Gần đây, xáy ra tình trạng Toà án và trọng tài kinh tế “giành nhau” xử kiện do chưa có sự thống nhất về luật, do có sự chênh nhau giữa pháp lệnh và Nghị quyết. Cụ thể là Điều 5 pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 quy định trong trường hợp các bên có thỏa thuận trọng tài thì tòa án phải từ chối thụ lý tranh chấp, trừ trường hợp thỏa thuận đó vô hiệu. Tuy nhiên, Điểm b Tiểu mục 1.2 Mục 1 Nghị quyết 05 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lại đưa ra một tình huống mới không có trong pháp lệnh: Nếu nguyên đơn thông báo cho bị đơn biết về việc kiện ra tòa mà bị đơn không phản đối trong bảy ngày thì coi như hai bên đã có sự lựa chọn mới là để tòa giải quyết tranh chấp thay cho trọng tài. Vụ này hiện nay vẫn đang trong quá trình tranh luận để chọn cơ quan thẩm quyền xử án![11] - Hay như tình trạng thông tư “đá” nghị định về thẩm quyền công chứng như sau: Theo điểm c khoản 1 Điều 119 Nghị định 181 ngày 29-10-2004 của Chính phủ, đối với những hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa tổ chức với cá nhân, các bên có quyền chọn lựa hoặc đến phòng công chứng để chứng nhận hoặc đến UBND cấp xã (nơi có đất) để chứng thực. Quy định này vẫn được giữ nguyên khi Chính phủ ban hành Nghị định 17 năm 2006 để sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 181. Cho đến ngày 13-6-2006, khi Bộ Tư pháp cùng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư liên tịch số 04 hướng dẫn thẩm quyền công chứng, chứng thực các giao dịch đất thì mọi sự đã thay đổi. Cụ thể, nếu bên có bất động sản là tổ chức trong nước thì hợp đồng phải được công chứng tại phòng công chứng, không được đến UBND cấp xã[12]. Thông tư này rõ ràng và dễ áp dụng nhưng ngặt nỗi lại “đá” nghị định lại trở thành làm khổ dân. Dân đang đứng “giữa hai con đường” không biết theo ai. Hồ sơ nộp đến cơ quan chức năng thì vẫn nằm đấy do cơ quan không bíêt áp dụng văn bản nào và không dám chứng vì sợ mình không có thẩm quyền! Tuy nhiên, vụ việc vẫn chưa có cơ quan chức năng nào lên tiếng! Đó là một thực tế bất cập về việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật: trái Hiến pháp, “đá” nhau…Đó là những minh chứng cho thấy cơ chế giám sát hiện nay chưa hiệu quả! Đó là một cơ chế bảo hiến chưa hữu hiệu. Vấn đề đặt ra lúc này là tìm một mô hình bảo hiến hữu hiệu cho Việt Nam. Chúng ta phải xây dựng một mô hình bảo hiến như thế nào, có thể áp dụng mô hình bảo hiến của thế giới vào Việt Nam hay không? Để trả lời cho những câu hỏi này, chúng ta cần thiết phải tìm hiểu các mô hình bảo hiến của thế giới để học tập kinh nghiệm và xây dựng mô hình, xây dựng cơ chế bảo hiến phù hợp với mình. Phần tiếp theo dưới đây, chứng tôi sẽ luận bàn về vấn đề này. 3. Tòa án Hiến pháp – cơ chế bảo hiến cần được lựa chọn ở Việt Nam hiện nay 3.1. Các cơ chế bảo hiến trên thế giới[13] Các cơ chế bảo hiến trên thế giới hiện nay được thể hiện qua các mô hình sau đây: mô hình Mỹ, mô hình Châu Âu và mô hình hỗn hợp Âu-Mỹ. Mô hình Mỹ (mô hình phi tập trung):Đây là mô hình giám sát Hiến pháp với Tài phán Hiến pháp không tách rời mà nằm trong hệ thống Tòa án. Mô hình này thông qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể, dựa vào các đơn kiện của đương sự, các sự kiện pháp lý cụ thể mà bảo vệ Hiến pháp. Mô hình này có ưu điểm là bảo hiến không trừu tượng vì nó liên quan đến những vụ việc cụ thể nên bảo vệ Hiến pháp một cách cụ thể. Nhược điểm của mô hình này: phán quyết của Tòa án về tính hợp hiến chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên tham gia tố tụng và khi một đạo luật được Tòa án xác định là trái Hiến pháp thì đạo luật đó không còn giá trị áp dụng và chỉ có hiệu lực bắt buộc đối với các Tòa án cấp dưới, nếu là phán quyết của Tòa án tối cao thì có giá trị bắt buộc đối với cả hệ thống tư pháp. Như vậy, Tòa án không có thẩm quyền hủy bỏ đạo luật bị coi là trái với Hiến pháp và về hình thức đạo luật đó vẫn còn hiệu lực nhưng trên thực tế sẽ không được Tòa án áp dụng vì truyền thống án lệ. Ở Mỹ không có phân biệt án cho các loại toà và đều do một thẩm phán xét xử.,đặc trưng của cơ chế tài phán hệ thống Toà án Mỹ: sự kiểm tra mang tính phổ biến (đạo luật, các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định hành chính), mỗi toà án đều có chức năng kiểm tra, giám sát, phán quyết về tính hợp hiến khi xem xét các vụ việc cụ thể, phán quyết của Toà án trong những trường hợp đó khôg mang tính phổ biến đối với mọi trường hợp trước đó mà chỉ có giá trị đối với các bên đương sự. Tức là quy phạm pháp luật trong trường hợp này không bị bãi bỏ. Tuy nhiên, với truyền thống án lệ thì nó gần như mất hiệu lực trên thực tế. Mô hình Châu Âu (mô hình tập trung): Theo mô hình này các nước châu Âu quyền giám sát Hiến pháp được trao cho các cơ quan bảo hiến chuyên trách (Tòa án Hiến pháp hay Hội đồng bảo hiến…) có vị trí độc lập với quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thẩm phán là những người có chuyên môn nghiệp vụ cao, được bổ nhiệm hay bầu theo một chế độ đặc biệt. Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về Hiến pháp theo thỉnh cầu trực tiếp của các tổ chức chính trị, các Toà án thậm chí là của cá nhân. Quyết định của Tòa án Hiến pháp hay Hội đồng bảo hiến có giá trị bắt buộc. Giám sát Hiến pháp ở châu Âu kết hợp việc giải quyết các vụ việc cụ thể đồng thời giải quyết cả những việc có tác dụng chung cho cả xã hội thông qua đề nghị của các cơ quan có thẩm quyền. Ở đây, rõ ràng là có sự khác biệt giữa hai mô hình trên. Nguyên nhân của sự khác biệt đó là gì? Có rất nhiều nguyên nhân. Chủ yếu là những nguyên nhân sau đây[14]: Một là, nhận thức về đạo lụât: đối với các nước châu Âu lục địa, luật thành văn có giá trị to lớn, được coi là quy tắc thực định bắt buộc phổ biến. Nếu như ở Anh, Mỹ, Hiến pháp và sau đó là thực tiễn xét xử của các Toà án thì ở châu âu lục địa, thì Hiến pháp rồi sau đó là đạo luật dựa trên Hiến pháp. Các đạo luật chỉ phải phù hợp với Hiến pháp. Do đó, các Toà án và các thủ tục không thể được coi là nguồn phn xét về tính hợp pháp của các đạo luật. Chức năng đó phải di những người có thẩm quyền cao hơn, có tầm nhìn và uy tín thực hiện. Hai là, Châu Âu lục địa quan niệm các Thẩm phán như các quan chức hành chính, hưởng lương và các danh lợi. Cho nên, không thể cưỡng được sức mạnh của các cơ quan lập pháp và hành pháp. Ba là, Châu Âu thường có sự chuyên môn hoá các Thẩm phán theo loại vụ án và do đó tầm nhìn của các Thẩm phán bị hạn chế bởi lĩnh vực chuyên môn hẹp, không rộng như Tài phán Anh-Mỹ. Mô hình tài phán Hiến pháp kiểu Mỹ chỉ phù hợp khi không có sự chuyên môn hoá kiểu châu Âu. Bốn là, về cơ cấu thẩm quyền nếu như ở Mỹ, Quốc Hội không thể một mình thay đổi luật mà cần phải có cácchế định về quyền phủ quyết của Tổng thống và cả của Toà án tối cao thì ở các nước châu Âu, việc sửa một đạo luật đối với Quốc hội là điều đơn giản khi chỉ cần một đa số bình thường của các nghị sĩ và với đa số đó, đạo luật có thể phủ quyết luôn cả phán quyết của toà án nếu Toà án tuyên bố đạo luật không hợp Hiến. Ngoài hai mô hình bảo hiến nói trên, còn có mô hình bảo hiến kiểu hỗn hợp Âu-Mỹ: Đây là mô hình kết hợp những yếu tố của cả hai mô hình kiểu châu Âu và kiểu Mỹ. Theo mô hình này, thẩm quyền bảo hiến được trao cho cả cơ quan bảo hiến chuyên trách (tòa án Hiến pháp) và cà các Tòa án thuộc hệ thống tư pháp, trong đó thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp và Tòa án Tối cao đối với những vụ việc cụ thể được quy định ngay trong Hiến pháp, các tòa án khác khi giải quyết một vụ việc cụ thể có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật và được quyền không áp dụng các đạo luật được cho là không phù hợp. Nói tóm lại, các mô hình bảo hiến chủ yếu trên thế giới dù có khác nhau nhưng đều có chung mục đích là bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Các mô hình đều có những ưu khuyết điểm riêng. Nhưng đó đều là mô hình bảo hiến theo cơ chế phán quyết của Toà án (cơ chế phán quyết). Còn mô hình bảo hiến của chúng ta hiện nay là cơ chế giám sát, không phải là phán quyết. Chúng ta cũng chưa có một cơ quan tài phán Hiến pháp, gọi là toà án Hiến pháp. Thiết nghĩ đây là một nhu cầu mang tính thực tiễn hiện nay và chúng ta cần phải học hỏi kinh nghiệm của các mô hình nói trên để xây dựng mô hình Việt Nam. 3.2. Toà án Hiến pháp – cơ chế bảo hiến cần dược lựa chọn ở Việt nam hiện nay Nhận thấy được yêu cầu của thực tiễn cũng như tầm quan trọng của cơ chế bảo hiến hữu hiệu, tại Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng Sản Việt Nam, báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (ngày 10/04/2006) đặt ra yêu cầu: “Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám xác tính hợp hiến, hợp pháp của các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền; “xây dựng cơ chế phán quyết về những hành vi vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Quan điểm của Đảng ta đã khẳng định chúng ta phải có một cơ chế phán quyết. Đó là một định hướng tiến bộ và đúng đắn, phù hợp yêu cầu thực tế. Đó là định hướng tài phán Hiến pháp. Đây là một định hướng để xây dựng Nhà nước pháp quyền vì tài phán Hiến pháp được xem là “vương miện của Nhà nước ph p quyền”. Hiện nay, có 3 phương án khác nhau về cơ chế tài phán hiến pháp ở nước ta[15]: Phương án 1: Quốc hội thành lập ủy ban giám sát hiến pháp trực thuộc Quốc hội để giúp Quốc hội thực hiện việc bảo hiến đối với các văn bản pháp luật do Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, chính quyền địa phương ban hành. Thành viên của ủy ban giám sát hiến pháp phải là các đại biểu Quốc hội được bầu theo thủ tục thông thường. Ủy ban giám sát hiến pháp có trách nhiệm trình báo cáo kết quả giám sát của mình để Quốc hội xem xét và quyết định.Với mô hình ủy ban giám sát hiến pháp này, Quốc hội tiếp tục được khẳng định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Về thực chất ủy ban giám sát hiến pháp chỉ là một cơ quan thuộc Quốc hội, một cơ cấu mang tính giúp việc chứ không thể trở thành một cơ cấu có quyền quyết định về tính hợp hiến của các văn bản pháp luật được giám sát. Đối tượng giám sát của ủy ban giám sát hiến pháp cũng chỉ là các văn bản pháp luật từ pháp lệnh trở xuống. Như vậy các đạo luật vẫn nằm ngoài sự giám sát tính hợp hiến của chúng. Do vậy hoạt động thực hiện quyền lập pháp của Quốc hội về cơ bản vẫn không phải là đối tượng giám sát nhìn từ yêu cầu đòi hỏi của nguyên tắc về tính tối cao và bất khả xâm phạm của hiến pháp. Phương án 2:Cơ cấu lại tổ chức và thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, theo đó Tòa án nhân dân tối cao được trao quyền bảo vệ hiến pháp. Để thực hiện được thẩm quyền bảo vệ hiến pháp, Tòa án nhân dân tối cao cần được quy định lại về vị trí, chức năng trong bộ máy nhà nước, bỏ bớt một số chức năng hiện hành để tập trung vào chức năng bảo vệ hiến pháp; cơ cấu lại số lượng, chất lượng, thành phần và phương thức bổ nhiệm đặc biệt đối với các thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, để đảm bảo năng lực, trình độ, phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp của mỗi một thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện nhiệm vụ, trách nhiệm thiêng liêng là bảo vệ hiến pháp trước mọi sự xâm hại có thể xảy ra.Dù cơ quan bảo hiến sẽ được thiết lập theo mô hình nào chăng nữa, thì việc xuất hiện một cơ quan bảo hiến sẽ làm thay đổi nội dung và phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta. Phương án 3:Thành lập cơ quan bảo hiến độc lập không thuộc Quốc hội, thực hiện độc lập các hoạt động giám sát tính hợp hiến của các hoạt động nhà nước, cả hoạt động lập pháp của Quốc hội. Đây là một phương án khá phổ biến trong nhiều mô hình nhà nước pháp quyền trên thế giới. Tính độc lập của cơ quan bảo vệ hiến pháp (có thể là hội đồng bảo hiến, tòa án hiến pháp...) được đảm bảo bởi tính cân bằng trong quan hệ quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, mô hình cơ quan bảo hiến độc lập này còn phải gắn liền với vai trò giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước từ phía Đảng cầm quyền - Đảng Cộng sản VN. Nếu phương án này được xây dựng thì khả năng độc lập và sức mạnh tài phán của cơ quan bảo hiến này được đảm bảo trước hết bởi Đảng Cộng sản VN.Với mô hình này, người đứng đầu cơ quan bảo hiến (có thể là tòa án hiến pháp) sẽ do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, các thành viên của các cơ quan này có thể do Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch nước.Cơ chế bảo hiến với mô hình cơ quan bảo hiến độc lập tất yếu sẽ làm thay đổi các quan hệ tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất sẽ phải được nhận thức lại. Cơ chế đã có, nhưng để lựa chọn một mô hình thích hợp thì cần phải căn nhắc. Để có thể lựa chọn mô hình, cần thiết phải học tập kinh nghiệm thế giới vì họ đi trước ta đồng thời phải nhận thấy ưu khuyết điểm của từng mô hình để lựa chọn mô hình phù hợp nhất. Tuy nhiên, dù theo mô hình nào thì cũng phải triệt để quan điểm : Triệt để đảm bảo bản chất Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuyệt đối tránh chệch hướng xã hội chủ nghĩa; Đảng cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo (thực tế cơ chế này do Đảng ta khởi xướng); bảo đảm nguyên tắc độc lập, cơ quan thực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf6_2311.pdf
  • pdf8_7324.pdf
Tài liệu liên quan