Báo cáo Thực tập tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long

Luật doanh nghiệp ra đời (Quốc hội thông qua Ngày 12/6/1999) đã mở đường cho kinh tế ngoài quốc doanh phát triển . Sau gần 4 năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, cả nước đã có thêm gần 72.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) mới được thành lập. Một con số gần gấp đôi số DNNQD đã có trước đó . Đó là một dấu hiệu tốt đẹp đối với kinh tế Việt Nam nói chung và đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng.

Tuy nhiên, hầu hết các DNNQD đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ khoảng 95%, số doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu chiếm đến 95%, số doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm có khoảng 1,4%. Để các DNNQD tồn tại và phát triển mạnh trong kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp này cần một lượng vốn rất. Tuy nhiên, việc tiếp cận các nguồn vốn trong đó có nguồn vốn rất quan trọng vay từ ngân hàng của các DNNQD hiện nay là rất khó khăn do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Sau gần 4 năm học tập tại Khoa Ngân hàng – Tài chính, Trường Đại học Kinh tế quốc dân – Hà Nội và một thời gian ngắn thực tập tại NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long, em viết đề tài này với mục đích làm sáng tỏ một số những nguyên nhân làm các DNNQD gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng ở Chi nhánh Thăng Long .

Đề tài này gồm những nội dung chủ yếu sau đây:

- Vài nét về các DNNQD và Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long.

- Thực trạng mở rộng cho vay của Chi nhánh Thăng Long đối với các DNNQD.

- Nguyên nhân và đề nghị một số giải pháp thực hiện.

 

doc97 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 831 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Báo cáo Thực tập tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Luật doanh nghiệp ra đời (Quốc hội thông qua Ngày 12/6/1999) đã mở đường cho kinh tế ngoài quốc doanh phát triển . Sau gần 4 năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, cả nước đã có thêm gần 72.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) mới được thành lập. Một con số gần gấp đôi số DNNQD đã có trước đó . Đó là một dấu hiệu tốt đẹp đối với kinh tế Việt Nam nói chung và đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng. Tuy nhiên, hầu hết các DNNQD đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ khoảng 95%, số doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu chiếm đến 95%, số doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm có khoảng 1,4%. Để các DNNQD tồn tại và phát triển mạnh trong kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp này cần một lượng vốn rất. Tuy nhiên, việc tiếp cận các nguồn vốn trong đó có nguồn vốn rất quan trọng vay từ ngân hàng của các DNNQD hiện nay là rất khó khăn do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Sau gần 4 năm học tập tại Khoa Ngân hàng – Tài chính, Trường Đại học Kinh tế quốc dân – Hà Nội và một thời gian ngắn thực tập tại NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long, em viết đề tài này với mục đích làm sáng tỏ một số những nguyên nhân làm các DNNQD gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng ở Chi nhánh Thăng Long . Đề tài này gồm những nội dung chủ yếu sau đây: - Vài nét về các DNNQD và Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long. - Thực trạng mở rộng cho vay của Chi nhánh Thăng Long đối với các DNNQD. - Nguyên nhân và đề nghị một số giải pháp thực hiện. Nội dung Chương I: Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 1.1.Vài nét về các doanh nghiệp ngoài quốc doanh . 1.1.1.Khái niệm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (Luật doanh nghiệp – Quốc hội thông qua 12/6/1999) Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là doanh nghiệp có tính chất tư hữu (Không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài). Bao gồm : Các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và các đơn vị theo hình thức hợp tác xã. 1.1.2.Đặc điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta. Do hoàn cảnh lịch sử đất nước và tình hình kinh tế xã hội nước ta mà các DNNQD ở nước ta có nhiều nét đặc biệt, thể hiện ở những điểm sau : Thứ nhất, Các DNNQD rất đông về số lượng và có tốc độ độ gia tăng cao. Nếu như năm 1991, sau khi luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân ra đời 1 năm, cả nước mới có 414 DNNQD, đến năm 1999, con số này đă tăng lên 39.501 DNNQD và đến trước khi luật doanh nghiệp ra đời ( năm 1999), cả nước mới có 39501 doanh nghiệp. Bình quân trong giai đoạn 1991 – 1999 tốc độ tăng khoảng 30% năm. Đến nay - Sau gần 4 năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, cả nước đã có gần 72.000 DNNQD được thành lập mới gần gấp đôi con số doanh nghiệp đã tồn tại trước đó. Bình quân trong giai đoạn này tốc độ tăng đến 40% năm. Đó là những con số phản ánh mức độ phát triển ngày một mạnh mẽ của các DNNQD góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển chung của kinh tế đất nước. Thứ hai, đa số các DNNQD đều mới được hình thành. Trước đây trong thời kỳ kế hoạch hoá, tập trung thì Nhà nước độc quyền trong mọi lĩnh vực kinh tế, các thành phần kinh tế phi Nhà nước đều bị coi là bất hợp pháp nên không có một DNNQD chính thức được hoạt động. Cùng với sự phát triển đi lên của kinh tế xã hội thì Đảng và Nhà nước đã khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển nhất là thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Khi đó các DNNQD mới có điều kiện để phát triển mạnh mẽ. Như phần trên đã nói, chỉ trong vòng 4 năm gần đây con số các DNNQD được thành lập mới là khoảng 72000 doanh nghiệp, gần gấp đôi so với số doanh nghiệp thành lập trước đó. Như vậy, hầu hết các doanh nghiệp này dưới 4 tuổi, doanh nghiệp lớn tuổi nhất mới chỉ là 15 năm. Một con số quả nhỏ bé nếu so với các doanh nghiệp ở nước ngoài có những doanh nghiệp được thành lập từ hàng trăm năm nay. Thứ ba, các DNNQD tuy đông về số lượng nhưng quy mô vốn và lao động nhỏ. Mặc dù có số lượng lớn và có tốc độ tăng trưởng cao như đã nêu ở trên nhưng đa số là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( Chiếm khoảng 95% ), số doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu chiếm đến hơn một nửa (51 %), còn số doanh nghiệp có vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 1,4%. Do các doanh nghiệp ít vốn như vậy nên các doanh nghiệp này hoạt động rất khó khăn nhất là khó khăn trong chống đỡ với các biến động bất lợi trong sản xuất, kinh doanh. Do đó khả năng phá sản của các này là rất lớn. Quy mô lao động thì nhỏ bé, trung bình mỗi DNNQD sử dụng khoảng 20 lao động, số doanh nghiệp sử dụng trên 100 lao động chỉ từ 600 đến 700 doanh nghiệp mà đa số lao động này chưa có trình độ chuyên môn, kỹ thuật (Chiếm đến 83%). Thứ tư, trình độ công nghệ và quản lý lạc hậu. Theo điều tra ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thì chỉ có 17% thiết bị hiện đại, 52% thiuết bị trung bình còn lại là các thiết bị lạc hậu. Riêng ngành công nghiệp sản xuất, chế tạo thì có đến 62% máy móc, thiết bị lạc hậu từ những năm 50, 60. Công nghệ lạc hậu dẫn đến sản phẩm hàng hoá, dịch vụ có giá thành cao, chất lượng mẫu mã không đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng nên sản phẩm rất khó cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Cùng với công nghệ lạc hậu là trình độ quản lý yếu kém, có thể nói 100% các chủ doanh nghiệp tư nhân ở ta kiêm luôn giám đốc điều hành hoặc có người thân làm giám đốc điều hành chứ không có doanh nghiệp nào thuê giám đốc bên ngoài. Các chủ doanh nghiệp thì chỉ có số ít là có năng lực chuyên môn và kinh nghiệp kinh doanh thực sự còn đa số họ thiếu kinh nghiệp quản lý và kinh doanh. Thực tế có rất nhiều doanh nghiệp được thành lập từ các cơ sở sản xuất. Do cơ chế thông thoáng mà Luật doanh nghiệp mang lại và chính sách ưu đãi của Nhà nước nên nhiều cơ sở sản xuất được nâng cấp thành doanh nghiệp . Tuy được gọi là doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp vẫn không có thay đổi gì đáng kể, doanh nghiệp vẫn quản lý theo phương pháp kiểu gia đình như cở sở sản xuất trước đây. Thứ năm, các DNNQD tuy hoạt động linh hoạt song thường kém hiệu quả. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động năng động, thích nghi cao với thị trường, dễ dàng chuyển đổi đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp này thường làm ăn kiểu “manh mún”, “chộp giật” mà không tính đến các lợi ích lâu dài của doanh nghiệp mình. Nhiều doanh nghiệp khi có cơ hội thì họ tận dụng, khai thác tối đa nhất, triệt để nhất các tới ích trước mắt mà không có các tính toán chiến lược. Điều đó làm cho họ luôn bị động, lúng túng khi gặp khó khăn, nhất là các khó khăn đến một cách bất ngờ. Nhiều các DNNQD không thực hiện đúng chế độ kế toán, thống kê...Nhiều doanh nghiệp lại có biểu hiện làm ăn phi pháp như : Trốn thuế, lừa đảo, làm hàng giả, hàng kém chất lượng...Điều đó làm cho xã hội có tâm lý thiếu tin tưởng gây khó khăn trước hết cho chính loại hình doanh nghiệp này. Trên đây là một số đặc điểm cơ bản nhất của các DNNQD ở nước ta . Đặc điểm này xuyên suốt và có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp này của ngân hàng . 1.1.3.Vài nhận xét về các DNNQD ở nước ta. Qua phân tích đặc điểm và những ảnh hưởng của các DNNQD đến kinh tế xã hội nước ta những năm gần đây, ta có những nhận xét trên 2 góc độ ưu điểm và nhược điểm sau : 1.1.3.1.Những ưu điểm. Thứ nhất, các DNNQD có những đóng góp lớn vào phát triển kinh tế đất nước. Các DNNQD hoạt động trong hầu hết những nghành, những lĩnh vực kinh tế: Nông nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp,... đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Các DNNQD hoạt động linh hoạt, thích ứng nhanh, đáp ứng nhanh những nhu cầu của thị trường góp phần làm cho các hoạt động kinh tế trở lên linh động, làm thay đổi diện mạo nền kinh tế. Theo các nhà kinh tế ước tính thì thành phần kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay đóng góp đến 42% vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP ) và đóng góp vào tăng trưởng GDP cao hơn so với thành phần kinh tế Nhà nước. Đặc biệt từ năm 2001 trở lại đây, chỉ số đóng góp vào GDP của các DNNQD trung bình hàng năm tăng hơn 10%. Tốc độ tăng trưởng của các thành phần kinh tế. (Năm trước bằng 100%) Đơn vị tính : % Thành phần kinh tế 1995 1999 2000 2001 2002 Tốc độ tăng trưởng chung Trong đó : DNNN DN tư nhân DN hỗn hợp 109,5 109,4 109,3 112,7 104,8 102,6 103,2 106,2 106,8 107,7 108,1 111,0 106,8 107,44 113,22 113,59 107,4 106,88 113,89 114,35 Nguồn:Tạp chí Khoa học ngân hàng số 2/2004 Thứ hai, Hoạt động của các DNNQD thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. Các DNNQD hoạt động linh động trên nhiều các lĩnh vực trong nền kinh tế đặc biệt là lĩnh vực thương mại, dịch vụ đã làm tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế và là chất “xúc tác”, lôi kéo các thành phần kinh tế khác nhất là kinh tế Nhà nước phải tự đổi mới, tự điều chỉnh để có thể cạnh tranh được trên thị trường. Trước đây trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các nghành sản xuất kinh doanh đều do Nhà nước đảm nhận làm mất đi tính cạnh tranh, mất động lực để phát triển đi lên dẫn đến tình trạng trì trệ, kém hiệu quả trong khu vực kinh tế Nhà nước. Ngày nay, trừ một số doanh nghiệp Nhà nước cần nắm giữ độc quyền, còn lại hầu hết các ngành các lĩnh vức sản xuất kinh doanh đều có sự tham gia của các thành phần kinh tế khác. Điều này bắt buộc khu vực kinh tế Nhà nước phải tổ chức, sắp xếp lại, đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức sản xuất, kinh doanh nếu muốn tồn tại và phát triển. Các DNNQD vừa là đối tác làm ăn, vừa là đối thủ cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nên nó là nhân tố quan trọng thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. Thứ ba, các DNNQD góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH. Một cơ cấu kinh tế hiện đại là cơ cấu kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ cao trong GDP. Các DNNQD hoạt động trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong thương mại và dịch vụ do đó nó là trung gian, là chiếc cầu nối để chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Bởi vì : Khi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ thì nó sẽ trực tiếp đóng góp vào lĩnh vực này, ngoài ra nó còn cung cấp cho nông nghiệp máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu...làm nâng cao năng suất trong lĩnh vực nông nghiệp . Khi đó lao động trong nông nghiệp sẽ dư thừa và chuyển sang lĩnh vực công nghệp và dịch vụ. Thứ tư, các DNNQD phát huy tốt các nguồn lực của nền kinh tế. Kinh tế Nhà nước không thể bao quát tất cả, không thể phát huy hết mọi nguồn lực của nền kinh tế . - Có thể nói tiềm lực đầu tiên mà các DNNQD huy động đó chính là nguồn vốn rất lớn trong dân cư. ở nước ta lượng vốn trong dân cư rất lớn mà thành phần kinh tế Nhà nước không thể huy động hết, trong những năm gần đây cùng với sự gia tăng mạnh mẽ số DNNQD là số vốn đăng ký thêm rất lớn. Chỉ trong 4 năm gần số vốn đăng ký thêm của các DNNQD là 144.000 tỷ đồng, chưa kể số vốn vay của các doanh nghiệp này. - Tiềm lực thứ 2 mà các doanh nghiệp này khơi dậy đó chính là lực lượng lao động. Trước đây có đến 80% lực lượng lao động là trong lĩnh vực nông nghiệp, làm việc chủ yếu là thủ công, năng suất thấp, con số thất nghiệp thực tế là rất lớn. Trong khi đó khu vực kinh tế Nhà nước lại chậm phát triển, khu vực công nghiệp và dịch vụ không thúc đẩy được nông nghiệp phát triển. Ngày nay, các DNNQD được khuyến khích phát triển mạnh ở cả các thành phố lớn và các địa phương không những góp phần giải quyết việc làm mà còn góp phần nâng cao trình độ của lực lượng lao động. Những ưu điểm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất lớn do đó khuyến khích loại hình doanh nghiệp vày phát triển là một yêu cầu tất yếu và là nhiệm vụ của toàn xã hội. 1.1.3.2.Những hạn chế của các DNNQD. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng có nhiều hạn chế cần khắc phục. Thứ nhất, Các DNNQD chỉ mới đạt được sự phát triển về bề rộng chứ chưa đạt được sự phát triển về chiều sâu. Thời gian vừa qua, chúng ta ghi nhân sự tăng lên mạnh mẽ của các DNNQD trong nhiều lĩnh vực nhưng có đến 95% các doanh nghiệp này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; trình độ quản lý và công nghệ yếu kém, lạc hậu; Làm ăn theo kiểu manh mún, chộp giật... Đó là những hạn chế lớn, là trở lực cản trở sự phát triển cả về chất và về lượng của loại hình doanh nghiệp này. Thứ hai, rất nhiều doanh nghiệp có biểu hiện làm ăn mờ ám. Các hiện tượng làm ăn trái pháp luật như : Trốn thuế, làm hàng giả, hàng nhái, kinh doanh trái phép... diễn ra phổ biến đối với các DNNQD. Ngoài ra còn có nhiều các doanh nghiệp có hành vi lừa đảo gây mất ổn định xã hội. Nguy hiểm hơn khi các hành vi lừa đảo này có sự tiếp tay của một bộ phận công chức Nhà nước, một bộ phận những cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước. Khi đó hành vi lừa đảo trở lên khó lường hơn, gây hậu quả nghiêm trọng hơn. Tất cả những điều đó làm suy giảm uy tín của các DNNQD, làm cho xã hội thiếu tin tưởng đối với các doanh nghiệp này. Muốn cho các doanh nghiệp này phát triển một cách bền vững đúng với vai trò của nó thì những hạn chế trên cần phải dần khắc phục. Đồng thời cần phải phát huy những mặt tích cực vốn có của thành phần kinh tế này. 1.2.Mở rộng cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 1.2.1.Quan niệm về mở rộng cho vay. Cho vay, là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cho khách hàng sử dụng một khoản tiền vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Mở rộng cho vay của ngân hàng đối với các DNNQD chính là phản ánh sự gia tăng khối lượng cho vay đối vớ các DNNQD cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. - Mở rộng theo chiều rộng tức là sự tăng lên về quy mô của đối tượng, của các khoản vay như: số dư nợ tăng lên, số khách hàng tăng lên... - Mở rộng theo chiều sâu là sự thay đổi về tính chất, cơ cấu theo hướng hợp lý của các khoản vay như: Cơ cấu của các khoản vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn hợp lý; Tỷ trọng dư nợ của các DNNQD so với các thành phần kinh tế khác... 1.2.2.Nội dung của mở rộng cho vay các DNNQD . Nội dung của mở rộng được phản ánh thông qua các chỉ tiêu về dư nợ (số dư nợ, tỷ trọng dư nợ, cơ cấu của dư nợ, tốc độ tăng dư nợ, sự thay đổi cơ cấu, tỷ trọng dư nợ và chỉ tiêu về nợ quá hạn); về số doanh nghiệp có quan hệ vay vốn với ngân hàng; về sự đa dạng các hình thức cho vay, sự đa dạng các hình thức bảo đảm. 1.2.2.1.Các chỉ tiêu về dư nợ. - Số dư nợ của các DNNQD phản ánh số tiền mà ngân hàng đã và vẫn đang còn cho vay các DNNQD. Số dư nợ mà càng lớn phản ánh mức độ mở rộng cho vay các đối tượng là DNNQD càng cao. Tuy nhiên, nghiên cứu mở rộng cho vay ta phải đặt trong mối quan hệ với các thành phần khác, đặt trong mối quan hệ về thời gian. Chính vì vậy mà số dư nợ không thể phản ánh hết thực chất của việc mở rộng cho vay các DNNQD của ngân hàng mà phải xem xét đồng thời các chỉ tiêu, các khía cạnh khác nhau của mở rộng cho vay. - Tốc độ tăng dư nợ là tỷ lệ số dư nợ năm sau cao hơn năm trước so với số dư nợ năm trước. Tốc độ này phản ánh mức độ mở rộng cho vay nhanh hay chậm của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này dương có thể kết luận rằng thời điểm sau đã có sự mở rộng cho vay so với thời điểm trước, và nếu qua thời gian tỷ lệ này tăng dần thì có thể kết luận được rằng tốc độ mở rộng ngày một tăng. Tuy nhiên, cần so sánh với các thành phần kinh tế khác qua đó mới có thể biết được việc mở rộng cho vay có đầy đủ hay không. Nếu tốc độ tăng dư nợ cũng dương nhưng lại nhỏ hơn tốc độ tăng của các thành phần kinh tế khác thì sự mở rộng đó không phải là thực chất, đó chỉ là sự tăng lên đơn thuần của số dư nợ theo xu hướng chung. - Tỷ trọng dư nợ của các DNNQD là tỷ lệ phần trăm của số dư nợ của các DNNQD so với tổng số dư nợ. Tỷ trọng dư nợ phản ánh sự mở rộng của cho vay các DNNQD so với các thành phần khác. Nếu tỷ trọng này cao chứng tỏ các DNNQD có quan hệ vay mượn nhiều hơn các thành phần khác có ưu thế hơn các thành phần khác. Tỷ lệ này tăng theo thời gian phản ánh ngân hàng đã ngày càng coi trọng cho vay các DNNQD. Có thể số dư nợ không tăng theo thời gian nhưng tỷ trọng cho vay các DNNQD tăng lên so với các thành phần kinh tế khác đã chứng tỏ sự thực sự quan tâm của ngân hàng đối với các doanh nghiệp này, đó cũng là sự mở rộng cho vay. - Cơ cấu dư nợ của các DNNQD. Tuỳ từng cách phân loại dư nợ của các DNNQD mà ta có các loại cơ cấu dư nợ khác nhau. Chẳng hạn nếu phân các khoản vay của các DNNQD theo kỳ hạn thành dư nợ ngắn hạn, dư nợ trung hạn và dư nợ dài hạn thì ta sẽ có cơ cấu về kỳ hạn của các khoản vay. Ta không thể kết luận tỷ lệ các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo tỷ lệ nào mới là sự mở rộng mà tuỳ từng thời điểm, tuỳ từng điều kiện mà sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng hợp lý là sự mở rộng cho vay. Hợp lý ở đây chính là nhu cầu vay của các doanh nghiệp được ngân hàng đáp ứng đầu đủ, vừa có lợi cho ngân hàng, vừa có lợi cho cho doanh nghiệp. Có những trường hợp thì cơ cấu dịch chuyển từ dư nợ ngắn hạn sang dư nợ trung và dài hạn là sự mở rộng, lại có những trường hợp cơ cấu dịch chuyển từ dư nợ trung và dài hạn sang dư nợ ngắn hạn mới là mở rộng. Bởi vì: Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn tăng chứng tỏ nhu cầu vốn cho mua sắm tài sản lưu động lớn, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đạt năng suất và hiệu quả; còn tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn tăng chứng tỏ các doanh nghiệp có nhu cầu lớn về đầu tư cho các dự án mở rộng sản xuất, kinh doanh, có nhu cầu lớn cho đầu tư đổi mới công nghệ. Nhu cầu vốn nào tăng cũng là dấu hiệu tốt đối với các DNNQD. Miễn là, các doanh nghiệp sử dụng loại vốn nào có hiệu quả, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và ngân hàng thì tỷ trọng dư nợ ngắn hạn tăng hay tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn tăng cũng đều hợp lý và là sự mở rộng cho vay các DNNQD. Chẳng hạn, do đầu tư mở rộng sản xuất nên các doanh nghiệp có hiệu quả cao nên nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp này tăng cao làm tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn tăng cao, mặc dù có thể tổng dư nợ không tăng nhưng có sự chuyển dịch theo nhu cầu của các DNNQD từ vay ngắn hạn sang vay dài hạn thì đó cũng là sự mở rộng cho vay. - Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn. Nợ quá hạn của các DNNQD là toàn bộ số dư nợ (cả gốc và lãi) của các DNNQD đã đến hạn thanh toán nhưng các doanh nghiệp này không thanh toán mà chưa được xử lý cho gia hạn nợ, xoá nợ… Tỷ lệ nợ quá hạn của các DNNQD là tỷ lệ giữa số dư nợ quá hạn trên tổng dư nợ của các doanh nghiệp này. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn không trực tiếp phản ánh sự mở rộng cho vay các DNNQD nhưng nó rất quan trọng trong đánh giá sự an toàn và hiệu quả của mở rộng cho vay. Mục tiêu của hoạt động ngân hàng là an toàn và hiệu quả do đó việc mở rộng cho vay cũng cần phải đảm bảo hiệu quả nên người ta thường khống chế mức nợ quá hạn dưới một mức nào đó chứ không phải là mở rộng bằng mọi giá. 1.2.2.2.Số DNNQD vay vốn ở ngân hàng. Đó chính là số lượng các DNNQD có quan hệ vay vốn của ngân hàng trong một thời gian nhất định thường là một năm. Số lượng các doanh nghiệp là con số cụ thể nhất phản ánh quá trình mở rộng cho vay các doanh nghiệp của ngân hàng. Nghiên cứu quá trình mở rộng thông qua số doanh nghiệp cũng cần phải xem xét quá trình gia tăng của số doanh nghiệp vay vốn, đồng thời cũng phải xem sự biến động về số tiền mỗi làn vay vốn. Qua đó có thể đánh giá một cách bao quát việc mở rộng cho vay của ngân hàng. 1.2.2.3.Đa dạng các hình thức cho vay. Đa dạng các hình thức cho vay chính là việc ngân hàng sử dụng nhiều hình thức cho vay. Việc đa dạng các hình thức cho vay đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng, cũng như từng điều kiện của điều kiện của khách hàng. Ngân hàng cần nghiên cứu nhu cầu của khách hàng qua đó phát triển hoặc đổi mới các phương thức cho vay cho phù hợp. Có nhiều cách phân loại, nếu phân theo đặc điểm của món vay các doanh nghiệp thường sử dụng thì có các hình thức cho vay sau: Cho vay từng lần. Phương pháp này áp dụng đối với những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn từng lần. Đây là phương pháp cho vay phổ biến nhất. Mỗi lần vay vốn, khách hàng phải gửi đến ngân hàng các tài liệu : Phương án, dự án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Chứng từ liên quan đến nhu cầu vay : Hợp đồng mua, bán, giấy báo giá... Ngân hàng xác định mức cho vay theo công thức : Mức Tổng nhu cầu Vốn tự có vốn khác cho = vốn của phương - của khách - (nếu có ) vay án , dự án hàng tham gia Vốn tự có được xác định là vốn có thực tham gia trực tiếp vào phương án , dự án hoặc từng lần rút vốn vay của doanh nghiệp : Vốn bằng tiền, tài sản là vật tư, hàng hoá... Ngân hàng và khách hàng thoả thuận hợp đồng tín dụng cho cả phương án vay. Phát tiền vay : Nói chung phương pháp cho vay từng lần thì phát tiền vay một lần. Tuy nhiên cũng có trường hợp phát làm 2 lần trở lên trường hợp này kèm theo hợp đồng tín dụng có thêm giấy nhận nợ. Phương án này có nhược điểm là mỗi lần vay vốn, khách hàng phải lập đủ các thủ tục vay và hợp đồng tín dụng do vậy phương pháp này còn gây phiền hà cho khách hàng . Cho vay theo hạn mức tín dụng . Đây là hình thức tín dụng mà ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng. Hạn mức đó chính là số dư tối đa tại một thời điểm. Phương thức này áp dụng đối với khách hàng vay ngắn hạn có nhu cầu vay vốn thường xuyên, sản xuất, kinh doanh ổn định. - Xác định hạn mức tín dụng . Ngân hàng sau khi nhận đủ các tài liệu của doanh nghiệp, nếu đồng ý thì ngân hàng xác định hạn mức tín dụng: Nhu cầu vốn Doanh thu hoặc chi phí sản xuất kinh doanh (KH) lưu động kỳ = kế hoạch Vòng quay vốn lưu động trong kỳ (KH) Hạn mức Nhu cầu vốn Vốn tự có vốn khác tín dụng = lưu động - của khách - (nếu có ) (KH) trong kỳ (KH) hàng tham gia Tổng doanh thu thuần Số vòng quay của vốn lưu động = Vốn huy động bình quân Vốn tự có tham gia được xác định là toàn bộ vốn chủ sở hữu bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán hoặc vốn hoạt động thuần (Tài sản lưu động trừ đi nợ ngắn hạn) - Phát tiền vay: Trong phạm vi hạn mức tín dụng, thời gian hiệu lực của hợp đồng tín dụng, mỗi lần vay vốn doanh nghiệp và ngân hàng lập giấy nhận nợ kèm theo các chứng từ phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng. Việc theo dõi phát tiền vay trên giấy nhận nợ phải cùng đồng thời theo dõi trên phụ lục hợp đồng tín dụng . - Lãi suất cho vay: Căn cứ vào quy định lãi suất của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam, Chi nhánh Thăng Long và khách hàng thoả thuận để ghi vào hợp đồng tín dụng hoặc giấy nhận nợ kèm theo hợp đồng tín dụng - Quản lý hạn mức tín dụng : Chi nhánh Thăng Long phải quản lý chặt chẽ hạn mức tín dụng, bảo đảm mức cho vay không vượt quá hạn mức đã ký kết . Trong quá trình vay vốn, trả nợ, nếu việc sản xuất, kinh doanh có thấy đổi và doanh nghiệp có nhu cầu điều chỉnh hạn mức, doanh nghiệp phải làm giấy đề nghị xác nhận lại hạn mức tín dụng và Chi nhánh Thăng Long nếu thấy hợp lý thì cùng doanh nghiệp thoả thuận bổ sung hợp đồng tín dụng . - Ký kết hợp đồng mới: Trước 10 ngày khi hạn mức tín dụng cũ hết hiệu lực doanh nghiệp phải gửi cho Chi nhánh Thăng Long phương án sản xuất, kinh doanh kỳ tiếp theo. Chi nhánh Thăng Long sẽ xem xét nếu đủ điều kiện sẽ xác định hạn mức tín dụng và thời hạn tín dụng mới. Trường hợp hạn mức tín dụng kỳ này thấp hơn hạn mức tín dụng kỳ trước thì doanh nghiệp phải giảm dư nợ thấp hơn hạn mức tín dụng kỳ này mới được vay tiếp theo hợp đồng tín dụng mới. - Xác định thời hạn cho vay . Thời hạn cho vay được xác định trên hợp đồng tín dụng hoặc xác định trên giấy nhận nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của doanh nghiệp, nguồn vốn của Chi nhánh Thăng Long. Nếu doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh tổng hợp thì chọn sản phẩm có chu kỳ kinh doanh dài nhất hoặc chiếm tỷ trọng chủ yếu để xác định thời hạn vay. Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho cả ngân hàng và doanh nghiệp do thủ tục vay vốn đơn giản sau lần vay đầu tiên, ngân hàng và doanh nghiệp chủ động hơn trong việc cân đối và sử dụng vốn . Cho vay trả góp. Khi vay vốn, Chi nhánh Thăng Long và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải cộng với số gốc phải chia ra để trả nợ làm nhiều kỳ hạn trong thời gian vay. Hình thức này chủ yếu dùng trong cho vay đời sống của cá nhân, hộ gia đình, còn đối với các doanh nghiệp việc cho vay trả góp thường phát sinh khi có các nhu cầu vay vốn như: Xây dựng các công trình phúc lợi cho cán bộ, công nhân viên (Nhà mẫu giáo, nhà văn hoá...) Do hình thức này là vay trung và dài hạn nên ngân hàng cần phải chú ý cân đối ngồn vốn trung và dài hạn. Cho vay theo hạn mức thấu chi . Phương thức này hiện chưa được NHNo&PTNT Việt Nam quy định chi tiết nên Chi nhánh Thăng Long có nhu cầu thì phải lập đề án trình tổng giám đốc thì mới được thực hiện . Phương thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay theo hạn mức thấu chi, có thu nhập ổn định và có tín nhiệm với ngân hàng . - Tài khoản thấu chi: Muốn vay theo hình thức này khách hàng phải mở tài khoản thấu chi tại ngân hàng . Số dư trên tài khoản thấu chi có thể dư nợ hoặc dư có. Dư có có nghĩa là khách hàng đang gửi tiền vào ngân hàng và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc45.doc
Tài liệu liên quan