Cẩm nang doanh nhân

Amazone- Ông trùm thương mại điện tử

1964, Jeff Bezos cất tiếng khóc chào đời ởNew Mexico. Jeff không biết mặt

người cha ruột thịt của mình. Người tạo ra cậu đã bỏrơi người bạn gái 17

tuổi với đứa con đỏhỏn trên tay để đi tìm hạnh phúc khác. Người cha dượng

của Jeff - một chàng trai gốc Cuba đã giang rộng vòng tay đón hai mẹcon và

coi Jeff nhưcon đẻ.

Hầu nhưcảtuổi thơcủa mình Jeff ởvới ông ngoại, Laurence Preston Gais -

một người đàn ông có nhiều uy tín và ảnh hưởng. Ông ngoại của Jeff từng là

Giám đốc của Ủy ban nguyên tửMỹ ởAlbuquerque. Ông vềhưu sớm đểlàm

trang trại. Đây cũng là nơi Bezos dành phần lớn thời gian nghỉhè của mình

đểgiúp ông làm việc và trông nom trang trại. Và Jeff đã sống nhưvậy với

ông ngoại, giữa trang trại đầy ắp tiếng cừu tiếng dê và bạt ngàn cỏdại.

Jeff đam mê kỹthuật từbé. Thậm chí khi còn chập chững biết đi, ông đã tự

mình dùng tuốc nơvít đểtháo cũi ra. Lớn hơn chút, ông biến garage ô tô của

bốmẹthành phòng thí nghiệm cho những dựán khoa học của mình.

Sau khi tốt nghiệp phổthông trung học ởMiami, Jeff thi đỗvào khoa vật lý

thuộc trường ĐH Tổng hợp Princeton. Jeff học rất giỏi các môn tựnhiên, và

đã tốt nghiệp đại học loại suất sắc. Lúc này, sốhọc sinh giỏi vềmôn toán

hoặc vật lý rất ít. Và Jeff đã lọt vào tầm ngắm của công ty tài chính viễn

thông Fitel, một công ty hàng đầu Hoa kỳtrong lĩnh vực công nghệthông tin

và quản trịmạng. Jeff làm việc ở đây khoảng 1 năm. Sau đó Jeff tiếp tục thử

sức ởcông ty ứng dụng của khoa hoc máy tính cho thịtrường chứng khoán

D. E. Shaw, và sớm trởthành Phó chủtịch của công ty và đang hướng tới

một tương lai tươi sáng trong lĩnh vực tài chính. Nhưng cũng thời gian này,

Jeff phát hiện ra một điều và chính nó đã làm thay đổi cuộc đời anh cũng như

của lịch sửkinh doanh của nhân loại.

Hiện tượng Amazon.com

Năm 1994, khi Internet chưa được sửdụng cho mục đích thương mại. Jeffrey

Bezos quan sát thấy rằng việc sửdụng Internet đã tăng đến 2300% một

năm. Ông nhìn thấy cơhội mới cho thương mại và ngay sau đó anh bắt đầu

tính đến các khảnăng cho lĩnh vực này.

Tháng 7-1995, công ty chuyên bán sách qua mạng mang tên con sông hùng

vĩnhất Nam Mỹ đã ra đời tại một nhà đểxe ởthành phốSeattle.Jeff là người

sáng lập đồng thời là tổng giám đốc điều hành của Amazon.

Giữa rất nhiều chủng loại hàng hóa, sản phẩm, khi đó Jeff chỉchọn dăm ba

mặt hàng mà anh cho rằng có thểbán chạy qua mạng Internet. Sách là mặt

hàng chủlực của Jeff, một loại sản phẩm dễkinh doanh qua mạng nhất bởi

nó không dễdàng hưhại, không đòi hỏi các điều kiện bảo quản khắt khe và

Cẩm nang doanh nhân

tương đối dễvận chuyển. Internet chính là một cái container lý tưởng để

chứa sách, chứa các sản phẩm thông tin của anh.

Jeff cho biết ông chọn sách đểbán trước tiên vì đây là mặt hàng có nhiều lựa

chọn. Anh cũng nói thêm “Sựkhác biệt lớn nhất giữa Amazon và những công

ty khác là ởchỗAmazon đặc biệt chú ý đến khách hàng. Chúng tôi có những

sản phẩm họcần, họchọn được và giá rất thấp.”Trong 30 ngày đầu, Amazon

đã bán được sách ở50 bang và 45 nước trên thếgiới. Đến tháng 9 năm đó,

doanh thu của Amazon đã lên tới 20.000 USD một tuần. Jeff Bezos và nhân

viên đã thức đêm thức hôm để đóng gói sách trong một nhà kho khiếm tốn

nhằm tranh thủgiao kịp yêu cầu của số đơn hàng tăng vọt.

Công việc kinh doanh tiến triển nhanh đến mức không ai ngờtới. Khi công ty

được công bốchính thức với công chúng vào năm 1997, có người nghi ngờ

rằng liệu một tủsách trên mạng nhưvậy có thểduy trì được vịtrí của nó khi

so với những nhà sách truyền thống nhưBarnes và Noble hay Borders hay

không. Hai năm sau đó, thịphần của Amazon đã lớn hơn cảhai đối thủkia

cộng lại và Borders đang cốgắng đàm phán kinh doanh cùng với Amazon.

Jeff nói trước với những người chung vốn đầu tưban đầu với ông rằng 70%

khảnăng là họsẽbịmất hết sốtiền đầu tưnhưng cha mẹanh vẫn đầu tư

vào đó 300.000 USD. Đây là một phần tiền tiết kiệm của ông bà. Chỉsau đó

vài năm, với 6% vốn sởhữu của Amazon, họ đã trởthành tỷphú. Hiện nay,

gia đình Bezos giữ1/3 sốcổphần của công ty. Người đàn ông được coi là

ông vua của thương mại điện tửnày đang điều hành một tổhợp toàn cầu

buôn bán đủthứtừvỏ đàn banjo cho đến sườn lợn con.

Jeff Bezos cho biết "Mong muốn của chúng tôi là biến công ty thành công ty

vì khách hàng nhất trên thếgiới. Đây sẽlà nơi đểmọi người tìm và khám phá

bất cứthứgì họmuốn mua trên mạng”.

Làm việc theo phong cách “Just Do It”

Không phải ai cũng biết thành công của Amazon là kết quảcủa quá trình đầu

tưbền bỉvà tốn kém cho hạtầng thông tin và công nghệbán hàng qua

mạng. Công ty tập thu hút nhiều nhân lực giỏi vềcông nghệ. 10 nhân viên

đầu tiên của công ty đều là các kỹsưvi tính. Hàng năm, Amazon dành ra

khoảng 200 triệu USD cho công nghệ, đặc biệt là phát triển phần mềm. Đến

nay, tất cảcác phần mềm TMĐT của Amazon đều do công ty tựviết. Công

nghệcủa Amazon đã giúp công ty hoàn thiện quy trình kinh doanh và giảm

chi phí.

Bezos là người dễtính và hài hước. Nhưng mặt khác, ông vẫn luôn đòi hỏi ở

nhân viên mình phải làm việc đúng thời hạn, năng suất lao động cao, sáng

tạo và thông minh. Đểkhuyến khích nhân viên có ý tưởng mới, Bezos đã đưa

ra chương trình “Just Do It”. Theo đó, người chiến thắng là người đưa ra

những dựán có lợi cho công ty mà không cần phải đợi sếp đồng ý. Bezos tin

rằng công ty sẽ được rất nhiều thứnếu biết cách trao đổi thông tin với khách

Cẩm nang doanh nhân

hàng và lắng nghe ý kiến của họ. Amazon.com khuyến khích khách hàng đưa

ra những nhận xét và lời khuyên vềnhững cuốn sách hay.

Hiện nay có hơn 900.000 đại lý bán lẻbên thứ3 cung cấp sản phẩm của họ

lên trang Amazon. Với hơn 9000 nhân viên làm việc trên toàn thếgiới, doanh

thu của hãng đạt 10,7 tỷUSD vào năm 2006. Mới đây, Amazon còn thông

báo tham gia thịtrường nhạc số

pdf77 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Cẩm nang doanh nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cẩm nang doanh nhân Cẩm nang doanh nhân NỘI DUNG CHÍNH Amazone- Ông trùm thương mại điện tử Liên kết và phát triển - Mô hình sáng tạo mới của Procter&Gamble Làm sao để diễn thuyết trong vai trò quản lý? Mua cao- bán thấp Chiến lược thương hiệu Kế sách làm giàu Bài học từ thuyết Trung dung Nghĩ khác, làm khác Dành cho sếp nữ 10 cách để giảm áp lực cho CEO Chủ nhân hệ thống IKEA 20 cách để quảng bá Website của bạn Giai đoạn đầu của kinh doanh Khi nào cần thay đổi mô hình kinh doanh? John Sperling- Apollo Group Phương cách đầu tư của các tỷ phú thế giới Nghệ thuật đặt tên công ty như thế nào? Bí quyết lãnh đạo trong doanh nghiệp Kinh nghiệm làm sếp trẻ 4 nguyên nhân thất bại khi điều hành kinh doanh Cẩm nang doanh nhân Amazone- Ông trùm thương mại điện tử 1964, Jeff Bezos cất tiếng khóc chào đời ở New Mexico. Jeff không biết mặt người cha ruột thịt của mình. Người tạo ra cậu đã bỏ rơi người bạn gái 17 tuổi với đứa con đỏ hỏn trên tay để đi tìm hạnh phúc khác. Người cha dượng của Jeff - một chàng trai gốc Cuba đã giang rộng vòng tay đón hai mẹ con và coi Jeff như con đẻ. Hầu như cả tuổi thơ của mình Jeff ở với ông ngoại, Laurence Preston Gais - một người đàn ông có nhiều uy tín và ảnh hưởng. Ông ngoại của Jeff từng là Giám đốc của Ủy ban nguyên tử Mỹ ở Albuquerque. Ông về hưu sớm để làm trang trại. Đây cũng là nơi Bezos dành phần lớn thời gian nghỉ hè của mình để giúp ông làm việc và trông nom trang trại. Và Jeff đã sống như vậy với ông ngoại, giữa trang trại đầy ắp tiếng cừu tiếng dê và bạt ngàn cỏ dại. Jeff đam mê kỹ thuật từ bé. Thậm chí khi còn chập chững biết đi, ông đã tự mình dùng tuốc nơ vít để tháo cũi ra. Lớn hơn chút, ông biến garage ô tô của bố mẹ thành phòng thí nghiệm cho những dự án khoa học của mình. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học ở Miami, Jeff thi đỗ vào khoa vật lý thuộc trường ĐH Tổng hợp Princeton. Jeff học rất giỏi các môn tự nhiên, và đã tốt nghiệp đại học loại suất sắc. Lúc này, số học sinh giỏi về môn toán hoặc vật lý rất ít. Và Jeff đã lọt vào tầm ngắm của công ty tài chính viễn thông Fitel, một công ty hàng đầu Hoa kỳ trong lĩnh vực công nghệ thông tin và quản trị mạng. Jeff làm việc ở đây khoảng 1 năm. Sau đó Jeff tiếp tục thử sức ở công ty ứng dụng của khoa hoc máy tính cho thị trường chứng khoán D. E. Shaw, và sớm trở thành Phó chủ tịch của công ty và đang hướng tới một tương lai tươi sáng trong lĩnh vực tài chính. Nhưng cũng thời gian này, Jeff phát hiện ra một điều và chính nó đã làm thay đổi cuộc đời anh cũng như của lịch sử kinh doanh của nhân loại. Hiện tượng Amazon.com Năm 1994, khi Internet chưa được sử dụng cho mục đích thương mại. Jeffrey Bezos quan sát thấy rằng việc sử dụng Internet đã tăng đến 2300% một năm. Ông nhìn thấy cơ hội mới cho thương mại và ngay sau đó anh bắt đầu tính đến các khả năng cho lĩnh vực này. Tháng 7-1995, công ty chuyên bán sách qua mạng mang tên con sông hùng vĩ nhất Nam Mỹ đã ra đời tại một nhà để xe ở thành phố Seattle.Jeff là người sáng lập đồng thời là tổng giám đốc điều hành của Amazon. Giữa rất nhiều chủng loại hàng hóa, sản phẩm, khi đó Jeff chỉ chọn dăm ba mặt hàng mà anh cho rằng có thể bán chạy qua mạng Internet. Sách là mặt hàng chủ lực của Jeff, một loại sản phẩm dễ kinh doanh qua mạng nhất bởi nó không dễ dàng hư hại, không đòi hỏi các điều kiện bảo quản khắt khe và Cẩm nang doanh nhân tương đối dễ vận chuyển. Internet chính là một cái container lý tưởng để chứa sách, chứa các sản phẩm thông tin của anh. Jeff cho biết ông chọn sách để bán trước tiên vì đây là mặt hàng có nhiều lựa chọn. Anh cũng nói thêm “Sự khác biệt lớn nhất giữa Amazon và những công ty khác là ở chỗ Amazon đặc biệt chú ý đến khách hàng. Chúng tôi có những sản phẩm họ cần, họ chọn được và giá rất thấp.”Trong 30 ngày đầu, Amazon đã bán được sách ở 50 bang và 45 nước trên thế giới. Đến tháng 9 năm đó, doanh thu của Amazon đã lên tới 20.000 USD một tuần. Jeff Bezos và nhân viên đã thức đêm thức hôm để đóng gói sách trong một nhà kho khiếm tốn nhằm tranh thủ giao kịp yêu cầu của số đơn hàng tăng vọt. Công việc kinh doanh tiến triển nhanh đến mức không ai ngờ tới. Khi công ty được công bố chính thức với công chúng vào năm 1997, có người nghi ngờ rằng liệu một tủ sách trên mạng như vậy có thể duy trì được vị trí của nó khi so với những nhà sách truyền thống như Barnes và Noble hay Borders hay không. Hai năm sau đó, thị phần của Amazon đã lớn hơn cả hai đối thủ kia cộng lại và Borders đang cố gắng đàm phán kinh doanh cùng với Amazon. Jeff nói trước với những người chung vốn đầu tư ban đầu với ông rằng 70% khả năng là họ sẽ bị mất hết số tiền đầu tư nhưng cha mẹ anh vẫn đầu tư vào đó 300.000 USD. Đây là một phần tiền tiết kiệm của ông bà. Chỉ sau đó vài năm, với 6% vốn sở hữu của Amazon, họ đã trở thành tỷ phú. Hiện nay, gia đình Bezos giữ 1/3 số cổ phần của công ty. Người đàn ông được coi là ông vua của thương mại điện tử này đang điều hành một tổ hợp toàn cầu buôn bán đủ thứ từ vỏ đàn banjo cho đến sườn lợn con. Jeff Bezos cho biết "Mong muốn của chúng tôi là biến công ty thành công ty vì khách hàng nhất trên thế giới. Đây sẽ là nơi để mọi người tìm và khám phá bất cứ thứ gì họ muốn mua trên mạng”. Làm việc theo phong cách “Just Do It” Không phải ai cũng biết thành công của Amazon là kết quả của quá trình đầu tư bền bỉ và tốn kém cho hạ tầng thông tin và công nghệ bán hàng qua mạng. Công ty tập thu hút nhiều nhân lực giỏi về công nghệ. 10 nhân viên đầu tiên của công ty đều là các kỹ sư vi tính. Hàng năm, Amazon dành ra khoảng 200 triệu USD cho công nghệ, đặc biệt là phát triển phần mềm. Đến nay, tất cả các phần mềm TMĐT của Amazon đều do công ty tự viết. Công nghệ của Amazon đã giúp công ty hoàn thiện quy trình kinh doanh và giảm chi phí. Bezos là người dễ tính và hài hước. Nhưng mặt khác, ông vẫn luôn đòi hỏi ở nhân viên mình phải làm việc đúng thời hạn, năng suất lao động cao, sáng tạo và thông minh. Để khuyến khích nhân viên có ý tưởng mới, Bezos đã đưa ra chương trình “Just Do It”. Theo đó, người chiến thắng là người đưa ra những dự án có lợi cho công ty mà không cần phải đợi sếp đồng ý. Bezos tin rằng công ty sẽ được rất nhiều thứ nếu biết cách trao đổi thông tin với khách Cẩm nang doanh nhân hàng và lắng nghe ý kiến của họ. Amazon.com khuyến khích khách hàng đưa ra những nhận xét và lời khuyên về những cuốn sách hay. Hiện nay có hơn 900.000 đại lý bán lẻ bên thứ 3 cung cấp sản phẩm của họ lên trang Amazon. Với hơn 9000 nhân viên làm việc trên toàn thế giới, doanh thu của hãng đạt 10,7 tỷ USD vào năm 2006. Mới đây, Amazon còn thông báo tham gia thị trường nhạc số. Cẩm nang doanh nhân Liên kết và phát triển - Mô hình sáng tạo mới của Procter&Gamble (Bài viết của Larry Huston - Phó chủ tịch nghiên cứu và phát triển và Nabil Sakkab - Phó chủ tịch cao cấp Tập đoàn Procter&Gamble). Chiến lược sáng tạo mở của Procter&Gamble (P&G) giờ đây đã giúp tập đoàn có được 35% các phát kiến và ý tưởng từ “bên ngoài” và mang lại hàng tỷ đô-la doanh thu mỗi năm. P&G đã cho ra mắt dòng sản phẩm Pringle vào năm 2004 với hình ảnh và từ ngữ được in trên mỗi miếng khoai tây giòn (câu hỏi tu từ, ảnh động vật và cả những câu chuyện vui). Sản phẩm này ngay lập tức được ưa thích. Nếu là ngày xưa, chúng tôi phải mất đến hai năm để đưa một sản phẩm mới ra thị trường, thì giờ đây chúng tôi sẵn sàng mạo hiểm và chấp nhận rủi ro trong đầu tư nhằm đưa sản phẩm ra thị trường sớm hơn. Điều này có được là do việc thực thi chiến lược mới đề cao sự sáng tạo. Các sản phẩm dòng Pringles Prints chỉ mất chưa đầy một năm đã ra mắt thị trường và có chi phí sản xuất rẻ hơn nhiều trước kia. Sau đây là cách chúng tôi đã làm: Trở lại năm 2002, khi chúng tôi đau đầu tìm cách tạo ra loại snack mới lạ và vui nhộn, có một ai đó đã đề nghị chúng tôi in hình các ngôi sao nhạc pop lên dòng sản phẩm Pringle. Đó là một ý kiến tuyệt vời nhưng chúng tôi sẽ thực hiện nó như thế nào đây? Một nhà nghiên cứu trong công ty đề nghị phun mực vào những miếng khoai tây giòn và cô đã sử dụng ngay máy in trong phòng để thử nghiệm. Chúng tôi nhanh chóng nhận ra mọi miếng khoai sẽ phải được in ngay khi vừa khô, khi vẫn còn ở độ ẩm cao và nóng. Và bằng cách nào đó chúng tôi phải đưa ra được những hình ảnh sắc nét, đa màu sắc và phải in được hàng ngàn ngàn chiếc/phút. Tuy nhiên để tạo ra loại mực có thể ăn được sẽ cần đến khoản đầu tư rất rất lớn. Theo truyền thống, chúng tôi phải dùng khá nhiều vốn đầu tư chỉ để phát triển một dự án khả thi. Một đội dự án được thành lập nhằm làm việc với những công ty in phun có thể đáp ứng nhu cầu và sau đó chúng tôi sẽ bước vào quá trình đàm phán cam go về bản quyền sử dụng công nghệ mới. Nhưng giờ đây, chúng tôi sẽ không làm vậy nữa. Thay vào đó chúng tôi thảo một bức thư xác định những vấn đề cần phải giải quyết, rồi ra thông báo trên hệ thống mạng lưới P&G toàn cầu, tìm kiếm một ai đó đã có sẵn giải pháp. Và rồi mạng lưới P&G tại Châu Âu đã phát hiện ra một nhà máy sản xuất bánh kẹo nhỏ ở Bologna , Italia có thứ chúng tôi cần. Ông chủ của nhà máy là một giáo sư đại học đã pháp minh ra một phương pháp in hình trên bánh với vận tốc cực nhanh. Chính phát minh này đã giúp việc ra mắt sản phẩm Pringle mới nhanh chóng và doanh số bán khoai tây giòn Pringle tại Bắc Mỹ tăng trưởng gấp đôi chỉ trong vòng hai năm. Từ R&D tới C&D Cẩm nang doanh nhân Hầu hết các công ty vẫn đang bám vào cái mà chúng tôi gọi là “mô hình tự sáng chế”, tập trung vào cơ sở hạ tầng Nghiên cứu và Phát triển (R&D) và những sáng tạo của họ được đưa ra trong bốn bức tường văn phòng. Để chắc ăn, những công ty này ngày càng cố gắng củng cố bộ phận R&D thông qua sát nhập, liên minh, đăng ký bản quyền và lựa chọn các kết quả sáng tạo. Họ chào mừng mô hình Skunk Works (lấy tên của công ty Skunk Works thuộc tập đoàn vũ khí Lockheed Martin, sản xuất hai máy bay do thám U2 và Black Bird cho quân đội Mỹ. Ý của tác giả chỉ các công ty ủng hộ sự do thám, gián điệp - ND), tăng cường liên kết giữa bộ phận marketing và R&D, gắn chặt những phát minh hướng-tới-thị-trường và củng cố quản trị danh mục sản phẩm. Nhưng thời thế đã đổi thay và mô hình này ngày càng khó hoạt động trơn tru. Hầu hết các công ty lớn phải hoàn thành chỉ tiêu phát triển từ 4-6%/năm. Làm thế nào để hoàn thành mục tiêu này? Đối với P&G, mục tiêu này tương đương với 4 tỷ USD. Thời gian không có nhiều mà các công ty ngày càng trở nên nhỏ hơn trong thế giới cạnh tranh gay gắt, vì vậy, hãng giờ đây không thể chỉ phụ thuộc vào nguồn R&D nội bộ. Quá khứ đã chứng minh P&G đã từng tạo ra những bước phát triển thần kỳ dựa trên sự sáng tạo - hãng đã tạo dựng được khả năng nghiên cứu trên toàn cầu và tuyển dụng được những nhà nghiên cứu tài năng làm việc. Phương pháp này đã từng rất hiệu quả khi chúng tôi là công-ty-25-tỷ-USD, nhưng ngày nay con số đó đã lên đến gần 70 tỷ USD. Vào năm 2000, chúng tôi thấy rõ mô hình tự-sáng-chế không còn hữu dụng để duy trì tốc độc phát triển cao dành cho các doanh nghiệp hàng đầu. Sự bùng nổ công nghệ mới ngày càng gây sức ép lên ngân sách dành cho sáng tạo của hãng. Hiệu quả R&D giảm rõ và tỷ lệ thành công (tính trên tỷ lệ doanh thu của sản phẩm mới so với mục tiêu tài chính) chỉ còn khoảng 35%. Bị dồn ép bởi các đối thủ cạnh tranh năng động, doanh số bán hành liên tục giảm, các sản phẩm mới không gây được ấn tượng và doanh thu các quý “trượt dần đều”, chúng tôi mất hơn nửa thị trường trong khi giá trị cổ phiếu công ty trên thị trường chứng khoán giảm từ 118 USD/cổ phiếu xuống còn 52 USD/cổ phiếu. Đã đến lúc phải thức dậy rồi. Bản đồ sáng tạo của thế giới đã thay đổi, trong khi chúng ta vẫn chưa thay đổi mô hình sáng tạo của chính mình từ cuối những năm 80. Đã đến lúc, chúng ta cần phải chuyển từ mô hình tập trung hóa sang mô hình liên kết mạng lưới toàn cầu. Đó là những gì Christopher Bartlett và Sumatra nói đến trong cuốn sách “quản trị xuyên biên giới”. Chúng tôi phát hiện ra rằng ngày càng xuất hiện nhiều những sáng tạo quan trọng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngay cả các cá nhân cũng có những sáng tạo được cấp bằng sáng chế và bán bản quyền trí tuệ. Các phòng thí nghiệm ở các trường đại học và của chính phủ cũng quan tâm tìm đối tác trong các ngành công nghiệp và đang rất muốn biến những nghiên cứu của mình thành tiền. Internet đã mở cửa cho mọi tài năng trên thế giới thỏa sức phát huy. Và một số ít các công ty có tầm nhìn xa như IBM và Eli Lilly đã bắt đầu thử nghiệm những phương thức sáng tạo mở, ứng dụng những sáng tạo Cẩm nang doanh nhân của các cá nhân và tổ chức “bên ngoài” (thậm chí của cả đối thủ cạnh tranh) bao gồm sản phẩm, bản quyền trí tuệ và cả con người. Trở lại với trường hợp của P&G năm 2000, hiệu quả R&D vẫn vậy trong khi chi phí dành cho nó ngày càng tăng, thậm chí, còn tăng nhanh hơn tốc độ phát triển của tập đoàn. Vào năm 2000, chúng tôi nhận ra rằng P&G sẽ không thể đáp ứng được các mục tiêu phát triển bằng cách ngày càng đổ nhiều tiền hơn vào đây và giảm giá sản phẩm, vị CEO mới được bổ nhiệm, A.G.Lafley, đã đưa ra một mô hình kinh doanh sáng tạo mới dựa trên nền tảng kinh doanh sáng tạo sẵn có. Trước đây hầu hết những sáng tạo của P&G là nhờ liên kết những ý tưởng nội bộ. Nhưng những kết quả gần đây cho thấy chúng tôi cần liên kết với “bên ngoài” để có được những phát kiến hữu dụng. Những liên kết trong-ngoài này sẽ là chìa khóa của thành công trong tương lai. Lafley đặt mục tiêu sẽ có 50% các sáng tạo ngoài công ty. Nhưng chiến lược này không có nghĩa là sa thải hơn 7.500 nhà nghiên cứu của hãng hoặc họ chỉ làm công việc hỗ trợ mà đây là phương thức thúc đẩy họ làm việc tốt hơn. Lafley nói: một nửa các sản phẩm mới của P&G có xuất xứ từ các phòng thí nghiệm của hãng và nửa còn lại phải được các phòng thí nghiệm đó thông qua. Cho đến giờ, đây vẫn là ý kiến tuyệt vời. Khi tìm kiếm các nguồn sáng tạo bên ngoài, chúng tôi dự kiến có tổng cộng có khoảng 1,5 triệu con người tài năng sẽ cộng tác với chúng tôi. Nhưng để sử dụng hiệu quả suy nghĩ sáng tạo của các nhà phát minh và những cộng tác viên trên toàn thế giới đòi hỏi phải có những thay đổi lớn trong hoạt động. Chúng tôi cần thay đổi thái độ của công ty từ “tồn tại để sáng tạo” sang “nhiệt tình tìm kiếm lòng tự hào công ty” ở bất cứ đâu. Giờ đây tổ chức R&D của hãng từ 7.500 người trước kia thành 7.500 cộng 1,5 triệu cộng tác viên, không phân biệt biên giới. Đây chính là nền tảng đưa đến mô hình sáng tạo C&D liên kết và phát triển. Cùng với cảm nhận rõ ràng về nhu cầu của khách hàng, chúng tôi có thể xác định được các ý tưởng hứa hẹn thành công trên toàn thế giới và áp dụng vào R&D, sản xuất, marketing và bán hàng nhằm nhanh chóng tạo ra sản phẩm tốt hơn và rẻ hơn. Mô hình này vẫn đang rất hiệu quả. Ngày nay, hơn 35% sản phẩm mới của hãng bắt nguồn từ các ý tưởng ngoài P&G (so với 15% năm 2000) và dự kiến sẽ chiếm 45% trong năm tiếp theo. Thông qua mô hình liên kết và phát triển, hiệu quả R&D nội bộ cũng tăng gần 60%, thúc đẩy các mặt khác liên quan đến sáng tạo như giá cả, mẫu mã và marketing. Vậy là tỷ lệ sáng tạo thành công tăng gấp đôi trong khi chi phí dành cho nó vẫn tiếp tục giảm xuống. Đầu tư cho R&D chỉ chiếm 4,8% doanh thu bán hàng năm 2000 giảm xuống còn 3,4% trong năm 2006, tuyệt vời hơn, chúng tôi đã có hơn 100 sản phẩm mới trong hai năm trở lại đây, kéo theo đó là giá trị cổ phiếu P&G tăng gần gấp đôi trên thị trường chứng khoán cùng với thương hiệu P&G có giá trị lên gần 22 tỷ USD. Cẩm nang doanh nhân Trong các cuộc trưng cầu ý kiến các CEO và chủ tịch HĐQT gần đây, đa số vẫn cho rằng ưu tiên số một là “duy trì và phát triển bền vững”. Các CEO luôn hiểu tầm quan trọng của việc sáng tạo đối với phát triển, tuy nhiên liệu có bao nhiêu người biết cách tiếp cận sự sáng tạo? Và nếu các công ty không thay đổi nhanh và đến khi nhận ra biểu đồ sáng tạo đã đi xuống cũng như mô hình hiện tại không phù hợp thì đã quá muộn và hầu hết các công ty có tốc độ phát triển “bền vững” hiện nay sẽ khó mà trở tay cho kịp. Thực hiện chiến lược liên kết và phát triển như thế nào? Chiến lược sáng tạo mở của Procter&Gamble (P&G) giờ đây đã giúp tập đoàn có được 35% các phát kiến và ý tưởng từ “bên ngoài” và mang lại hàng tỷ đô-la doanh thu mỗi năm. Thực hiện chiến lược liên kết và phát triển như thế nào? Lần đầu tiên nghe về liên kết và sáng tạo, mọi người thường nghĩ nó giống như việc ứng dụng các kết quả sáng tạo từ bên ngoài để phát triển một sản phẩm mới. Nhưng thực ra không phải. Chiến lược tận dụng nguồn lực bên ngoài đơn giản chỉ là chuyển công việc cho những công ty có chi phí thấp hơn. Ngược lại, chiến lược liên kết và phát triển là tìm kiếm các ý tưởng hứa hẹn ở bên ngoài và kết hợp chúng với vốn và khả năng làm việc trong nội bộ công ty. Để làm được điều này, P&G hợp tác với các tổ chức và cá nhân trên toàn thế giới, tìm kiếm một cách có hệ thống các công nghệ, cách đóng gói sản phẩm hay các sản phẩm có tiềm năng hứa hẹn để phát triển và đưa vào thị trường. Hãng sử dụng cách hoặc mua đứt hoặc hợp tác. Trong số các sản phẩm hành công nhất đã được chúng tôi mua đứt ý tưởng và đưa vào thị trường bằng chiến lược liên kết và phát triển có mỹ phẩm Olay Regenerist, khăn lau bụi Swiffer Dusters và bàn chải đánh răng Crest SpinBrush. Chúng tôi nhận ra rằng để chiến lược “liên kết và phát triển” phát huy hiệu quả thì cần phải biết chính xác mình tìm kiếm cái gì và ở đâu. Nếu thực hiện mà không hướng tới các mục tiêu cụ thể thì sẽ nhận được một đống giải pháp vô dụng. Hiện nay P&G có tất cả 300 nhãn hàng, lĩnh vực mà hãng đứng đầu thế giới là tẩy rửa với các thương hiệu như Crest, Charmin, Pampers, Tide và Downy. Mỗi năm hãng đầu tư khoảng 2 tỷ USD cho R&D trong 150 lĩnh vực khoa học như nguyên vật liệu, sinh học, dinh dưỡng học, dược và cả robot. Để tập trung tìm kiếm ý tưởng, chúng tôi trực tiếp tiến hành khảo sát trên ba lĩnh vực: 10 nhu cầu hàng đầu của khách hàng. Mỗi năm một lần P&G tiến hành một cuộc khảo sát về nhu cầu của khách hàng, nhu cầu đã được đáp ứng ở mức độ nào và ảnh hưởng của nó đến sự lớn mạnh của thương hiệu. Hầu hết các hãng khác cũng làm việc này, có điều đa số họ chỉ quan tâm đến những vấn đề của hãng mà ít chú ý đến ảnh hưởng của nó đến khả năng phát triển thương hiệu. Bản khảo sát của chúng tôi sẽ đưa ra danh sách 10 nhu cầu Cẩm nang doanh nhân hàng đầu của khách hàng đối với mỗi lĩnh vực và toàn tập đoàn. Ví dụ, trong bản danh sách bao gồm các nhu cầu như: “xóa bớt vết nhăn, giúp da mịn và sáng”; “ngăn chặn vết bẩn và khôi phụ lại bề mặt cứng”; “tạo ra các sản phẩm giấy mềm mại hơn và độ ẩm cao hơn” hay “ngăn chặn hoặc giảm thiểu sự khắc nghiệt của thời tiết lạnh”. Danh sách các nhu cầu này được đưa đến các phòng nghiên cứu hoặc được thảo ra thành những thông báo về công nghệ như chúng tôi đã làm khi tìm kiếm phương pháp in trên sản phẩm khoai tây chiên giòn Pringles. Một ví dụ khác, nhằm đáp ứng nhu cầu về máy giặt loại lớn có thể giặt sạch bằng nước giá lạnh vào mùa đông, chúng tôi nghiên cứu các giải pháp về hóa học và công nghệ sinh học cho phép máy giặt vẫn hoạt động tốt trong môi trường nhiệt độ thấp. Nhưng có thể một phòng thí nghiệm nào đó nghiên cứu các phản ứng enzym trong các vi khuẩn ở môi trường băng giá đã tìm được câu trả lời cho vấn đề này. Và chúng tôi cần chỉ là tìm ra phòng thí nghiệm đó mà thôi. Kế tục. Chúng tôi luôn xác định các sản phẩm kế tục nhau. Điều này có nghĩa hãng sẽ tìm kiếm các sản phẩm hay công thức có thể giúp tăng ưu điểm của những mặt hàng thương hiệu hiện có. Ví dụ, P&G có thể tìm kiếm những ý tưởng về sản phẩm chăm sóc trẻ em- như tá giấy và bỉm- bổ xung cho thương hiệu Pampers và rồi tìm kiếm những sản phẩm kết hợp sáng tạo hoặc những công nghệ phù hợp trong lĩnh vực này. Bằng cách xác định mục tiêu kết hợp, chúng tôi đã mở rộng nhãn hàng Crest ra khỏi những chiếc bàn chải đánh răng thông thương, Crest bây giờ là thương hiệu bao gồm chất làm trắng răng, bàn chải đánh răng và chỉ tơ mềm làm sạch kẽ răng. Ban quản trị trò chơi công nghệ. Cuối cùng, trong vài trường hợp chúng tôi sử dụng cái gọi là Ban quản trị trò chơi công nghệ để đánh giá công nghệ nào thích hợp với lĩnh vực kinh doanh nào. Công việc này cũng giống như chơi cờ đa cấp. Biện pháp này giúp chúng tôi trả lời những câu hỏi như: “Chìa khóa công nghệ nào chúng ta muốn phát triển mạnh hơn?”; “Công nghệ nào chúng ta muốn mua lại để đánh bại đối thủ cạnh tranh?” hay “Trong số những công nghệ đã có, cái nào chúng ta muốn đăng ký bản quyền, bán hay liên kết phát triển?”. Sử dụng liên kết toàn cầu Mạng liên kết toàn cầu của P&G chính là nền tảng cho các hoạt động kết hợp chiến lược liên kết và phát triển. Cùng với ba phương pháp nêu trên kết hợp với mạng liên kết toàn cầu của hãng, chúng tôi luôn cố gắng bảo đảm để không một nguồn ý tưởng nào bị bỏ qua từ các phòng thí nghiệm của chính phủ hay cá nhân, các viện nghiên cứu, các nhà cung cấp, phân phối hay thậm chí cả đối thủ cạnh tranh, các đối tác thương mại, các hãng liên doanh và cả những doanh nghiệp tư nhân. Sau đây là vài nguồn chính chúng tôi vẫn sử dụng để tìm kiếm ý tưởng mới: Cẩm nang doanh nhân Nguồn độc quyền. Chúng tôi sử dụng nhiều nguồn độc quyền để khuyến khích các hoạt động “liên kết và phát triển”. Có hai nguồn lớn nhất: Các doanh nghiệp công nghệ. Rất nhiều các hoạt động trong “liên kết và phát triển” phụ thuộc vào mạng lưới quan hệ với 70 doanh nghiệp công nghệ trên toàn thế giới. P&G lập ra danh sách các nhu cầu của khách hàng, các ưu điểm cần cải tiến trong sản phẩm và ban quản trị trò chơi công nghệ, rồi thảo và công bố các bức thư công nghệ về các vấn đề cần giải quyết. Các doanh nghiệp công nghệ liên kết với chúng tôi chủ yếu ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật, Tây Âu, Mỹ Latin và Mỹ. Mỗi nơi tập trung tìm kiếm các sản phẩm và công nghệ phù hợp với địa phương của mình. Ví dụ, các doanh nghiệp công nghệ ở Trung Quốc ưu tiên tìm kiếm các nguồn nguyên liệu mới có chất lượng cao và chi phí rẻ (vì các sản phẩm ở Trung Quốc thường được sản xuất với chi phí thấp). Các doanh nghiệp ở Ấn Độ thì tìm kiếm các tài năng khoa học bản địa để giải quyết các vấn đề về quy trình sản xuất… Cho đến giờ các doanh nghiệp công nghệ liên kết với chúng tôi đã đem lại hơn 10.000 sản phẩm, ý tưởng và công nghệ hứa hẹn. Các nhà cung cấp. 15 nhà cung cấp hàng đầu của chúng tôi đã liên kết với hơn 50.000 nhà khoa học. Không lâu sau khi P&G xây dựng chiến lược liên kết và phát triển, hãng đã nhận ra mình có một nguồn sáng tạo đầy tiềm năng. Công ty đã tạo ra nền tảng IT an ninh cho phép chia sẻ các bức thư công nghệ với các nhà cung cấp. Do vậy, nếu hãng có khúc mắc gì đã quá thời gian giải quyết, thì thông thường các nhà cung cấp sẽ tìm được giải pháp. Hiện 30% số dự án sáng tạo của P&G đến từ các nhà cung cấp. Nguồn mở. P&G hiện có bốn nguồn mở chủ yếu phục vụ mô hình liên kết và phát triển. NineSigma. P&G giúp tạo ra NineSigma, một tổ chức liên kết với các công ty, các trường đại học, chính phủ, phòng thí nghiệm tư nhân và nhà tư vấn nhằm giải quyết các vấn đề công nghệ và khoa học. Ví dụ, trở lại với nhu cầu chiếc máy giặt hoạt động được trong môi trường nhiệt độ thấp, NineSigma thảo ra một bức thư công nghệ miêu tả vấn đề và thông báo cho mạng lưới của mình gồm hàng ngàn các nhà cung cấp giải pháp trên toàn thế giới. Bất kỳ một nhà cung cấp giải pháp nào cũng có thể gửi “bài giải” của mình đến NineSigma, tổ chức sẽ chuyển nó đến công ty yêu cầu. Nếu công ty yêu cầu thích giải pháp này, NineSigma sẽ là cầu nối giữa công ty và nhà cung cấp giải pháp. Dự án sẽ được triển khai. P&G đã gửi thư công nghệ đến hơn 700.000 người thông qua NineSigma và nhận được hơn 100 dự án. InnoCentive. Được thành lập bởi Eli Lilly, InnoCentive tương tự như NineSigma, nhưng không chỉ liên kết các công ty với những thành viên nhằm giải quyết vấn đề công nghệ, InnoCentive còn giải quyết cả những vấn đề thuộc khoa học. Ví dụ, chúng tôi có một phản ứng hóa học công nghiệp gồm năm bước phức tạp và muốn biết liệu có thể thực hiện được thành ba bước không. Chúng tôi gửi câu hỏi đến hơn 75.000 nhà khoa học của InnoCentive Cẩm nang doanh nhân và nhận được ba giải pháp đến từ các sinh viên Tây Ba Nha, một nhà hóa học Ấn Độ và một nhà tư vấn hóa học người Mỹ. YourEncore. Năm 2003, P&G thành lập YourEncore. Giờ đây tổ chức này hoạt động độc lập, liên kết khoảng 800 nhà khoa học và kỹ sư trình độ cao của 150 công ty khách hàng đã về hưu. Thông qua YourEncore, các công ty có thể tận dụng được kinh nghiệm phong phú kết hợp với những suy nghĩ mới để tạo nên những giải pháp hữu dụng. Qua YourEncore, bạn cũng có thể là

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcamnangdoanhnhan_01_0742_0737.pdf
Tài liệu liên quan