Cấu trúc thị trường tài chính

Thị trường tài chính là một hệ thống phức tạp trong đó có hàng nghìn các tổ chức thành viên, hàng triệu đơn vị tham gia và hàng tỉ giao dịch được thực hiện mỗi ngày. Hoạt động giao dịch trên những thị trường tài chính vượt qua các giới hạn về địa lý và thời gian, những đơn vị giao dịch (cá nhân và tổ chức) từ những điểm hoàn toàn khác xa nhau có thể trao đổi và giao dịch với nhau vào bất kỳ thời điểm nào. Sự toàn cầu hóa trong các giao dịch này thậm chí còn làm người ta đặt ra câu hỏi về vai trò của chính phủ các nước và khả năng giám sát những giao dịch đang diễn ra hàng ngày trên khắp thế giới này. Liên tục mở rộng hơn trên phạm vi quốc tế, các giao dịch tài chính đang diễn ra liên tục kín mỗi vòng quay đồng hồ, tương ứng là những thị trường tài chính liên tục vận động và liên tục thay đổi.

Tuy nhiên nếu xét về bản chất, chức năng cơ bản mà thị trường tài chính thực hiện cho nền kinh tế trên thực tế là không nhiều nhưng lại có vai trò rất quan trọng. Những chức năng này nằm ở vị trí trung tâm của nền kinh tế, nhờ đó mà các hoạt động đầu tư, tích kiệm, giao dịch được đảm bảo thực hiện thông suốt, đầy đủ và không gặp phải khó khăn, rủi ro.

 

doc10 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1519 | Lượt tải: 2download
Nội dung tài liệu Cấu trúc thị trường tài chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
   20/07/2007 Cấu trúc thị trường tài chính ( Bình chọn: 2   --  Thảo luận: 0 --  Số lần đọc: 6501) Thị trường tài chính là một hệ thống phức tạp trong đó có hàng nghìn các tổ chức thành viên, hàng triệu đơn vị tham gia và hàng tỉ giao dịch được thực hiện mỗi ngày. Hoạt động giao dịch trên những thị trường tài chính vượt qua các giới hạn về địa lý và thời gian, những đơn vị giao dịch (cá nhân và tổ chức) từ những điểm hoàn toàn khác xa nhau có thể trao đổi và giao dịch với nhau vào bất kỳ thời điểm nào. Sự toàn cầu hóa trong các giao dịch này thậm chí còn làm người ta đặt ra câu hỏi về vai trò của chính phủ các nước và khả năng giám sát những giao dịch đang diễn ra hàng ngày trên khắp thế giới này. Liên tục mở rộng hơn trên phạm vi quốc tế, các giao dịch tài chính đang diễn ra liên tục kín mỗi vòng quay đồng hồ, tương ứng là những thị trường tài chính liên tục vận động và liên tục thay đổi. Tuy nhiên nếu xét về bản chất, chức năng cơ bản mà thị trường tài chính thực hiện cho nền kinh tế trên thực tế là không nhiều nhưng lại có vai trò rất quan trọng. Những chức năng này nằm ở vị trí trung tâm của nền kinh tế, nhờ đó mà các hoạt động đầu tư, tích kiệm, giao dịch được đảm bảo thực hiện thông suốt, đầy đủ và không gặp phải khó khăn, rủi ro. Ba chức năng cơ bản của thị trường tài chính xoay quanh vấn đề luân chuyển vốn từ những chủ thế kinh tế thừa vốn đến những chủ thế kinh tế thiếu và có nhu cầu vốn. Điều này đảm bảo sự luân chuyển các nguồn lực giữa các đơn vị kinh tế khác nhau trong một nền kinh tế nói chung. Và thị trường tài chính hỗ trợ quá trình này bằng cách cung cấp các dịch vụ tài chính cần thiết. Thứ nhất, thị trường tài chính hỗ trợ cho sự hình thành và phân phối của các công cụ vốn (sở hữu) và các công cụ nợ; Thứ hai, thị trường tài chính thúc đẩy sự hình thành của những cơ chế nhờ đó những công cụ nói trên có thể được chuyển đổi ngược lại thành tiền và tăng tính thanh khoản chung cho thị trường; và Thứ ba, thị trường tài chính thúc đẩy sự hình thành và phát triển của những tổ chức có khả năng hỗ trợ các giao dịch được tiến hành một cách đầy đủ và an toàn. Hoạt động tạo chứng khoán mới Chức năng quan trọng nhất được thực hiện trên thị trường tài chính là tạo chứng khoán mới. Nhu cầu mua/bán lại chứng khoán là rất hiện hữu, những dịch vụ tài chính đều hướng đễn hỗ trợ cho hoạt động luân chuyển các nguồn lực này giữa bên có nhu cầu và bên cung cấp. Chính vì thế mà việc đầu tiên - việc tạo ra các chứng khoán có vai trò rất quan trọng. Với nhà đầu tư, chứng khoán dưới dạng vốn cổ phần thể hiện quyền lợi của họ với khả năng sinh lời của một doanh nghiệp, dưới dạng chứng khoán nợ thể hiện quyền lợi gắn với tài sản và/hay các khoản thu nhập của doanh nghiệp. Có ba kênh cơ bản tạo ra chứng khoán mới và phân phối đến các điểm dư thừa vốn trên thị trường là (i) Đầu tư vốn riêng lẻ (góp vốn riêng lẻ), (ii) Bảo lãnh phát hành chứng khoán, và (iii) Trung gian tạo lập và mua các loại chứng khoán mới. Đây là các hoạt động cơ bản trên thị trường sơ cấp. Đầu tư riêng lẻ (private placement) Trong hoạt động đầu tư riêng lẻ, một tổ chức tài chính có chức năng thích hợp, thường là một ngân hàng đầu tư hay ngân hàng thương mại sẽ tìm kiếm vốn cho một công ty tư nhân hay một ty cổ phần tìm kiếm vốn (Vai trò của ngân hàng đầu tư hay ngân hàng thương mại ở góc độ này là một đơn vị trung gian đứng ra sắp xếp giữa bên đầu tư và bên nhận đầu tư). Tổ chức tài chính trung gian này sẽ sắp xếp để một nhà đầu tư (một tổ chức tài chính lớn, một nhà đầu tư hay một đơn vị trung gian mua lại) thực hiện mua toàn bộ lượng chứng mới do đơn vị nhận đầu tư phát hành ra. Tổ chức tài chính trung gian sẽ nhận phí cho dịch vụ của mình. Do những chứng khoán mới phát hành này chỉ được bán tới một hoặc một số nhà đầu tư chứ không bán rộng ra cho mọi đối tượng có nhu cầu mua, cách thức giao dịch, giá cả giao dịch có những đặc điểm riêng đồng thời khả năng thành công cao hơn và ít rủi ro. Vai trò của tổ chức tài chính trung gian tương tự như một đơn vị cố vấn đối với công ty đang có nhu cầu bán cổ phần theo phương thức này để tìm kiếm vốn. Trong phương án bán cổ phần riêng lẻ, các điều khoản thực hiện có thể được điều chỉnh cho rất sát với thỏa thuận mua bán và hợp tác giữa bên mua và bên bán. Ngoài ra, do được tiến hành theo kiểu "trong nhà", hoạt động giao dịch này không phải qua quá nhiều khâu trung gian cũng như không phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán, do đó quá trình giao dịch cũng diễn ra nhanh và ít chi phí hơn. Thị trường tài chính Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bước tới: menu, tìm kiếm Thị trường tài chính là một bộ phận quan trọng bậc nhất trong hệ thống tài chính, chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế hàng hóa. Thị trường tài chính phát triển góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. [sửa] Vai trò, chức năng Thị trường tài chính đóng vai trò là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người kinh doanh. giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sinh lợi đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi. Thị trường tài chính thúc đẩy việc tích lũy và tập trung tiền vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, sản xuất kinh doanh. Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư. Người cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính toán sử dụng vốn vay đó hiệu quả nhất do họ phải hoàn trả cả vốn và lãi cho người cho vay đồng thời phải tạo thu nhập và tích lũy cho chính bản thân mình. Thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách mở cửa, cải cách kinh tế của Chính phủ thông qua các hình thức như phát hành trái phiếu ra nước ngoài, bán cổ phần, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất kinh doanh trong nước. Thị trường tài chính cho phép sử dụng các chứng từ có giá, bán cổ phiếu, trái phiếu, đổi tiền. [sửa] Cấu trúc của thị trường tài chính Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần Thị trường nợ Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay vốn trên thị trường tài chính là đưa ra một công cụ vay nợ, ví dụ như trái khoán hay một món vay thế chấp. Công cụ vay nợ là sự thoả thuận có tính chất hợp đồng có lãi suất cố định và hoàn trả tiền vốn vào cuối kì hạn. Kì hạn dưới 1 năm là ngắn hạn, trên 1 năm là trung và dài hạn. Thị trường nợ là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ kể trên. Thị trường vốn cổ phần Phương pháp thứ hai để thu hút vốn là các công ty phát hành cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần tài sản của công ty có quyền được chia lợi nhuận ròng từ công ty sau khi trừ chi phí, thuế và thanh toán cho chủ nợ (những người sở hữu công cụ nợ. Thị trường cấp một và thị trường cấp hai Thị trường cấp một' Là thị trường tài chính trong đó diễn ra việc mua bán chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường cấp một thường được tiến hành thông qua trung gian là các ngân hàng. Thị trường cấp hai Là thị trường mua bán lại những chứng khoán đã phát hành. Khi diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường này thì người vừa bán chứng khoán nhận được tiền bán chứng khoán còn công ty phát hành không thu được tiền nữa, một công ty thu được vốn chỉ khi chứng khoán của nó được bán lần đầu tiên trên thị trường cấp một. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn Thị trường tiền tệ Là một thị trường tài chính chỉ có các công cụ ngắn hạn( kỳ hạn thanh toán dưới 1 năm). Thị trường vốn Là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu. Thị trường vốn được phân thành ba bộ phận là thị trường cổ phiếu, các khoản cho vay thế chấp và trái phiếu. Thị trường tài chính Việt Nam: Thực trạng và định hướng phát triển những năm tới I) Đặt vấn đề: Thực tế ở nước ta trong giới khoa học kinh tế nói chung và chuyên ngành tài chính - tiền tệ nói riêng đang tồn tại một số quan niệm không trùng khớp nhau về thị trường vốn và thị trường tài chính. Một số người quan niệm rằng, thị trường vốn bao gồm thị trường vốn ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn; trong đó thị trường vốn dài hạn là thị trường chứng khoán. Một số khác thì cho rằng, thị trường vốn bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường tài chính; trong đó, thị trường tài chính là thị trường chứng khoán... Dù quan niệm nào đi nữa, thì nó vẫn phải bao gồm thị trường vốn ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn. Vì vậy, nếu quan niệm thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn ngắn hạn và thị trường vốn trung hạn, thì thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán chính là hai bộ phận thị trường đó. Thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, chuyển sang phát triển theo cơ chế thị trường, nhanh chóng hội nhập khu vực và quốc tế, Đảng và Chính phủ ta đã chú trọng phát triển cả thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, từ khi hai Pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính có hiệu lực thi hành tháng 5-1990. II) Về thực trạng phát triển thị trường tiền tệ Tham gia là thành viên của các dạng thị trường tiền tệ có 5 Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng chính sách xã hội, 36 Ngân hàng thương mại cổ phần, 4 Ngân hàng liên doanh, 27 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Qũy tín dụng TW, 900 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, một số công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm, Quỹ đầu tư... Tuy nhiên tham gia là thành viên của thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc nhà nước, thị trường mở... thì không phải tất cả các tổ chức trên, hầu như chỉ có các NHTM NN, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, một số công ty bảo hiểm... Về cơ chế tác động và can thiệp trên thị trường tiền tệ, được thể hiện tập trung ở các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương. Theo đó, dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế, từ tháng 6-2002, Ngân hàng Nhà nước chuyển sang thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trước đó. Hàng tháng Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản, vẫn quy định lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; cùng với lãi suất nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ Swap, lãi suất thị trường mở, lãi suất thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước tác động vào lãi suất thị trường, lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các Tổ chức tín dụng. Tác động vào lãi suất còn có công cụ dự trữ bắt buộc. Khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, có tác động làm tăng chi phí đầu vào của các TCTD. Do đó hoặc là các TCTD giữ nguyên lãi suất huy động vốn thì phải tăng lãi suất cho vay; hoặc là đồng thời vừa phải tăng lãi suất cho vay, vừa phải tăng lãi suất huy động vốn. Công cụ điều hành tỷ giá cũng có tác động vào lãi suất của các TCTD trên thị trường tiền tệ, nhưng không rõ nét. Với sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính, đặc biệt là các TCTD, với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương tiến dần tới phù hợp với thông lệ quốc tế, các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng được chủ động trong các hoạt động huy động vốn và cho vay của mình, tham gia tích cực, năng động và cạnh tranh mạnh mẽ với nhau trên thị trường tiền tệ, theo đó, nó cũng có điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển. III) Về thực trạng phát triển thị trường tiền gửi và huy động vốn: Đây là thị trường có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhất và sôi động nhất giữa các tổ chức trung gian tài chính trong việc thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư. Trong thời gian gần đây, các Tổ chức tín dụng đưa ra các hình thức sau: - Cạnh tranh khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân, tài khoản sử dụng thẻ... Tính đến nay trong cả nước đã mở được khoảng trên 1.300.000 tài khoản cá nhân, trong đó có khoảng trên 750.000 tài khoản của các chủ thể. - Cạnh tranh thu hút tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế - xã hội. Giữa các TCTD cạnh tranh thu hút tiền gửi của Kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo Việt, các công ty bảo hiểm nhân thọ, bưu chính viễn thông, điện lực... - Cạnh tranh thu hút tiền gửi tiết kiệm: đây là hình thức huy động vốn truyền thống giữa các TCTD và Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, nhất là các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Thời gian gần đây, để khuyến khích khách hàng, một số ngân hàng thương mại đưa ra dịch vụ: gửi một nơi lĩnh nhiều nơi, tiết kiệm tích lũy hay còn gọi là tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm gắn với bảo hiểm nhân thọ, tiết kiệm lũy tiến trả lãi theo số tiến gửi càng cao thì lãi suất càng cao, tiết kiệm linh hoạt tức là khách được chủ động rút tiền ra bất cứ lúc nào có nhu cầu và lãi suất tính theo số ngày thực tế gửi tương ứng với kỳ hạn gần nhất, tiết kiệm dự thưởng... - Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu... chủ yếu là huy động vốn có thời hạn từ 6 tháng trở lên, lãi suất hấp dẫn. Trong những năm gần đây, đã có sự cạnh tranh sôi động trên thị trường thu hút tiền gửi và thị trường huy động vốn, đặc biệt là các tổ chức trung gian tài chính thực hiện rất đa dạng và phong phú các sản phẩm và dịch vụ thu hút tiền gửi, huy động vốn. Tuy nhiên trong việc phát triển thị trường này, có thể thấy một tồn tại lớn là chưa thu hút được tối đa tiền gửi không kỳ hạn, tiền nhàn rỗi trong dân cư vào hệ thống ngân hàng, trên cơ sở đó lựa chọn các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng hay rút tiền mặt ra chi tiêu bất cứ lức nào có nhu cầu. Đây là nguồn vốn rất lớn và rất quan trọng, tạo đà cho phát triển thị trường tiền tệ, bởi vì nó gia tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn, gia tăng vốn khả dụng cho các TCTD. IV) Về quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán: Sau một thời gian xây dựng và phát triển, đến nay đã có trên  100 công ty niêm yết cổ phiếu và một số loại trái phiếu được niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Trong lĩnh vực này, hệ thống ngân hàng tiếp tục đóng vai trò tích cực trong phát triển thị trường chứng khoán, với hầu hết trong số gần 50 công ty kinh doanh chứng khoán đang hoạt động là trực thuộc các ngân hàng thương mại, với đa dạng các nghiệp vụ: môi giới, tư vấn đầu tư, lưu ký chứng khoán, cho vay thanh toán chứng khoán... Hầu hết các công ty này đều kinh doanh có hiệu quả. Một số công ty đã tổ chức đại lý đấu thầu cổ phiếu của một số NHTM cổ phần phát hành mới tăng thêm vốn điều lệ. NHNN cũng đã ban hành quy định tạm thời về việc niêm yết cổ phiếu của NHTM cổ phần trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Hiện nay nhiều NHTM cổ phần đã sẵn sàng niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Được biết hiện nay NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín đã có đơn và hồ sơ đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép vấn đề này. Tuy chưa chính thức niêm yết giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, nhưng thời gian qua, cổ phiếu của nhiều NHTM cổ phần đã giao dịch đơn lẻ, không chính thức trên thị trường phi tập trung OTC. Mệnh giá cổ phiếu  của nhiều NHTM cổ phần được giao dịch cao gấp 1,1 lần đến 2,5 lần so với mệnh giá ban đầu. Uy tín trong và ngoài nước của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần ngày càng tăng lên. Nhiều tổ chức tài chính quốc tế và ngân hàng nước ngoài đã và đang mua cổ phần, chuyển giao công nghệ ngân hàng hiện đại, hỗ trợ về tài chính cho các ngân hàng thương mại cổ phần. Thủ tướng Chính phủ đã chính thức có quyết định cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Theo kế hoạch, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đang triển khai bước đầu tiên cổ phần hóa. Tổng giá trị cổ phiếu phát hành trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán để tăng vốn điều lệ vào khoảng 1.000 tỷ đồng. Với khối lượng giá trị cổ phiếu lớn như vậy nếu được giao dịch và niêm yết trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán, thì chứng khoán giao dịch chủ yếu của hai Trung tâm này sẽ là cổ phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Tiếp theo đó sẽ là Ngân hàng phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long và Ngân hàng Đầu tư-phát triển Việt Nam cũng đề nghị được cổ phần hóa. Khi đó chắc chắn hoạt động của hai Trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ sôi động hẳn lên, tạo nền tảng mới cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. V) Một số đánh giá về thực trạng phát triển thị trường tài chính ở nước ta Về thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ. Nhìn chung thị trường này chưa phát triển và Ngân hàng Nhà nước NHTW, chưa thực sự đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của NHTW: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ nét đến thị trường. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ bắt buộc... thiếu linh hoạt. Các NHTM và Tổ chức tín dụng cạnh tranh với nhau tăng lãi suất huy động vốn một cách một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính các NHTM. Về thị trường chứng khoán. Có thể khẳng định rằng, trong tiến trình phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam, tiềm năng của việc tham gia của các NHTM là rất lớn. Việc các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, các NHTM NN cổ phần hóa thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu trên Trung tâm, cũng như tới đây sẽ có thêm một số Công ty kinh doanh chứng khoán của các NHTM đi vào hoạt động... sẽ tạo đà thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa. Song cho đến thời điểm này, mới chỉ có gần 100 công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là quá ít, tạo ra sự nghèo nàn hàng hóa trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu của các NHTM chưa được niêm yết và giao dịch cũng phần nào hạn chế tính sôi động của thị trường. Tính thanh khoản của thị trường chưa cao. Thông tin chưa thật sự minh bạch. VI) Nguyên nhân của tình trạng trên: Ngân hàng TW chưa thực sự mạnh, năng lực điều hành chính sách tiền tệ và vận hành nghiệp vụ NHTW còn hạn chế. Họat động dịch vụ của các NHTM và TCTD chưa phát triển. Tiến trình cơ cấu lại các NHTM chưa đạt được các kết quả như dự kiến, đặc biệt là xử lý nợ xấu đang có xu hướng gia tăng trở lại. Việc tăng vốn điều lệ để đảm bảo tỷ lệ an toàn theo thông lệ quốc tế. Tiến trình cổ phần hóa DNNN nói chung, cổ phần hóa NHTM Nhà nước nói riêng còn rất chậm, đây cũng là lực cản cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Bên cạnh đó, việc Hội đồng quản trị các NHTM cổ phần có tư tưởng chần chừ, chậm đưa cổ phiếu của các NHTM cổ phần của mình niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, cũng làm chậm tiến trình nói trên. VII) Giải pháp và kiến nghị cho phát triển thị trường tài chính ở nước ta trong thời gian tới: Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính, cũng như thị trường chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế, tức là phải phát triển đồng bộ, tất nhiên là phải có sự ưu tiên xây dựng các tiền đề, cơ sở hạ tầng nào đó. Chúng ta không thể nôn nóng, cũng như không thể ngồi chờ cho đủ điều kiện được. Như phần đầu bài viết đã đề cập, thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên, khi thị trường tiền tệ nóng lên, thì thị trường chứng khoán cũng sôi động. Phát triển thị trường tiền tệ, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế, nâng cao khả năng kinh doanh trên thị trường tiền tệ của các tổ chức trung gian tài chính, tạo điều kiện cho các tổ chức này sẵn sàng tham gia có hiệu quả trên thị trường chứng khoán. Theo đó một số đề xuất và kiến nghị như sau: - Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, trực tiếp là Ủy ban chứng khoán Nhà nước phối hợp chặt chẽ mạnh dạn đưa 2-4 NHTM cổ phần đầu tiên niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Phối hợp chặt chẽ, trên cơ sở tài trợ quốc tế, tổ chức các cuộc hội thảo, khóa đào tạo, tập huấn ngắn ngày về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và niêm yết cổ phiếu của NHTM trên thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính cũng nên cùng NHNN tập trung tháo gỡ vướng mắc trong việc định giá NHTM và một số giải pháp khác đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa hai NHTM NN đầu tiên theo kế hoạch. - Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm. Có thể tăng tần suất các phiên đấu thầu từ 1 phiên/1tuần hiện nay lên 2 phiên/tuần. Linh hoạt hơn nữa lãi suất đấu thầu qua các phiên theo sát diễn biến trên thị trường. Thời hạn tín phiếu cũng có thể đa dạng hơn, như kỳ hạn 60 ngày, 90 ngày... thay cho chỉ có loại 360 ngày như hiện nay. Cần có cơ chế để các NHTM cổ phần và Ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn có thể trúng thầu tín phiếu trên thị trường này. Đặc biệt là Bộ Tài chính cần có biện pháp đưa các Công ty bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu tín phiếu, không nên để tình trạng lãng phí vốn hay quan hệ tiền gửi không kỳ hạn trực tiếp với các TCTD như hiện nay. - Ngân hàng Nhà nước có biện pháp bảo đảm tính hệ thống của Quỹ tín dụng, có cơ chế điều hòa vốn linh hoạt hơn của hệ thống này. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thu hút Quỹ tín dụng tham gia thị trường liên ngân hàng và các dạng khác của thị trường tiền tệ so NHNN tổ chức, vận hành. - NHNN nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng, thể hiện rõ vai trò can thiệp cuối cùng của NHNN trên thị trường này. Tiến tới công bố được lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng ở Việt Nam do là lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. - Bản thân các Tổ chức trung gian tài chính cần phải nhanh chóng đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh của mình, nhất là nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường tiền tệ theo thông lệ quốc tế. Các NHTM mạnh dạn đầu tư hơn nữa cho các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và thu hút tiền gửi không kỳ hạn, dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Đây cũng chính là các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán trong thời gian tới, cũng như là khách hàng tiềm năng của nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà Ngân hàng thương mại cần nhằm tới thu hút./. Nhận biết và tiếp cận công cụ tài chính phái sinh   TCKT cập nhật: 01/11/2008    (Phần 1) Công cụ tài chính phái sinh (CCTCPS) là một thuật ngữ khá mới và chưa được áp dụng rộng rãi trong nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay, một số ngân hàng thương mại và DN đã bắt đầu phái sinh các giao dịch liên quan đến cctcps nhưng Nhà nước chưa có hướng dẫn cụ thể. Ngân hàng Nhà nước cũng ban hành hướng dẫn kế toán một số công cụ tài chính, nhưng việc hướng dẫn còn bó hẹp trong một số loại CCTCPS nhất định và đôi chỗ chưa thật sự hợp lý. Trong phạm vi của bài này, chỉ xin trao đổi về phương pháp nhận biết và cách thức tiếp cận đối với một số loại CCTCPS đã bắt đầu xuất hiện trong hoạt động kinh tế tại Việt Nam. CCTCPS là một loại công cụ tài chính hoặc một hợp đồng được sử dụng với mục đích ngăn ngừa rủi ro hoặc được nắm giữ vì mục đích thương mại. CCTCPS có các đặc điểm: Giá trị của CCTCPS có thể bị thay đổi theo sự biến động của lãi suất trên thị trường, sự biến động của giá trị công cụ tài chính gốc (hợp đồng), giá cả hàng hóa, tỷ giá hối đoái, chỉ số giá, tỷ suất hoặc chỉ số tín dụng hoặc các biến động khác của hợp đồng gốc; DN sử dụng CCTCPS có thể phải bỏ ra khỏan đầu tư ban đầu nhưng khỏan đầu tư ban đầu đó nhỏ hơn giá trị của các hợp đồng gốc mà những hợp đồng này có khả năng thay đổi do những biến động của các yếu tố không chắc chắc trên thị trường; được thanh toán vào một ngày trong tương lai. CCTCPS bao gồm 4 loại: Hợp đồng tương lai: Là hợp đồng được thực hiện một ngày trong tương lai với một mức giá hoặc lãi suất nhất định. Các bên tham gia trong hợp đồng tương lai có trách nhiệm phải thực hiện các nghĩa vụ của mình tại ngày kết thúc hợp đồng. Tại ngày bắt đầu hợp đồng, không bên nào phải trả phí mà chỉ phải mở tài khoản ký quỹ tại nhà môi giới. Theo thông lệ quốc tế, nhà môi giới là Sở thanh toán bù trừ được cài đặt tại ngân hàng giao dịch hoặc trung tâm giao dịch tài chính. Hợp đồng kỳ hạn Về nguyên tắc, hợp đồng kỳ hạn có bản chất tương tự như hợp đồng tương lai, nhưng có sự khác biệt nhất định, đó là hợp đồng được giao dịch trên thị trường phi tập trung OTC; giá trị hợp đồng được xác định căn cứ vào sự thỏa thuận cụ thể của các bên tham giá hợp đồng; có thể mang đến rủi ro cho các bên tham giá; Các bên tham gia phải thanh toán tiền ký quỹ một lần vào ngày đáo hạn hợp đồng và hợp đồng chỉ được thực hiện vào ngày đáo hạn hợp đồng. Hợp đồng quyền chọn Là hợp đồng bắt đầu được thực hiện vào một ngày hoặc một khỏang thời gian trong tương lai, bên mua quyền chọn có thể hoặc không thực hiện quyền chọn tại thời điểm được quy định trong hợp đồng. Bên mua quyền chọn phải trả phí cho bên bán quyền chọn. Hợp đồng quyền chọn được giao dịch trên cả thị trường tập trung và thị trường phi tập trung (OTC) Đặc điểm của các bên tham gia hợp đồng quyền chọn: Bên tham gia HĐ Loại quyền chọn  Người mua quyền chọn - Phải trả phí - Có quyền thực hiện hoặc không thực hiện HĐ  Người bán quyền chọn - Được nhận phí - Bị động theo yêu cầu của người mua.   Quyền chọn mua  - Giá thị trường > giá gốc: thực hiện quyền chọn; - Giá thị trường < giá gốc HĐ: Không thực hiện quyền chọn.  - Giá thị trường > giá gốc HĐ: thự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docthi truong tai chinh.doc