Chế định chủ tịch nước trong lịch sử lập hiến Việt Nam

Từ sự phân tích trên ta có thể nhận thấy chế định Chủ tịch nước ta hiện nay nghiêng về cơ quan lập pháp hơn hành pháp, điều này thể hiện ở chỗ: Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và chính thức hóa hoạt động của Quốc hội Nhiều thẩm quyền mang tính hành pháp được giao cho ngành lập pháp còn chủ tịch nước chỉ như là người chính thức hóa, ví dụ như: Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội công bố quyết định tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội ra lệnh tổng động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp Như vậy chủ tịch nước theo Hiến pháp hiện hành – Hiến pháp năm 1992 là một thiết chế riêng song vẫn nghiêng về phía Quốc hội, gắn bó chặt chẽ với Quốc hội chứ không gắn với Chính phủ như ở Hiến pháp 1946 và 1959 hoặc thuộc về hành pháp như nguyên thủ quốc gia ở đa số các nước tư bản cũng không chỉ mang tính hình thức như ở các nước theo chính thể quân chủ:

docx20 trang | Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1268 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Chế định chủ tịch nước trong lịch sử lập hiến Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư bản. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ: Mối quan hệ này được Hiến pháp năm 1992 (có sửa đổi, bổ sung vào năm 2001) và Luật tổ chức Chính phủ hiện hành quy định như sau: - Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ. - Chủ tịch nước căn cứ Nghị quyết của Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (Điểm 4 Điều 103 Hiến pháp năm 1992), quy định này được sửa lại tại Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, theo đó thì Chủ tịch nước chỉ phải căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội để thực hiện những vấn đề này vì thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong lĩnh vực này đã bị huỷ bỏ. - Trong thời gian Quốc hội không họp, Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng. - Chính phủ mời Chủ tịch nước tham dự phiên họp của Chính phủ, trình Chủ tịch nước quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền Chủ tịch nước. - Thủ tướng Chính phủ đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện những quyết định của Chủ tịch nước. Các báo cáo công tác của Chính phủ truớc Chủ tịch nước phải được Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số. Việc xác định mối quan hệ như vậy thể hiện sự tăng cường vai trò của Chủ tịch nước đối với bộ máy hành pháp và bảo đảm sự phối hợp gắn bó giữa Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Toà án nhân dân tối cao: - Với Hiến pháp năm 1992, chế độ bầu cử Thẩm phán đã được thay bằng chế độ Thẩm phán bổ nhiệm, chỉ trừ đối với chức vụ Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Các chức vụ khác từ Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao đến Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, từ Chánh án Toà án quân sự Trung ương đến Thẩm phán Toà án quân sự khu vực đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Nhưng hiện nay, theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 thì việc bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án các cấp được giao về cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao thực hiện. Chủ tịch nước chỉ còn bổ nhiệm Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương. - Trong thời gian Quốc hội không họp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. - Chánh án Toà án nhân dân tối cao trình xin Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành quy định về vấn đề này như sau: - Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. - Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. - Trong thời gian Quốc hội không họp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. - Báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải được Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến đa số thành viên Uỷ ban kiểm sát thì phải thực hiện theo quy định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch nước. - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình xin Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm. III. Đánh giá Chế định chủ tịch nước là một trong những chế định quan trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước ta. Trong các bản hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 qua từng giai đoạn phát triển chế định chủ tịch nước lại có nhiều sự khác nhau phù hợp với từng điều kiện của tổ chức bộ máy nhà nước ở mỗi giai đoạn đó. Tuy nhiên, quá trình xây dựng và phát triển của tổ chức nhà nước ta là một quá trình thống nhất, nhất quán cho nên sự đổi mới, phát triển đều dựa trên những nguyên tắc, ưu điểm của thiết chế trước đó. Đó là sự kế thừa và phát triển của chế định chủ tịch nước qua các bản hiến pháp Chúng ta có thể đưa ra một số đánh giá nhận xét như sau: Thứ nhất, trong hiến pháp 1946 chế định chủ tịch nước được xây dựng một cách độc đáo, vừa đảm bảo quyền lực nhà nước thống nhất và cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân, vừa tăng cường hiệu quả hoạt động cho chính phủ, phù hợp với yêu cầu kháng chiến kiến quốc lúc bấy giờ. Thứ hai, trong Hiến pháp 1959 chủ tịch nước lúc này là khâu phối hợp giữa quốc hội và chính phủ, đây chính là sự phát triển trong chế định chủ tịch nước theo hiến pháp 1959 so với hiến pháp 1946, sự phát triển này là phù hợp với việc bộ máy nhà nước ta giai đoạn đó đã chuyển sang chế độ Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chủ tịch nước vẫn còn nghiêng nhiều về chính phủ, đây chính là điểm kế thừa vị trí của chủ tịch nước đối với chính phủ của Hiến pháp trước. Thứ ba, trong Hiến pháp 1980 chế định chủ tịch nước đã được xoá bỏ và thay vào đó là chế định chủ tịch tập thể. Chế định hội đồng nhà nước đã giúp các quyết định đưa ra được chắc chắn hơn, tránh ngẫu nhiên, bộ máy bớt được một số khâu và đơn giản các thủ tục làm việc…Việc xây dựng chế định hội đồng nhà nước còn thể hiện nguyên tắc tập quyền đã được vận dụng triệt để, điều đó thể hiện bộ máy nhà nước ta đã hoàn thành quá trình xây dựng bộ máy nhà nước theo mô hình chủ nghĩa xã hội thuần tuý. Tuy nhiên sự thay đổi này cũng mang lại nhiều hạn chế: các quyết định đưa ra chậm chạp, không phân định được hoạt động tập thể của cơ quan thường trực và chức trách cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động đại diện nhà nước. Thứ tư, hiến pháp 1992 ra đời đã kế thừa được những ưu điểm của Hiến pháp 1946 và 1959 vừa kế thừa được những mặt tích cực mà hiến pháp 1980 có được, đó là sự gắn bó giữa Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội với chủ tịch nước trong thực hiện chức năng nguyên thủ Quốc gia. Hiến pháp 1992 còn là sự phát triển, thể hiện sự đổi mới mang tính tiến bộ. Cụ thể: Hiến pháp 1992 đã tách chủ tịch nước thành một thiết chế riêng chứ không phải là một cơ cấu nằm trong Quốc hội như hiến pháp 1980 hoặc gắn với hành pháp như như hiến pháp 1946, 1959 và một số nguyên thủ quốc gia của đa số các nước tư bản. Ngoài ra chủ tịch nước còn bổ sung thêm một số quyền hạn mới như: quyền đề nghị xem xét lại một số pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy định tại các điểm 8, 9 của điều 91 Hiến pháp 1992…Sự đổi mới đó quán triệt nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền hành pháp, tư pháp, lập pháp. Từ sự phân tích trên ta có thể nhận thấy chế định Chủ tịch nước ta hiện nay nghiêng về cơ quan lập pháp hơn hành pháp, điều này thể hiện ở chỗ: Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và chính thức hóa hoạt động của Quốc hội… Nhiều thẩm quyền mang tính hành pháp được giao cho ngành lập pháp còn chủ tịch nước chỉ như là người chính thức hóa, ví dụ như: Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội công bố quyết định tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội ra lệnh tổng động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp…Như vậy chủ tịch nước theo Hiến pháp hiện hành – Hiến pháp năm 1992 là một thiết chế riêng song vẫn nghiêng về phía Quốc hội, gắn bó chặt chẽ với Quốc hội chứ không gắn với Chính phủ như ở Hiến pháp 1946 và 1959 hoặc thuộc về hành pháp như nguyên thủ quốc gia ở đa số các nước tư bản cũng không chỉ mang tính hình thức như ở các nước theo chính thể quân chủ: IV. Một số suy nghĩ, kiến nghị đối với chế định Chủ tịch nước trong giai đoạn hiện nay Trải qua các bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992 và 1992 sửa đổi), chế định Chủ tịch nước ngày càng được hoàn thiện với vị trí, vai trò và các chức năng phù hơp với hoàn cảnh của đấy nước. Cho đến nay, vị trí, vai trò và thẩm quyền của Chủ tịch nước trong bộ máy Nhà nước của nước ta theo Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) về cơ bản là phù hợp. Để hoàn thiện vị trí của Chủ tịch nước trong cơ chế quyền lực Nhà nước đang tiếp tục đổi mới hiện nay, cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn thêm một số điểm: Chủ tịch nước được xác định là người đứng đầu Nhà nước, song về chức năng, nhiệm vụ không hoàn toàn giống như nguyên thủ quốc gia ở các nước khác. Do đó, cần nghiên cứu tăng cường vị trí của Chủ tịch nước như: giao cho Chủ tịch nước quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại luật (nhằm bảo đảm sự cẩn trọng khi thông qua luật); quyền quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược; quyết định tổng động viên (những quyền này hiện đang thuộc về Uỷ ban thường vụ Quốc hội, nếu chuyển cho Chủ tịch nước sẽ phù hợp hơn với vị trí của nguyên thủ quốc gia). Đặc biệt, cần mở rộng phạm vi tiến hành đàm phán, kí kết điều ước Quốc tế và các thoả thuận quốc tế nhân danh Nhà nước Việt Nam không chỉ "với người đứng đầu Nhà nước khác" như Hiến pháp hiện hành quy định để tạo thuận lợi cho việc thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo của Nhà nước theo hướng đổi mới, mở cửa và hội nhập với thế giới; tăng cường quyền của Chủ tịch nước trong việc phê chuẩn các điều ước Quốc tế. Chỉ những điều ước Quốc tế có quan hệ trực tiếp tới chủ quyền, an ninh quốc gia, lãnh thổ, vị thế, chính sách của Nhà nước khi tham gia các tổ chức Quốc tế quan trọng... mới cần phải để Quốc hội phê chuẩn. Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Chủ tịch nước công bố Nghị quyết của Quốc hội tương tự như đối với Luật, công bố hoặc đề nghị xem xét lại Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội tương tự như đối với Pháp lệnh. Tuy nhiên, quyền này của Chủ tịch nước phải được quy định ở tầm Hiến pháp. Với việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (năm 2001), Uỷ ban thường vụ Quốc hội không còn thẩm quyền đối với các điểm 8 và 9 Điều 91 Hiến pháp 1992, nên Chủ tịch nước không còn tham dự vào vấn đề này. Đồng thời Hiến pháp quy định cho Chủ tịch nước có thêm một thẩm quyền mới: quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng. Việc bỏ quyền thay đổi các thành viên khác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đối với Chính phủ trong thời gian giữa 2 kì họp (Điểm 8 Điều 91 Hiến pháp 1992) đã cản trở điều đó. Tương tự việc không quy định thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội (có sự liên quan đến Chủ tịch nước) quyết định tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược (Điểm 9 Điều 91 Hiến pháp 1992) cũng như Chủ tịch nước chỉ được ban bố tình trạng khẩn cấp khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp là chưa hợp lí, khó đảm bảo tính kịp thời của việc giải quyết vấn đề có tầm quan trọng quốc gia. Những thẩm quyền này nên giao cho Chủ tịch nước sẽ vừa đảm bảo kịp thời, vừa có tính long trọng là hợp lí hơn cả. Điều 105 Hiến pháp quy định cho Chủ tịch nước quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và khi xét thấy cần thiết thì có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ. Đối với phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì Chủ tịch nước tham dự để nắm bắt và có ý kiến về các vấn đề có liên quan (nhấtlà khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng được Quốc hội trao hay khi thông qua các Nghị quyết, Pháp lệnh). Điều này là phù hợp và cần thiết, thể hiện sự gắn bó giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Riêng đối với phiên họp của Chính phủ mà Chủ tịch nước chỉ "tham dự", thiết nghĩ chưa thích hợp lắm. Trong cơ cấu quyền lực Nhà nước nói chung, nguyên thủ quốc gia thực tế cũng như hình thức, đều được coi là người đứng đầu hành pháp. Điều đó thể hiện ở quyền của nguyên thủ quốc gia bổ nhiệm Thủ tướng, quyết định chấp nhận hoặc giải tán Chính phủ. Bình thường, mọi việc của Chính phủ đều do Thủ tướng điều hành, nhưng khi có vấn đề phát sinh cần có sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia thì nguyên thủ quốc gia sẽ nắm quyền điều hành đối với Chính phủ. Đối với Chính phủ nước ta, mặc dù có những nét đặc thù, nhưng cơ bản vẫn mang những đặc điểm chung đó thể hiện qua việc Chủ tịch nước giới thiệu Thủ tướng để Quốc hội bầu, căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ... Vậy, cần thể hiện nội dung này theo hướng nguyên thủ quốc gia chỉ tham dự phiên họp của Chính phủ trong các trường hợp thật cần thiết và khi đó Chủ tịch nước sẽ là người chủ toạ phiên họp. Lời kết Qua việc nghiên cứu chế định nguyên thủ quốc gia qua 4 bản Hiến pháp, chúng ta đều nhận thấy dù Chủ tịch nước là một cá nhân hay tập thể đều thể hiện vị trí chính trị pháp lý là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội đối ngoại. Cũng qua 4 bản Hiến pháp, chế định nguyên thủ quốc gia được xây dựng qua thời kỳ có những bước phát triển mới, đặc biệt là phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của từng giai đoạn cách mạng, bảo đảm cho việc thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng và nhà nước. Chế định nguyên thủ quốc gia trong hiến pháp nước ta qua các giai đoạn có những đặc điểm, tính chất và vị trí không giống bất kỳ một nguyên thủ quốc gia nào. Có sự đặc thù như vậy vì ở nước ta do cơ chế tổ chức quyền lực theo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân Lịch sử lập hiến Việt Nam đã để lại nhiều bài học quý báu trong việc tổ chức bộ máy Nhà nước, trong đó có chế định Chủ tịch nước (nguyên thủ quốc gia). Trong Hiến pháp 1992 nói riêng và pháp luật hiện hành nói chung, chúng ta đã thiết lập lại thể chế Chủ tịch nước (nguyên thủ cá nhân như trong Hiến pháp năm 1946 và 1959) trong bối cảnh đất nước đang thực hiện những đổi mới sâu sắc, toàn diện, trong tình hình thế giới có nhiều mặt khác trước và đang biến động từng ngày. Hiến pháp 1992 nói riêng và pháp luật hiện hành nói chung cũng chỉ mới quy định rất khái quát nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan Nhà nước khác. Vấn đề đặt ra là sự nghiên cứu toàn diện đi từng bước vững chắc, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để cụ thể hoá dần dần các quy định của Hiến pháp và pháp luật, làm cho thể chế Chủ tịch nước ngày càng phát huy được vai trò, vị trí, chức năng quan trọng của mình trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội. ==================================== TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. "Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam", Trường đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2007 2. "Tìm hiểu về hiến pháp và pháp luật Luật hiến pháp nước ngoài", PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Đồng Nai, 1997 3. "Tìm hiểu các bản Hiến pháp Việt Nam", PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2007 4. "Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam qua các bản Hiến pháp", PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2007 5. "Hiến pháp 1946 sự kế thừa và phát triển", Nxb Tư pháp  6. "Bình luận khoa học Hiến pháp năm 1992", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.  7. "Lịch sử lập hiến Việt Nam", PTS. Luật học (PGS-TS) Thái Vĩnh Thắng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 8. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 ST

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxjhagdlid'pgalsugefdoigfasgfdgoaidhtoetp (7).docx
Tài liệu liên quan