Chuyên đề Công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam

Từ hàng chục năm nay, chính sách BHXH đã góp phần quan trọng trong việc trợ cấp vật chất, hỗ trợ đời sống cho những đối tượng BHXH và gia đình họ khi gặp phải những rủi ro, biến cố. Trong cuộc sống dẫn đến việc bị giảm hoặc mất sức lao động, giảm hoặc mất nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hoặc chết. Chính sách cũng có tác dụng động viên công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang yên tâm công tác, sản xuất, chiến đấu góp phần thắng lợi vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Nay chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp với đường lối đối với toàn diện nền kinh tế - xã hội khi định hướng phát triển các lĩnh vực về chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định quan điểm phải giải quyết tốt việc "Thực hiện và hoàn thiện chế độ BHXH, đảm bảo đời sống người nghỉ hưu được ổn định từng bước được cải thiện". Tiếp theo đó nghị quyết đại hội đảng IX nhấn mạnh "Thực hiện chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế".

Thực tế hiện nay việc thực hiện chính sách BHXH ở Việt Nam được đánh giá là tương đối ổn định và ngày càng phát triển biểu hiện là số đối tượng tham gia BHXH ngày một tăng năm sau cao hơn năm trước, BHXH đã tạo được niềm tin trong lòng dân chúng đặc biệt là những người thực tế đã tham gia vào quá trình lao động sản xuất từ đó đã xây dựng được một ngân quỹ không nhỏ từ việc thu phí BHXH từ người lao động và người sử dụng lao động đảm bảo công tác trợ cấp BHXH đối với những đối tượng tham gia BHXH thuộc diện được hưởng trợ cấp BHXH theo quy định. Tuy nhiên, tính đến nay số lượng lao động tham gia BHXH mới chiếm một tỷ lệ nhỏ so với lực lượng lao động trong xã hội khoảng 5,8 triệu/42 triệu lao động. Số lao động chưa tham gia BHXH tập chung chủ yếu ở khu vực ngoài nhà nước chủ yếu là do đơn vị sử dụng lao động và người lao động không thực hiện theo đúng pháp luật về thu BHXH mặt khác do chế độ BHXH vẫn còn mới với sự tăng lên rõ rệt về số lượng lao động tham gia đóng BHXH do cơ cấu nhân khẩu về sự bao cấp của nhà nước cho người nghỉ hưu trước 01/01/1995, xu hướng già hoá của dân số cộng với tỷ lệ đóng góp BHXH tương đối thấp (20% tiền lương đóng BHXH), về lâu dài nếu so với các nước khác trên thế giới là không đủ để duy trì, ổn định chế độ BHXH Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH cho người lao động nói chung và thực hiện công tác quản lý BHXH nói riêng làm giảm hiệu lực của các cơ quan BHXH quản lý trong hoạt động thu nộp BHXH.

Do vậy để đảm bảo nguyên tắc thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, đáp ứng những yêu cầu trong công tác thu BHXH cũng như việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu BHXH. Với mục đích góp một phần công tác quản lý thu BHXH mục đích góp một phần công sức của mình vào cơ chế quản lý thu BHXH ở Việt Nam em đã chọn đề tài "Công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho chuyênđề thực tập tốt nghiệp của mình. Đây là một vấn đề khó và mang tính tổng quát cao vì vậy để hoàn thành được chuyên đề thực tập này, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ tận tình của giáo viên trực tiếp hướng dẫn thực tập, tập thể cán bộ làm việc tại cơ quan BHXH Việt Nam nói chung, tại ban thu BHXH nói riêng.

Nội dung chính của chuyên đề này gồm có 3 chương:

Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về BHXH xn

Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu BHXH tại cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam

Chương III: Một số giải pháp và ý kiến đề xuất nhằm nâng cao công tác quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH Việt Nam phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay.

 

doc85 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 995 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Từ hàng chục năm nay, chính sách BHXH đã góp phần quan trọng trong việc trợ cấp vật chất, hỗ trợ đời sống cho những đối tượng BHXH và gia đình họ khi gặp phải những rủi ro, biến cố. Trong cuộc sống dẫn đến việc bị giảm hoặc mất sức lao động, giảm hoặc mất nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hoặc chết. Chính sách cũng có tác dụng động viên công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang yên tâm công tác, sản xuất, chiến đấu góp phần thắng lợi vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nay chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp với đường lối đối với toàn diện nền kinh tế - xã hội khi định hướng phát triển các lĩnh vực về chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định quan điểm phải giải quyết tốt việc "Thực hiện và hoàn thiện chế độ BHXH, đảm bảo đời sống người nghỉ hưu được ổn định từng bước được cải thiện". Tiếp theo đó nghị quyết đại hội đảng IX nhấn mạnh "Thực hiện chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế". Thực tế hiện nay việc thực hiện chính sách BHXH ở Việt Nam được đánh giá là tương đối ổn định và ngày càng phát triển biểu hiện là số đối tượng tham gia BHXH ngày một tăng năm sau cao hơn năm trước, BHXH đã tạo được niềm tin trong lòng dân chúng đặc biệt là những người thực tế đã tham gia vào quá trình lao động sản xuất từ đó đã xây dựng được một ngân quỹ không nhỏ từ việc thu phí BHXH từ người lao động và người sử dụng lao động đảm bảo công tác trợ cấp BHXH đối với những đối tượng tham gia BHXH thuộc diện được hưởng trợ cấp BHXH theo quy định. Tuy nhiên, tính đến nay số lượng lao động tham gia BHXH mới chiếm một tỷ lệ nhỏ so với lực lượng lao động trong xã hội khoảng 5,8 triệu/42 triệu lao động. Số lao động chưa tham gia BHXH tập chung chủ yếu ở khu vực ngoài nhà nước chủ yếu là do đơn vị sử dụng lao động và người lao động không thực hiện theo đúng pháp luật về thu BHXH… mặt khác do chế độ BHXH vẫn còn mới với sự tăng lên rõ rệt về số lượng lao động tham gia đóng BHXH do cơ cấu nhân khẩu về sự bao cấp của nhà nước cho người nghỉ hưu trước 01/01/1995, xu hướng già hoá của dân số cộng với tỷ lệ đóng góp BHXH tương đối thấp (20% tiền lương đóng BHXH), về lâu dài nếu so với các nước khác trên thế giới là không đủ để duy trì, ổn định chế độ BHXH…Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH cho người lao động nói chung và thực hiện công tác quản lý BHXH nói riêng làm giảm hiệu lực của các cơ quan BHXH quản lý trong hoạt động thu nộp BHXH. Do vậy để đảm bảo nguyên tắc thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, đáp ứng những yêu cầu trong công tác thu BHXH cũng như việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu BHXH. Với mục đích góp một phần công tác quản lý thu BHXH mục đích góp một phần công sức của mình vào cơ chế quản lý thu BHXH ở Việt Nam em đã chọn đề tài "Công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho chuyênđề thực tập tốt nghiệp của mình. Đây là một vấn đề khó và mang tính tổng quát cao vì vậy để hoàn thành được chuyên đề thực tập này, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ tận tình của giáo viên trực tiếp hướng dẫn thực tập, tập thể cán bộ làm việc tại cơ quan BHXH Việt Nam nói chung, tại ban thu BHXH nói riêng. Nội dung chính của chuyên đề này gồm có 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về BHXH xn Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu BHXH tại cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam Chương III: Một số giải pháp và ý kiến đề xuất nhằm nâng cao công tác quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH Việt Nam phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay. Nội dung Chương I Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm xã hội I. Sự cần thiết khách quan và nguồn gốc ra đời của Bảo hiểm xã hội - Trong quá trình lao động sản xuất người lao động gặp rất nhiều biến cố rủi ro do nhiều nguyên nhân khác nhau làm ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân và gia đình họ. Có những biến cố xảy ra ngay trong quá trình lao động và củng cố những biến cố xảy ra ngoài quá trình lao động những biến cố này làm người lao động gặp rất nhiều khó khăn và xã hội mất an toàn. Tình trạng này ngày càng diễn ra phổ biến khi nền sản xuất phát triển khi có sự thuê mướn nhân công, khi nền sản xuất hàng hoá phát triển đến một mức độ nhất định việc thuê mướn lao động ngày càng diễn ra một cách phổ biến mâu thuẫn chủ thợ bắt đầu phát sinh trong số rất nhiều các mâu thuẫn khác nhau thì mâu thuẫn sáu ngày càng trở nên gay gắt. + Đó là mâu thuẫn về kéo dài thời gian lao động, mẫu thuẫn về tiền lương, tiền công. + Mâu thuẫn về thu nhập khi người lao động nghỉ việc. + Mâu thuẫn nảy sinh khi người lao động về già chết. Từ đó việc đấu tranh giữa hai bên mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt phức tạp và mang tính rộng khắp. Khi cuộc đấu tranh diễn ra ngày càng lớn và rộng khắp thì chính phủ các nước đã thấy được hậu quả của vấn đề này đó là: * Sản xuất bị đình đốn, chế độ chính trị xã hội bị lung lay, các nguồn lực trong xây dựng bị xâm phạm vì thế chính phủ các nước đã can thiệp bằng cách. + Yêu cầu giới chủ phải trích từ lợi nhuận của mình để đóng góp vào nguồn quỹ mang tính chất xã hội. + Vận động và yêu cầu giới thợ cũng phải đóng góp vào quỹ này một phần tiền lương nhằm mục đích giải quyết khó khăn con người lao động khi họ gặp rủi ro thông qua việc phân phối lại nguồn quỹ đã được hình thành nói trên. Lúc đầu cả giới chủ và giới thợ đều không chấp nhận yêu cầu đóng dẫn đến cuộc đấu tranh diễn ra ngày càng gay gắt hơn với quy mô ngày càng rộng khắp hơn vì vậy chính phủ các nước phải can thiệp lần thứ hai, với tư cách nhà nước là bên thứ ba tham gia đóng góp vào nguồn quỹ này khi đó giới chủ thấy mình có lợi và mục đích đã bắt đầu đạt được và giới thợ cũng thấy mình có lợi. Cả ba bên đưa ra bản cam kết cụ thể về xây dựng và hình thành nguồn quỹ này để bảo vệ người lao động khi biến cố xảy ra. Tất cả những vấn đề nói trên được thế giới quan nhiệm là bảo hiểm xã hội cho người lao động. Như vậy Bảo hiểm xã hội ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc sống, của hoạt động lao động sản xuất. Do sự đòi hỏi về sự tự chủ, và an toàn về tài chính cũng như các nhu cầu của con người, hoạt động bảo hiểm xã hội ngày càng phát triển và không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Vì vậy khai niệm "Bảo hiểm xã hội" trở nên gần gũi gắn bó với con người đặc biệt là người lao động, với các đơn vị sản xuất, có được các quan hệ đó bảo hiểm xã hội đã mang lại lợi ích kinh tế xã hội thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơn vị có tham gia bảo hiểm xã hội. Vấn đề đặt ra là bảo hiểm xã hội được bắt nguồn từ đầu và chính được hình thành vào năm nào và ở đâu? thực chất ở thời kỳ cổ đại con người vừa tự lực vừa biết hợp đoàn để đi săn bắn, lao động nhằm kiếm sống và khi họ gặp rủi ro tai biến thì họ cũng được các thành viên của cộng đồng hỗ trợ cưu mang. Đến giai đoạn phân công lao động, sản xuất xã hội phát triển hơn, quan hệ xã hội, quan hệ tác động lẫn nhau giữa các cá nhân, giữa các cộng đồng cũng phát triển hơn. Thời đó ông cha ta cũng tự nhủ phải trữ thóc phòng khi thiếu đó, trữ áo để phòng khi giá rét, dự phòng những lúc sinh bệnh, lão, tử và khi đó ông cha ta đã đề cao giáo lý, phương châm xử thế: Thấy người hoạn nạn thì thương, "bầu ơi thương lấy bí cùng", "nhiễu điều phủ lấy giá gương", "lá lành đùm lá rách", "lá rách ít đùm lá rách nhiều", "một miếng khi đói bằng một gói khi no"…Cộng đồng làng xã đã biết gam gáp và làm đất công đóng vào quỹ chung để cấp thêm cho những người gặp hoàn cảnh mẹ goá con côi gặp khó khăn túng thiếu; lập quỹ nghĩa thương, kêu gọi kêu gọi người dân nộp thóc trợ giúp những người nghèo khó. Khi ngành công nghiệp hình thành. Hàng loạt dân thôn di cư ra thành thị trong khoảng thế kỷ 16 đến 18 một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, tính đoàn kết tương thân giữa những người làm thuê nảy nở dần. ở một số nước ở Châu Âu, nhiều quỹ tương trợ được thành lập. ở anh (1793) cơ hội "bằng hữu" giúp đỡ hội viên trong các trường hợp bị ốm, đau, thương tật. ở nước ta, có các hội đồng hương, hội đồng, hội hiếu, hội kỷ… chia ngọt sẻ bùi giữa các thành viên với nhau. Đặc biệt đến giai đoạn cách mạng, công nghiệp, chuyển đổi cơ cấu từ sản xuất tự cấp, tự túc trở thành người làm công ăn lương, chỉ dựa vào đồng lương làm nguồn sống chủ yếu. Có làm việc thì mới có lương để sóng, dù là đông lương ít ỏi. Nếu ốm đau, bị tai nạn, sinh con, phải nghỉ việc và không có lương, cuộc sống sẽ lập tức bị đe doạ. Đến lúc này, những rủi ro, tai biến, uy hiếp còn là tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp…Để giảm thiểu nỗ lo âu cho người lao động làm công ăn lương, nhiều hệ thống, nhiều hình thức trợ giúp xã hội nối tiếp nhau ra đời trong đó có quỹ bảo hiểm mà điển hình là bảo hiểm xã hội. Điển hình là năm 1850 nhiều bang của Đức đã giúp các địa phương lập quỹ bảo hiểm ốm đau, do công nhân phải đóng tiền để được bảo hiểm. Nguyên tắc bảo hiểm bắt buộc chính là bắt nguồn từ đây và người được bảo hiểm phải đóng bảo hiểm. Chế độ ốm đau được phổ cập trong toàn nước Đức vào nă 1883 do các hội tương tế lúc bấy giờ cảu công nhân quản lý. Năm 1884, xuất hiện tiếp chế độ bảo hiểm các rủi ro nghề nghiệp (tức tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp) do các hiệp hội chủ doanh nghiệp quản lý. Năm 1889, xuất hiện tiếp chế độ bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm tàn tật, do chính quyền các tỉnh quản lý. Như vậy trong khoảng thời gian từ năm 1883 đến năm 1889, một hệ thống BHXH lớn đầu tiên đã ra đời với sự tham gia bắt buộc của những người làm công ăn lương, theo nguyên tắc người được bảo hiểm xã hội phải đóng phí bảo hiểm xã hội, và ba thành viên xã hội người lao động, người sử dụng lao động, nhà nước - đều có vị trí trong việc quản lý hệ thống. Từ đó có rất nhiều nước sử dụng cơ chế này trong hệ thống bảo hiểm xã hội của nước mình. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng các cơ chế đa dạng bảo vệ người lao động giảm thiểu những rủi ro khốn khó, hội nghị toàn thế của tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã thông qua công ước số 102 về an toàn xã hội, trong đó BHXH là một cơ chế chủ yếu. ở Việt Nam, sau khi được thành lập, chính phủ ta cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH. Sắc lệnh 54/SL ngày 1 - 11 - 1945 qui định những điều kiện cho công chức về hưu. Sắc lệnh 105/SL ngày 14 - 6 - 1946 qui định việc cấp hưu bổng cho công chức. Hai sắc lệnh này đã quy định công chức phải đóng góp hưu liễn và trong quỹ hưu bổng có phần đóng thêm của nhà nước. Sắc lệnh 76/SL ngày 20 - 5 - 1950 quy định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn và tiền tuất đối với công chức. Trong khu vực sản xuất, trong lúc này chưa lập quỹ bảo hiểm xã hội, nhưng sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 và sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 đã quy định cụ thể các chế độ trợ cấp: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất đối với công nhân. Trên cơ sở thực tiễn thực hiện BHXH từ trước đến nay, cơ chế BHXH đã được chế định thành một chương trong Bộ luật lao động thông qua ngày 23/6/1994 và đã được cụ thể hoá trong điều lệ BHXH mới kèm theo nghị định 12/CP ngày 26/1/1995. Như vậy việc thực hiện BHXH ở nước ta tiến hành trong điều kiện kinh tế nghèo nàn lạc hậu, chiến tranh kéo dài, lại do Ngân sách nhà nước đảm phụ phần lớn nguồn tài chính, đó là cố gắng lớn của đảng và chính phủ đã tạo điều kiện tốt cho công nhân viên chức nhà nước yên tâm công tác góp phần ổn định cuộc sống bản thân, gia đình và xã hội. II. Bản chất và đối tượng của BHXH 1. Khái niệm BHXH Cho đến nay, hầu như chưa có một định nghĩa chính thống về BHXH nhưng nếu căn cứ vào những đặc trưng nổi bật của Bảo hiểm xã hội, có thể xác định khái niệm về BHXH như sau: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, của người sử dụng lao động nếu có và được sự tài trợ bảo hộ của nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc chết. Định nghĩa này chứa đựng được những đặc trưng cơ bản nhất của chế độ BHXH chế độ được thực hiện theo quy định của pháp luật có hai loại hình BHXH là BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. 2. Bản chất của BHXH Bất kỳ một nhà nước nào trên thế giới cũng phải thừa nhận rằng sự nghèo khổ của người dân do ốm đau, tai nạn rủi ro, thất nghiệp, tật nguyền bẩm sinh….gây ra không chỉ là trách nhiệm của bản thân cá nhân, của gia đình, của những người thân của họ mà còn phải là trách nhiệm của nhà nước và của cộng đồng xã hội. Cùng với quá trình phát triển, tiến bộ của loài người, BHXH được coi là một chính sách xã hội quan trọng của bất kỳ nhà nước nào, nhằm đảm bảo an toàn cho sản xuất, cho đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người trong xã hội. Với tư cách là công cụ quan trọng nhất để quản lý xã hội nhà nước phải can thiệp và tổ chức bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động đặc biệt là để giải quyết mối quan hệ thuê mướn lao động giữa chủ và thợ. Yêu cầu giới chủ phải thực hiện những cam kết đảm bảo điều kiện làm việc và nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần cho giới thợ, trong đó có nhu cầu về tiền lương, về chăm sóc y tế, về chăm sóc khi bị ốm đau, tai nạn trả lương cho người lao động đến tuổi hưu…Đồng thời bản thân người lao động cũng phải có trách nhiệm dành một khoản thu nhập để chi trả cho bản thân mình khi có những rủi ro xảy ra. Mặt khác, nhà nước được coi như là người sử dụng lao động của mọi người lao động, vì vậy trong trường hợp sự đóng ngóp của người chủ sử dụng lao động và người lao động không đủ để trang trải cho những khoản chi cho người lao động khi họ gặp phải rủi ro thì nhà nước phải có trách nhiệm dùng ngân sách của nhà nước để bảo đảm đời sống cơ bản cho người lao động. Nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên phổ biến thì càng đòi hỏi phát triển và đa dạng của BHXH. Nền kinh tế hàng hoá phát triển là nền tảng, là cơ sở của BHXH. BHXH được hình thành trên cơ sở quan hệ lao động, giữa các bên cùng tham gia và được hưởng BHXH. Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra các cơ quan chuyên trách, thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Chủ sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ BHXH. Người lao động (bên được BHXH) và gia đình của họ cũng được cấp tài chính từ quỹ bảo hiểm xã hội khi họ có đủ điều kiện theo chế độ BHXH quy định. Đó là mối quan hệ của các bên tham gia BHXH. Phân phối trong BHXH là phân phối không đều, nghĩa là không phải ai tham gia BHXH cũng được phân phối với số tiến giống nhau phân phối trong bảo hiểm xã hội vừa mang tính bồi hoàn vừa không bồi hoàn. Những biến cố xẩy ra mang tính tất nhiên đối với con người là: thai sản (đối với lao đông nữ), tuổi già và chết, trong trường hợp này, BHXH phân phối mang tính bồi hoàn vì người lao động đóng phí BHXH chắc chắn được hưởng trợ cấp đó. Còn trợ cấp do những biến làm giảm hoặc mất khả năng lao động mất việc làm, những rủi ro này xảy ra trái với ý muốn của con người như ốm đau, ta nạn lao động và bệnh nghề nghiệp là sự phân phối không mang tính bòi hoàn; có nghĩa là chỉ khi nào người lao động gặp phải tổn thất do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó. - Bảo hiểm xã hội hoạt động theo nguyên tắc "cộng đồng" "lấy số đông bù số ít" tức là dùng số tiền đóng góp nhỏ của số đông tham gia BHXH để bù đắp, chia sẻ, cho một số ít người với số tiền lớn hơn so với số đóng góp của từng người, khi họ gặp phải những biến cố rủi ro tổn thất. - Hoạt động BHXH là một loại hoạt động dịch vụ công, mang tính xã hội cao; lấy hiệu quả xã hội là mục tiêu hoạt động. Hoạt động BHXH là quá trình tổ chức triển khai thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của tổ chức quản lý sự nghiệp BHXH đối với người lao động tham gia và hưởng các chế độ BHXH. Là quá trình tổ chức thực hiện các nghiệp vụ thu BHXH đối với người sử dụng lao động và người lao động, giải quyết các chế độ chính sách và chi BHXH cho người được hưởng; quản lý quỹ BHXH và thực hiện đầu tư bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH. - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở qua hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động, bên BHXH (nhận nhiệm vụ BHXH). Thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có các điều kiện ràng buộc cần thiết. - Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải các biến cố rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ của nhà nước. - Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa BHXH với BHTM sẽ rõ hơn bản chất của BHXH. BHTM cũng là một loại bảo hiểm có mục đích phục vụ người lao động, nhưng phương thức hoạt động mang tính kinh doanh rõ rệt, như tên gọi, BHTM có những đặc trưng khác với BHXH trên những điểm chủ yếu sau. + Nội dung BH rất rộng: bù đắp những tổn thất, thiệt hại về thâm thế sinh mạng, tài sản trách nhiệm dân sự, trách nhiệm quản lý.. do những tai nạn bất ngờ hoặc thiên tai, phạm vi hoạt động của BHTM cũng rất rộng, có mặt ở tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội không chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ một nước mà còn trải rộng xuyên quốc gia + Người được bảo hiểm không cứ là người lao động mà có thể là các độ tuổi khác nhau, là người không thuộc dân số hoạt động. + Mức tiền bù đắp, bồi thường phụ thuộc vào giá bảo hiểm, hạn mức trách nhiệm bảo hiểm mức độ thiệt hại, tổn thất thực tế, mức phí bảo hiểm mức độ thiệt hại, tổn thất thực tế, mức phí bảo hiểm chọn mua. Quỹ BHTM được đầu tư vào kinh doanh sinh lời, kể cả đầu tư vào cải thiện hoàn cảnh cho bên mua bảo hiểm Ngược lại BHXH có nội dung hẹp hơn nhiều; quan hệ BHXH là lâu dài; có những loại hình bảo hiểm người lao động trước sau cũng sẽ được trợ cấp, quỹ BHXH chỉ được dùng phần tiền nhàn rỗi để đầu tư sinh lời. Tuy vậy hai loại hình BHXH và BHTM có những điểm nhất quán và bất kỳ loại hình bảo hiểm nào cũng phải tuân thủ. + Thứ nhất: Bảo hiểm là một hình thức hoạt động nhằm phân tán rủi ro, hỗ trợ lẫn nhau giữa các đơn vị, cá nhân cùng tham gia bảo hiểm thực hiện theo nguyên tắc "cộng đồng - số đông bù số ít" số người tham gia cổ động thì mức độ tổn thất được phân tán càng rộng. + Thứ hai: Quỹ bảo hiểm được hình thành chủ yếu từ các bên tham gia bảo hiểm, quỹ được tính toán cân đối thu - chi một cách khoa học dựa trên quy luật số lớn để xác định mức độ đóng góp và mức hưởng trợ cấp hay, chỉ trả. + Thứ ba: Quỹ được quản lý sử dụng thể chế độ tài chính và pháp luật nhà nước quy định. 3. Đối tượng của BHXH Như đã đề cập đến ý tưởng của BHXH là nhằm thực hiện một phần công bằng xã hội, phát huy truyền thống đoàn kết cộng đồng và tinh thần nhân ái. Như vậy, theo lẽ công bằng vì tình đoàn kết thì đáng ra phải áp dụng BHXH đối với toàn bộ thành viên trong cộng đồng. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, mọi cá nhân trong cộng đồng đều có mức thu nhập khác nhau và họ gặp phải các rủi ro rất khác nhau cùng với các khó khăn khái nên BHXH chỉ có thể đáp ứng được một phần nào đối tượng trong xã hội. Trong phạm vi đối tượng của BHXH đã xuất hiện hai loại hình là bắt buộc và tự nguyện. BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ XIX khi nền công nghiệp và nền kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu Âu. Từ năm 1883, ở nước phổ (CHLB Đức ngày nay) đã ban hành luật Bảo hiểm y tế. Một số nước Châu Âu và Bắc Mỹ mãi đến cuối năm 1920 mới có đạo luận về BHXH. Tuy ra đời như lâu như vậy, nhưng đối tượng của BHXH vẫn có nhiều quan điểm chưa thống nhất. Đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH với đối tượng tham gia BHXH. Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các viên chức nhà nước, những người làm công hưởng lương. * Tiêu biểu là BHXH ở Malaysia: Quỹ dự phòng cho người lao động (EPF). + Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc: Các chủ sử dụng lao động có từ một lao động trở lên và tất cả mọi người lao động có thu nhập dưới 2000 RM (Ringet Malaixia) nhưng không thuộc đối tượng nhận lương hưu thường xuyên và người lao động nước ngoài làm việc tại malaixia. + Đối tượng tự nguyện: Người lao động tự do (người lao động làm việc cho bản thân mình, không làm thuê cho ai cả, như tiểu chủ,thợ thủ công, nghệ sĩ, nhà văn….); Người làm công việc nội trợ; Người lao động làm việc ở khu vực hành chính sự nghiệp thuộc đối tượng hưởng lương hưu thường xuyên. Bởi vì hiện nay ở Malaixia những công chức chính phủ (bao gồm cả quân đội, anh ninh không phải đóng BHXH, nhưng vẫn được hưởng các chế độ BHXH do ngân sách nhà nước chi. + Tổ chức an sinh xã hội (SOCSO) Đối tượng tham gia BHXH của SOCSO gồm tất cả những người lao động và chủ sử dụng lao động có các điều kiện sau đây: + Người lao đọng (không kể công chức chính phủ) có thu nhập từ 2000 RM/tháng trở xuống (tương đương 650USD), có hợp đồng với chủ sử dụng lao động. + Những người lao động có thu nhập > 2000 RM/tháng, nhưng trước đó đã có số đăng ký bảo hiểm SOCSO, hoặc được chủ sử dụng lao động đồng ý. + Chủ sử dụng lao động: Bao gồm tất cả các doanh nghiệp, các tổ chức có sử dụng một lao động trở lên. * Bảo hiểm ở Singapore Các chế đọ BHXH đối với người lao động ở Singapore được thực hiện thêm qua quỹ dự phòng trung ương (CPF). CPF là một hệ thống BHXH toàn diện không chỉ quan tâm đến việc nghỉ hưu, nhà cửa, nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cho người tham gia BHXH, mà còn đảm bảo cho các thành viên của gia đình họ thông qua hệ thống bảo hiểm này. Đối tượng tham gia BHXH: Đối tượng bắt buộc tham gia vào CPF được chia thành hai loại sau: + Người lao động làm công, làm thuê ăn lương trả công (trả công thời gian theo giờ, ngày, tuần, hàng tháng….) + Người lao động tự lao động cho chính mình (lao động tự do) với mức thu nhập hăng năm trên 1400$ Singapore/người (tương đương với 14% USD/người hay 19,5triệu VNĐ/người. Theo giá quy đổi hiện nay tại Singapore. Nhìn chung hoạt động BHXH ở nước ngoài tạo thành điều kiện cho mọi đối tượng trong xã hội tham gia BHXH theo các hình thức bắt buộc và tự nguyện. Đối với loại hình bắt buộc thì các chủ sử dụng lao động có từ một lao động trở lên còn đói với đối tượng tự nguyện là những người lao động tự do (người lao động làm việc cho bản thân mình, không làm thuê cho ai cả…) việc quản lý, tính toán mức đóng hưởng theo từng tổ chức, nước khác nhau mà ấn định tỷ lệ đóng BHXH, tỷ lệ hưởng và điều kiện được hưởng khác nhau. ở nước ta thực hiện chính sách BHXH đối với người lao động và chủ sử dụng lao động được tiến hành thực hiện như sau: ở nước ta thực hiện chính sách BHXH đối với người lao động vf chủ sử dụng lao động được tiến hành thực hiện như sau: a)Về loại hình BHXH bắt buộc Điều lệ BHXH mới quy định đối tượng áp dụng bao gồm người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước hoặc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên; người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong khu chế suất, khu công nghiệp. Trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam trừ trường hợp điều ước quốc tế mà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Người làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp của Đảng, đoàn thể, làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang…. Những người trên đây đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng lương cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc. ở nước ta và các nước ưu tiên thực hiện BHXH bắt buộc đối với các đối tượng như Điều lệ BHXH mới của nước ta quy định, vì đó là những người có công việc, thu nhập và nơi làm việc tương đối ổn định. b) Về loại hình BHXH tự nguyện Mục đích là để vươn ra bảo vệ những người khó tham gia BHXH theo loại hình bắt buộc. Ngoài đối tượng tham BHXH bắt buộc, còn có một số rất lớn những người khác trong cộng đồng. Đó là những nông dân, cá thể, những người buôn bán nhỏ, những thợ thủ công thực hiện lao động độc lập, những người này không có công việc, thu nhập và nơi làm việc ổn định. Họ thường lưu động nay làm việc này, mai làm việc khác…đặc biệt là họ không có người sử dụng lao đọng cụ thể. Từ những đặc điểm nêu trên mà BHXH rất kéo có thể kiểm soát được đối tượng của mình và các đặc điểm đó không rễ được khắc phục. Cũng có những phương cách bảo vệ quan trọng khác như bảo hiểm mùa màng, bảo hiểm thiên tai, hoả hoạn, trợ giúp khuyến nông…ở nước ta, Bộ luật lao động ghi có loại hình BHXH tự nguyện và mới có điều lệ loại hình BHXH bắt buộc. Có thể ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1060.doc
Tài liệu liên quan