Chuyên đề Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á

Hoạt động của ngành ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực vào việc huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho sản xuất phát triển, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước. Vấn đề thiếu vốn đã được đáp ứng phần nào thông qua hoạt động tín dụng của ngành ngân hàng nhưng một phần vốn không nhỏ được cho vay ra đã được các doanh nghiệp sử dụng không có hiệu quả. Điều này dẫn đến chất lượng tín dụng của các ngân hàng có vấn đề. Hiện nay hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn phải đang phải đối mặt với những khó khăn như nợ khó đòi, tỉ lệ nợ quá hạn vượt quá giới hạn an toàn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do chất lượng thẩm định dự án đầu tư.

Như vậy có thể thấy rằng muốn đạt được hiệu quả cao khi cho vay nói chung và cho vay trung và dài hạn nói riêng thì việc thẩm định dự án đầu tư là một khâu rất quan trọng trong quy trình nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại. Làm tốt công tác thẩm định sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng, đảm bảo việc sử dụng vốn vay có hiệu quả và khả năng thu hồi vốn đầu tư, giảm rủi ro cho ngân hàng.

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em đã quyết định chọn chuyên đề: "Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á". Chuyên đề được chia làm hai phần:

Chương 1: Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á

Chương 2: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng.

 

doc80 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 892 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hoạt động của ngành ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực vào việc huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho sản xuất phát triển, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước. Vấn đề thiếu vốn đã được đáp ứng phần nào thông qua hoạt động tín dụng của ngành ngân hàng nhưng một phần vốn không nhỏ được cho vay ra đã được các doanh nghiệp sử dụng không có hiệu quả. Điều này dẫn đến chất lượng tín dụng của các ngân hàng có vấn đề. Hiện nay hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn phải đang phải đối mặt với những khó khăn như nợ khó đòi, tỉ lệ nợ quá hạn vượt quá giới hạn an toàn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Như vậy có thể thấy rằng muốn đạt được hiệu quả cao khi cho vay nói chung và cho vay trung và dài hạn nói riêng thì việc thẩm định dự án đầu tư là một khâu rất quan trọng trong quy trình nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại. Làm tốt công tác thẩm định sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng, đảm bảo việc sử dụng vốn vay có hiệu quả và khả năng thu hồi vốn đầu tư, giảm rủi ro cho ngân hàng. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em đã quyết định chọn chuyên đề: "Hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á". Chuyên đề được chia làm hai phần: Chương 1: Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á Chương 2: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng. CHƯƠNG I THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN BẮC Á I.Tổng quan về ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á 1.Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng Ngân hàng TMCP Bắc Á (NASB) được thành lập theo Quyết định số 183/QĐ-NH5 ngày 01/09/1994 của Thống đốc NHNN. Trụ sở chính của Ngân hàng hiện nay được đặt tại 117 Quang Trung, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Trải qua hơn 14 năm hoạt động, NASB (tên Tiếng Anh là North Asia Commercial Joint Stock Bank) đã trở thành một trong số các NHTM cổ phần lớn có hoạt động kinh doanh lành mạnh và là NHTM cổ phần có doanh số hoạt động kinh doanh lớn nhất khu vực miền Trung Việt Nam. Các sản phẩm dịch vụ chủ yếu của Ngân hàng bao gồm: huy động tiền gửi tiết kiệm, cho vay, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ thanh toán và kinh doanh ngoại tệ… Mạng lưới hoạt động của NASB hiện nay tương đối rộng. Ngoài trụ sở chính ở Vinh, NASB còn có nhiều chi nhánh ở nhiều thành phố trọng điểm như Hà Nội, Thanh Hóa, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Đồng Bằng Sông Cửu Long. NASB là thành viên chính thức của Hiệp hội thanh toán viễn thong liên ngân hàng toàn cầu, Hiệp hội các Ngân hàng Châu Á, Hiệp hội các Ngân hàng Việt Nam và phòng thương mại công nghiệp Việt Nam. Trong hơn 14 năm hoạt động, NASB đã vinh dự nhận được Cờ thi đua của Thủ tướng Chính Phủ, Bằng khen của Thống đốc NHNN về thành tích hoạt động kinh doanh và cờ thi đua của UBND tỉnh Nghệ An, là một trong 10 ngân hàng được chọn tham gia vào hệ thống thanh toán tự động liên NH. Ngân hàng TMCP Bắc Á – Chi nhánh Hà Nội (NASB Hà Nội) được thành lập vào năm 1995 theo Giấy phép số 1908/GP ngày 22 tháng 5 năm 1995 và Giấy chấp thuận số 0025/GCT ngày 01 tháng 07 năm 1995 của NHNN Việt Nam. Là đơn vị trực thuộc Ngân hàng TMCP Bắc Á, Chi nhánh Hà Nội là chi nhánh quan trọng nhất thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ trên địa bàn Hà Nội. Những ngày đầu mới thành lập Chi nhánh chỉ có hơn 30 cán bộ, trong đó 60% trình độ đại học. Nhưng cho đến nay đội ngũ cán bộ, nhân viên của Chi nhánh đã là hơn 70 người và đã có sự thay đổi về chất: 5 thạc sỹ, 98% đại học. Hầu hết cán bộ nghiệp vụ đều sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, sử dụng được ngoại ngữ trong công việc chuyên môn. Với thời gian hơn 10 năm hoạt động trên thị trường địa bàn Hà Nội, hoà vào tốc độ phát triển chung của toàn hệ thống Ngân hàng TMCP Bắc Á, NASB Hà Nội từng bước vươn lên, khẳng định vị trí của mình trong quá trình phát triển, phát huy các nguồn nội lực nhằm thúc đẩy kinh tế địa bàn thủ đô Hà Nội phát triển. Trong thời gian qua, NASB Hà Nội đã thực hiện tốt các chỉ tiêu kế hoạch đề ra, mở rộng mạng lưới hoạt động và nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Hiện nay, trụ sở chính của Chi nhánh đặt tại 47 Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội và đến 30/06/2009 đã có 07 phòng Giao dịch trực thuộc đặt tại nhiều địa điểm thuận lợi trên địa bàn Hà Nội. Cụ thể: Trụ sở Chi nhánh: Số 47 Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội Phòng GD Phương Mai: 101E9 Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội. Phòng GD Tây Sơn: 115 Tây Sơn, Đống Đa, Hà Nội. Phòng GD Hàng Bông: 133 Hàng Bông, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Phòng GD Bạch Mai: 277 Bạch Mai, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Phòng GD Đội Cấn: 80 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội. Phòng GD Cống Vị: 276 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội. Phòng GD Trấn Vũ: 30 Trấn Vũ, Hà Nội 2.Khái quát hoạt động sản xuất kinh doanh một số năm gần đây 2.1.Về hoạt động huy động vốn: Từ khi mới thành lập, NASB Hà Nội luôn xác định tạo vốn là khâu quan trọng mở đường, là cơ sở bảo đảm cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát triển nên mặt bằng vốn vững chắc ngày càng được tăng trưởng cả về VNĐ và ngoại tệ. Để có thể đáp ứng nhu cầu kinh tế xã hội và phục vụ tốt hơn hoạt động của mình, NASB Hà Nội luôn xác định huy động vốn là nhiệm vụ quan trọng. Xác định rõ nhiệm vụ đó, đến nay NASB Hà Nội đã xây dựng cơ cấu nguồn vốn hợp lý và đa dạng hoá nguồn vốn bằng việc đa dạng hoá các hình thức, biện pháp, các kênh huy động vốn từ mọi nguồn trong nền kinh tế. Lãi suất tiền gửi luôn được thay đổi linh hoạt phù hợp với tình hình chung của thị trường tiền tệ và nhu cầu huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của NASB nói chung và NASB Hà Nội nói riêng. Bên cạnh các hình thức huy động tiền gửi thuần tuý, NASB Hà Nội cũng thường xuyên có các hình thức, chương trình huy động vốn đặc biệt như TGTK có thưởng, TGTK tham gia dự thưởng hàng quý, TGTK dự thưởng với tài sản lớn. Ngoài việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội, trong vài năm gần đây, NASB Hà Nội còn huy động vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn tại Chi nhánh, đảm bảo tốt nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của Chi nhánh và điều chuyển vốn trong hệ thống NASB. Tình hình huy động vốn của NASB Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2009 được thể hiện qua bảng số liệu sau: BẢNG 1.1 NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TẠI NASB HÀ NỘI Đơn vị: Tỷ đồng Ngoại tệ quy đổi VNĐ Năm Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Số tiền Số tiền 07/06 (+/-%) Số tiền 08/07 (+/-%) Nguồn vốn huy động 1.098,44 1.291,95 17,62 1.506,76 16.63 1. Theo phương thức huy động Tiền gửi TK dân cư 857,44 979,17 14,20 1.094,51 11,78 Tỷ trọng(%) 78,06 75,79 72,64 Tiền gửi của các TCKT 101,06 195,99 93,94 245,30 25,16 Tỷ trọng(%) 9,20 15,17 16,28 Tiển gửi của TCTD 139,94 116,79 -16,54 166,95 42,95 Tỷ trọng(%) 12,74 9,04 11,08 2. Theo thời gian huy động Loại ngắn hạn 945,54 1.032,91 9,24 1.170,15 13,29 Tỷ trọng(%) 86,08 79,95 77,66 Loại trung, dài hạn 152,90 218,08 42,63 272,87 25,13 Tỷ trọng(%) 13,92 16,88 18,11 3. Theo loại tiền huy động Tiền gửi VND 905,66 1.020,90 12,72 1.225,75 20,07 Tỷ trọng(%) 82,45 79,02 81,35 Tiền gửi ngoại tệ 192,78 271,05 40,60 281,01 3,67 Tỷ trọng(%) 17,55 20,98 18,65 (Nguồn: Báo cáo tổng kết NASB Hà Nội 2007 - 2009) Trong những năm gần đây, do chú trọng tới công tác huy động vốn nên tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của NASB Hà Nội khá cao và tăng đều qua các năm: Năm 2008 tăng 17,62% so với năm 2007; năm 2009 tăng 16,63% so với năm 2008. Cơ cấu các kỳ hạn tiền gửi rất đa dạng để đảm bảo được nhu cầu đa dạng của khách hàng, thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền, với các kỳ hạn mở rộng từ không kỳ hạn, các kỳ hạn ngắn như 1, 2, 3, 6, 9 tháng và các kỳ hạn dài như 12, 18, 24, 36 tháng... Về lãi suất huy động cũng rất linh hoạt phù hợp với các kỳ hạn gửi, đồng thời mức lãi suất luôn ở mức cao hấp dẫn so với các Ngân hàng thương mại khác, đây cũng là yếu tố quan trọng lôi kéo khách hàng vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích tài chính của họ. Trong nguồn vốn huy động được phân theo phương thức huy động thì nguồn vốn huy động tiền gửi của dân cư chiếm tỷ trọng cao nhất: năm 2007 là 78,06%, năm 2008 là 75,79%, năm 2009 là 72,64%, tuy nhiên tỷ trọng này có xu hướng giảm nhẹ qua các năm. Việc giảm tỷ trọng của nguồn huy động từ dân cư như trên là không ảnh hưởng tới cơ cấu nguồn của toàn Chi nhánh bởi tổng nguồn vốn vẫn tăng qua các năm và việc giảm tỷ trọng nguồn trên sẽ tăng tỷ trọng các nguồn khác nhằm đảm bảo được cơ cấu chi phí nguồn hợp lý nhất. Theo đó, tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng đều qua các năm, cụ thể năm 2008 tăng 93,94% so với năm 2007, năm 2009 tăng 25,16% so với năm 2008. Đây là nguồn vốn cũng khá quan trọng, mặc dù tính ổn định của loại nguồn này thấp nhưng chi phí lại thuộc loại thấp nhất. Tại NASB Hà Nội nguồn vốn này cũng chỉ chiếm 10% - 15% tổng nguồn vốn huy động. Tại địa bàn Hà Nội - trung tâm kinh tế - chính trị của đất nước với sự phát triển đa dạng của nhiều thành phần kinh tế như hiện nay thì tỷ lệ này còn khá khiêm tốn. Đây cũng là một yếu tố mà NASB Hà Nội cần phải xem xét nâng tỷ trọng này lên cao hơn. Để có thể thu hút được lượng tiền tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, NASB Hà Nội cần có các biện pháp nâng cao và mở rộng các hoạt động dịch vụ, chú trọng nâng cao trình độ nghiệp vụ, đổi mới phong cách giao dịch với khách hàng. Trên thị trường Hà Nội, hoạt động về vốn trên thị trường liên ngân hàng diễn ra rất sôi động và đa dạng. Bằng uy tín và kinh nghiệm của mình NASB Hà Nội đã duy trì được lượng vốn từ thị trường này tương đối ổn định nhằm hỗ trợ cho các nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn. Từ năm 2007 đến năm 2009, việc tăng trưởng nguồn vốn huy động ngắn hạn và trung dài hạn của NASB Hà Nội diễn ra liên tục. Trong đó, nguồn vốn huy động ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn, cụ thể năm 2007 là 86,08%, năm 2008 là 79,95%, năm 2009 là 77,66%. Khả năng huy động vốn trung, dài hạn là một trong những yếu tố quan trọng cho phép ngân hàng có thể mở rộng cho vay trung, dài hạn. Trong giai đoạn 2007 - 2009 vốn huy động trung, dài hạn của NASB Hà Nội đều tăng qua các năm, nhưng chiếm tỷ trọng thấp so với nguồn vốn huy động ngắn hạn (chiếm khoảng từ 13-18%). Nguyên nhân chính là do sự phát triển không ngừng của nền kinh tế đã ngày càng xuất hiện nhiều hình thức đầu tư trung, dài hạn mới, có hiệu quả cao hơn nên nguồn vốn huy động trung, dài hạn của ngân hàng bị hạn chế. Theo cơ cấu nguồn huy động phân theo loại tiền thì tiền gửi bằng VNĐ chiếm tỷ trọng rất cao (từ 79-81%) và đều tăng qua các năm. Nguồn tiền gửi bằng ngoại tệ (trong đó chủ yếu là USD) chiếm tỷ trọng khiêm tốn (19-21%). Cơ cấu này phù hợp với tâm lý chung của người gửi tiền, do giữ ngoại tệ có thể chịu rủi ro về tỷ giá nên những khách hàng có tiền nhàn rỗi để gửi tiết kiệm chủ yếu là gửi tiền VNĐ. Đây cũng là một thực tế phản ánh hoạt động tại NASB Hà Nội, sử dụng nguồn vốn nội tệ là chủ yếu, do đó vấn đề thu hút vốn ngoại tệ vẫn có sự ‘lơi là’. NASB Hà Nội đang chú trọng xây dựng laị chính sách huy động vốn phù hợp hơn. Như vậy, qua phân tích chung cho thấy tổng nguồn vốn huy động tăng đều đặn qua các năm, tính chất ổn định còn thể hiện ở chỗ cơ cấu huy động từ nguồn vốn của dân cư và tổ chức kinh tế đều tăng qua các năm. Tuy nhiên, loại nguồn này rất nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất, chỉ một sự thay đổi nhỏ của lãi suất tiền gửi có thể dẫn đến việc tăng, giảm nguồn vốn huy động phù hợp với mục đích sử dụng. Trong năm 2008 và năm 2009, NASB Hà Nội đã áp dụng nhiều hình thức khuyến mại như gửi tiết kiệm có thưởng, dự thưởng tiết kiệm học bổng NASB, chương trính gửi tiền tiết kiệm trúng “căn hộ hạnh phúc”,… nên nguồn vốn này tăng một cách đáng kể. Như vậy, dù còn có những khó khăn, nhưng trong thời gian qua NASB Hà Nội đã tạo lập được nguồn huy động vốn ổn đinh và ngày càng mở rộng, đáp ứng kịp thời về nguồn cho hoạt động tín dụng trực tiếp và nhu cầu vốn điều chuyển trong hệ thống. 2.2.Về hoạt động sử dụng vốn: Trong hơn 10 năm qua hoạt động tín dụng và đầu tư của NASB Hà Nội không ngừng được đổi mới, phát triển, hoàn thiện và nâng cao cả về lượng lẫn về chất. Từ số lượng khách hàng ít ỏi, dư nợ tín dụng còn thấp, chất lượng tín dụng chưa cao trong những năm đầu thành lập, đến năm 2009, Ngân hàng đã phát triển được hệ thống khách hàng đa dạng về ngành nghề thuộc nhiều thành phần kinh tế. Trước năm 2000, nguồn vốn điều chuyển về Hội sở là chủ yếu, chiếm trên 70% tổng nguồn vốn huy động. Nhưng từ năm 2001, với chủ trương phát triển mở rộng hoạt động, xây dựng Chi nhánh thành một Ngân hàng bán lẻ phát triển, hệ số sử dụng vốn bình quân cho đầu tư trực tiếp tại NASB Hà Nội tăng trưởng qua các năm 2007 - 2009, uy tín hoạt động của NASB Hà Nội trên thị trường ngày càng cao. Với lợi thế kinh doanh trên địa bàn kinh tế năng động và đầy tiềm năng, cùng với nguồn vốn huy động dồi dào cho sự phát triển kinh doanh, trong những năm qua NASB Hà Nội đã không ngừng mở rộng hoạt động tín dụng và nâng cao hiệu quả công tác điều chuyển vốn nội bộ trong hệ thống NASB, hoàn thành tốt kế hoạch đã được giao. Để hiểu rõ hơn về hoạt động sử dụng vốn tại NASB Hà Nội, ta xem xét bảng 1.2 dưới đây. BẢNG 1.2: HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG VỐN TẠI NASB HÀ NỘI Đơn vị: Tỷ đồng Năm Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền 07/06 (+/-%) Số tiền 08/07 (+/-%) 1. Cho vay 412,97 659,42 59,68 867,16 31,50 Tỷ trọng(%) 40,71 52,29 28,44 58,94 12,72 2. Tiền gửi tại NASB 497,28 485,39 -2,39 503,90 3,81 Tỷ trọng(%) 49,02 38,49 34,25 3. Tiển gửi tại NHNN & TG khác 90,15 103,37 14,66 78,43 -24,13 Tỷ trọng(%) 8,89 8,20 5,33 4. Đầu tư 14,02 12,91 -7,92 21,76 68,55 Tỷ trọng(%) 1,38 1,02 1,48 Tổng cộng 1.014,42 1.261,09 24,32 1.471,25 16,66 (Nguồn: Báo cáo tổng kết của NASB Hà Nội năm 2006-2008) Qua bảng số liệu ta thấy, hoạt động cho vay tại NASB Hà Nội qua các năm tăng lên rõ rệt. Dư nợ cho vay liên tục tăng trưởng qua các năm: năm 2008 tăng so với năm 2007 là 59,68 %, năm 2009 tăng so với năm 2008 tăng 31,50%. Bên cạnh đó, lượng tiền gửi tại NASB tăng về quy mô qua các năm, mặc dù tỷ trọng trong tổng mức hoạt động giảm (từ 49.02% năm 2007 xuống còn 43.25% năm 2009). Điều này thể hiện việc điều chuyển vốn trong hệ thống vẫn diễn ra liên tục và ổn định. Tiền gửi tại NHNN & TG khác là nguồn tiền gửi mang lại lợi nhuận không cao nên chiếm tỷ trọng thấp và có xu hướng giảm (từ 90.15 tỷ chiếm 8.89% năm 2007 xuống còn 78.13 tỷ chiếm 5.33% năm 2009). Hoạt động đầu tư thì có xu hướng tăng lên cả về số lượng và tỷ trọng (từ 14.02 tỷ năm 2007 lên 21.76 tỷ năm 2009). Các hoạt động đầu tư thường có độ rủi ro cao nhưng lại thu được lợi nhuận cao cho Ngân hàng. Để cụ thể hóa hơn về hoạt động cho vay tại NASB Hà Nội, ta nghiên cứu bảng sau: BẢNG 1.3: HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NASB HÀ NỘI Đơn vị: Tỷ đồng Ngoại tệ quy đổi VNĐ Năm Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Số tiền 07/06 (+/-%) Số tiền 08/07 (+/-%) Tổng dư nợ 412,97 659,42 59,68 867,16 31,50 1. Cho vay ngắn hạn 332,65 509,67 53,21 629,56 23,52 Tỷ trọng(%) 80,55 77,29 72,60 Doanh số cho vay 731,83 1.223,20 67,14 1.636,84 33,82 Dư nợ VNĐ 259,47 379,04 46,08 453,85 19,74 Tỷ lệ(%) 78,00 74,37 72,09 Dư nợ ngoại tệ 73,18 130,63 78,50 175,71 34,51 Tỷ lệ(%) 22,00 25,63 27,91 2. Cho vay trung,dài hạn 80,32 149,75 86,44 237,60 58,66 Tỷ trọng(%) 19,45 22,71 27,40 Doanh số cho vay 43,37 89,85 107,16 178,20 98,32 Dư nợ VNĐ 67,76 122,12 80,23 190,01 55,59 Tỷ lệ(%) 84,36 81,55 79,97 Dư nợ ngoại tệ 12,56 27,63 119,94 47,59 72,25 Tỷ lệ(%) 15,64 18,45 20,03 412,97 659,42 59,68 867,16 31,50 (Nguồn: Báo cáo tổng kết của NASB Hà Nội năm 2007-2009) Trong những năm gần đây, kinh tế Thủ đô luôn tăng trưởng cao, do đó nhu cầu sử dụng vốn tín dụng tại các ngân hàng tăng cao. Thực hiện chủ trưởng mở rộng tín dụng với phương châm “an toàn, hiệu quả”, công tác tín dụng của NASB Hà Nội trong những năm qua đã có sự tăng trưởng đáng kể. Qua bảng 3 ta thấy, cho vay ngắn hạn của NASB Hà Nội chiếm tỷ trọng lớn phù hợp với cơ cấu nguồn huy động của Chi nhánh, năm 2007 là 80,55%, năm 2008 là 77,29%, năm 2009 là 72,60%; về quy mô cho vay cũng tăng mạnh qua các năm. Tín dụng trung, dài hạn cũng tăng trưởng liên tục, năm 2008 tăng 86,44% so với năm 2007, năm 2009 tăng 58,60% so với năm 2008. Có được thành tích trên là do NASB Hà Nội đã theo sát định hướng phát triển của ngành Ngân hàng và Thành phố Hà Nội, tính cấp thiết và hiệu quả của từng dự án. Vì vậy, vốn cho vay trung, dài hạn của Chi nhánh đã đáp ứng vốn cho nhiều dự án, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nắm bắt được thời cơ, góp phần giúp cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh ổn định và có hiệu quả, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Tuy tốc độ tăng trưởng tín dụng trung, dài hạn của NASB Hà Nội tăng trưởng khá cao nhưng vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ, năm 2007: 19,45%, năm 2008: 22,71%, năm 2009: 27,40%. Như vậy, tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn trong tổng dư nợ chỉ chiếm khoảng 20-27%, trong khi đó tỷ lệ dư nợ tín dụng trung, dài hạn trên địa bàn thường ở mức xấp xỉ 40% trên tổng dư nợ. Như vậy, NASB Hà Nội cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc tìm kiếm các dự án phát triển, đổi mới công nghệ máy móc, thiết bị, nhà xưởng nhằm tăng thêm hiệu quả sử dụng vốn và góp phần phát triển hơn nữa hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Trên thực tế, hoạt động cho vay tại NASB Hà Nội có những bước tăng trưởng cao nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn. Có được sự tăng trưởng mạnh mẽ như trên là nhờ thực hiện tốt công tác phát triển mạng lưới, thực thi hiệu quả công tác khách hàng, áp dụng thành công cơ chế lãi suất linh hoạt theo diễn biến của thị trường. Về cơ cấu cho vay của NASB Hà Nội cũng thay đổi rõ rệt trong những năm gần đây. Trước đây, Chi nhánh chủ yếu cho vay cá nhân, hộ kinh doanh cá thể, nhưng hiện nay, khách hàng vay vốn của Chi nhánh đã đa dạng hơn rất nhiều, có cả cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Công ty CP và Doanh nghiệp Nhà nước.. . Bên cạnh việc đa dạng hoá khách hàng vay vốn thì các phương thức cho vay cũng ngày càng được mở rộng với các phương thức như: cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay thấu chi, với các thể loại như vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Đồng thời với các phương thức cho vay trực tiếp khách hàng, NASB Hà Nội còn hợp vốn với các TCTD khác theo phương thức cho vay đồng tài trợ, ủy thác đầu tư ... Hiện nay, quá trình hướng dẫn thủ tục vay và thẩm định hồ sơ vay vốn cũng đã có bước cải thiện đáng kể và ngày càng hoàn thiện tại NASB Hà Nội nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Nhìn chung, vốn đầu tư tín dụng của Ngân hàng luôn phát huy hiệu quả cao, không chỉ giúp cho các doanh nghiệp ổn định sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng hàng hoá, khả năng cạnh tranh trên thị trường mà còn tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của chi nhánh trong thời gian vừa qua. 2.3.Một số hoạt động khác Trong bối cảnh hội nhập và điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, việc thúc đẩy phát triển các dịch vụ phi tín dụng và kinh doanh ngoại tệ là biện pháp hữu hiệu giúp mở rộng phạm vi cũng như quy mô kinh doanh, đa dạng hoá hình thức hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng, từ đó làm tăng đáng kể nguồn thu nhập cho các ngân hàng. Mặt khác, theo xu thế chung của thời đại, đó cũng là bước đi tất yếu trong chiến lược hiện đại hoá ngân hàng thương mại nói chung cũng như NASB Hà Nội nói riêng. Trong thời gian vừa qua, NASB Hà Nội đã không ngừng nỗ lực phát triển các loại hình kinh doanh dịch vụ phi tín dụng như Thanh toán quốc tế, chuyển tiền trong nước, phát hành thẻ v.v.. cùng với sự phát triển dịch vụ bảo lãnh, các dịch vụ khác…và bước đầu đã thu được những kết quả được đánh giá là hết sức khả quan. - Về Thanh toán quốc tế: Chi nhánh duy trì được một lượng khách hàng truyền thống tương đối ổn định đồng thời không ngừng tìm kiếm những khách hàng tiềm năng mới. Các loại hình dịch vụ thanh toán quốc tế như chuyển tiền, nhờ thu, mở thư tín dụng ... đa dạng và mang tính chuyên nghiệp cao. Hoạt động thanh toán của chi nhánh được phát triển từ chỗ chỉ có thanh toán nội địa trong những năm đầu thành lập đến hoạt động thanh toán quốc tế thông qua các ngân hàng nước khác. Từ cuối năm 2003 NASB Hà Nội đã thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế trực tiếp bằng cách sử dụng Hệ thống tài chính viễn thông liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT) với hệ thống ngân hàng đại lý ngày càng mở rộng thông qua đầu mối là Phòng thanh toán quốc tế tại Hội sở chính, từ đó giúp cho quá trình thanh toán của khách hàng cả xuất khẩu và nhập khẩu được nhanh chóng, thuận lợi hơn. Việc thanh toán xuất nhập khẩu và thực hiện chuyển tiền được thực hiện thuận tiện, nhanh chóng, đảm bảo đúng hạn và đúng với thông lệ quốc tế, nâng cao uy tín trong lĩnh vực thanh toán của NASB trên thị trường Quốc tế. Tuy nhiên, do hạn chế về qui mô ngân hàng, hiện nay thu nhập từ hoạt động này còn thấp, chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập của ngân hàng (xấp xỉ 2%/tổng thu nhập). - Về dịch vụ bảo lãnh: Dịch vụ bảo lãnh diễn ra khá thường xuyên với khách hàng chủ yếu là các khách hàng truyền thống, có dư nợ lớn. Trong cơ cấu dư nợ bảo lãnh, bảo lãnh thực hiện hợp đồng chiếm khoảng 30%, bảo lãnh dự thầu chiếm khoảng 35%, bảo lãnh thanh toán chiếm khoảng 20%, còn lại là các loại bảo lãnh khác (bảo lãnh chất lượng sản phẩn, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước,…).. Doanh số bảo lãnh cũng tăng trưởng liên tục qua các năm, năm 2008 tăng 25% so với năm 2007, năm 2009 tăng 45% so với năm 2008. Các loại hình bảo lãnh được ngân hàng thực hiện như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh chất lượng sản phẩm, bảo lãnh bảo hành…chưa có bất kỳ bảo lãnh nào NASB Hà Nội phải đứng ra trả nợ thay cho khách hàng. Điều đó chứng tỏ chất lượng của hoạt động này khá tốt. Nguồn thu từ hoạt động bảo lãnh góp phần không nhỏ vào kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - Về hoạt động Marketing: Trong bối cảnh có sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ giữa các tổ chức tín dụng với nhau, NASB Hà Nội luôn chú trọng việc chấn chỉnh thái độ giao tiếp, phục vụ khách hàng của toàn thể cán bộ nhân viên trong chi nhánh. Bên cạnh đó, NASB Hà Nội cũng thường xuyên thực hiện công tác quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình, tờ rơi … nhằm cung cấp các thông tin đầy đủ về các mặt hoạt động của chi nhánh tới đông đảo quần chúng nhân dân trên địa bàn. Song song với việc quảng cáo, NASB Hà Nội cũng đã xây dựng các chương trình khuyến mãi hấp dẫn khác nhằm quảng bá hình ảnh và thu hút khách hàng. Kết quả là ngày càng đông đảo khách hàng tin tưởng đến giao dịch tại Chi nhánh. Song bên cạnh những thành tích đạt được, cũng phải nhìn nhận một thực tế là so với tiềm năng, hoạt động dịch vụ ở NASB Hà Nội còn khiêm tốn cả về loại hình dịch vụ, số lượng khách hàng và doanh thu. Trong thời gian tới, Chi nhánh cần có kế hoạch cụ thể nhắm xúc tiến mở rộng các hoạt động này. II.Thực trạng công tác thẩm định tại ngân hàng 1.Mục đích và căn cứ thẩm định dự án đầu tư vay vốn Ngân hàng thu lợi chủ yếu nhờ hoạt động cho vay. Chính vì vậy mỗi khoản tín dụng được cấp ra nhất thiết phải mang lại hiệu quả, điều đó đồng nghĩa với việc đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng phải được an toàn và hiệu quả.Vì vậy, điều các ngân hàng nói chung, hay ngân hàng HASB nói riêng quan tâm là khả năng hoàn trả khoản vay cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn. Do đó, việc ngân hàng phải tiến hành thẩm định dự án trên mọi phương diện kỹ thuật, thị trường,tổ chức quản lý, tài chính cho các dự án cho vay là rất quan trọng Một dự án đầu tư đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, trong một thời gian dài, phần lớn vượt quá khả năng tài chính, khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Do vậy họ phải huy động nguồn tài trợ từ phía ngân hàng. Khi ngân hàng HASB cho vay cho doanh nghiệp cũng có khả năng sinh lời nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro có thể xảy ra, chính vì thế ngân hàng không còn cách nào khác là phải tiến hành thẩm định các phương diện của dự án. Vai trò quan trọng của thẩm định dự án thể hiện ở chỗ nó chính là căn cứ chính yếu để ngân hàng đưa ra quyết định tài trợ của mình Về mặt nghiệp vụ, ngân hàng với phương châm hoạt động hiệu quả và an toàn, công tác thẩm định dự án của ngân hàng giúp cho: - Ngân hàng có cơ sở tương đối vững chắc để xác định được hiệu quả đầu tư vốn cũng như khả năng hoàn vốn của dự án, quan trọng hơn cả là xác định khả năng trả nợ của chủ đầu tư - Ngân hàng có thể dự đoán được những rủi ro có thể xẩy ra, ảnh hưởng tới quá trình triển khai thực hiện dự án. Trên cơ sở này, phát hiện và bổ sung thêm các biện pháp khắc phục hoặc hạn chế rủi ro, đảm bảo tính khả thi của dụ án đồng thời tham gia ý kiến của các cơ quan quản lý Nhà Nước và chủ đầu tư có thể quyết định đầu tư đúng đắn - Ngân hàng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc110688.doc
Tài liệu liên quan