Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp ngành Muối

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về mở rộng và phát triển các mối quan hệ đối ngoại, trong những năm gần đây quan hệ ngoại thương đã phát triển mạnh mẽ, kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng gia tăng tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu giữa các ngành kinh tế của ta với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã và đang từng bước tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, tiếp cận với nền kinh tế thế giới và trở thành mắt xích trong guồng máy kinh tế thế giới.

Hoạt động xuất nhập khẩu đang là hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng đối với Việt nam. Xuất khẩu được khuyến khích nhằm đẩy mạnh nền sản xuất trong nước, tăng thu ngoại tệ và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay thị trường Muối đang lâm vào tình trạng khủng hoảng thiếu nhất là Muối công nghiệp phục vụ cho các ngành công nghiệp. Nhưng việc nhập khẩu Muối luôn được cân đối với chính sách của Nhà nước và nhu cầu của thị trường.

Cũng như nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu khác khi mới bước vào kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thì thường không tránh khỏi những khó khăn và thách thức cũng như kinh doanh xuất nhập khẩu còn yếu kém của đội ngũ lao động, vì thế tìm ra được giải pháp nhằm khắc phụcvà dần hoàn thiện những yếu điểm trong những lĩnh vực kinh doanh của Công ty luôn được các cấp lãnh đạo và toàn bộ cán bộ công nhân viên của Công ty quan tâm.

Là một sinh viên được tham gia thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp ngành Muối, trước mối quan tâm đó và nhận thức được sự cần thiết trên em trọn đề tài: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp ngành Muối” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu tình hình hoạt động nhập khẩu của Công ty và từ đó tìm ra giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của Công ty nói chung và hiệu quả nhập khẩu nói riêng.

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong bài viết này là kết hợp giữa lý luận và thực tiến, bên cạnh đó là một số phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp.

Kết cấu bài viết được chia thành 3 phần như sau:

Chương I: Một số lý luận về hiệu quả xuất nhập khẩu.

Chương II: Thực trạng hiệu quả xuất nhập khẩu của Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp ngành Muối.

Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK.

 

doc89 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1034 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp ngành Muối, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về mở rộng và phát triển các mối quan hệ đối ngoại, trong những năm gần đây quan hệ ngoại thương đã phát triển mạnh mẽ, kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng gia tăng tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu giữa các ngành kinh tế của ta với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã và đang từng bước tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, tiếp cận với nền kinh tế thế giới và trở thành mắt xích trong guồng máy kinh tế thế giới. Hoạt động xuất nhập khẩu đang là hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng đối với Việt nam. Xuất khẩu được khuyến khích nhằm đẩy mạnh nền sản xuất trong nước, tăng thu ngoại tệ và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay thị trường Muối đang lâm vào tình trạng khủng hoảng thiếu nhất là Muối công nghiệp phục vụ cho các ngành công nghiệp. Nhưng việc nhập khẩu Muối luôn được cân đối với chính sách của Nhà nước và nhu cầu của thị trường. Cũng như nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu khác khi mới bước vào kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thì thường không tránh khỏi những khó khăn và thách thức cũng như kinh doanh xuất nhập khẩu còn yếu kém của đội ngũ lao động, vì thế tìm ra được giải pháp nhằm khắc phụcvà dần hoàn thiện những yếu điểm trong những lĩnh vực kinh doanh của Công ty luôn được các cấp lãnh đạo và toàn bộ cán bộ công nhân viên của Công ty quan tâm. Là một sinh viên được tham gia thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp ngành Muối, trước mối quan tâm đó và nhận thức được sự cần thiết trên em trọn đề tài: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu ở Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp ngành Muối” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu tình hình hoạt động nhập khẩu của Công ty và từ đó tìm ra giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của Công ty nói chung và hiệu quả nhập khẩu nói riêng. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong bài viết này là kết hợp giữa lý luận và thực tiến, bên cạnh đó là một số phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp. Kết cấu bài viết được chia thành 3 phần như sau: Chương I: Một số lý luận về hiệu quả xuất nhập khẩu. Chương II: Thực trạng hiệu quả xuất nhập khẩu của Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp ngành Muối. Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK. Chương I: Một số vấn đề lý luận về hiệu quả nhập khẩu. I/ Khái niệm và quy trình XNK. 1.Khái niệm về nhập khẩu. Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi mua bán đơn lẻ mà là một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền kinh tế có tổ chức cả bên trong và bên ngoài một quốc gia. Vậy thực chất ở đây, nhập khẩu hàng hoá là việc mua bán hàng hoá từ các tổ chức kinh tế, các công ty nước ngoài và tiến hành tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu tại thị trường nội địa hoặc tái xuất khẩu với múc đích thu lợi nhuận và nối liền sản xuất và tiêu dùng cùng với nhau. Mục tiêu của hoạt động nhập khẩu là việc sử dụng có hiệu quả ngoại tệ tiết kiệm để nhập khẩu là việc sử dụng có hiệu quả ngoại tệ tiết kiệm để nhập khẩu vật tư hàng hoá phục vụ cho qúa trình tái sản xuất mở rộng và đời sống nhân dân trong nước, đồng thời bảo đảm cho việc phát triển nhịp nhàng và nâng cao năng suất lao động bảo vệ các ngành sản xuất trong nước, giải quết sự khan hiếm của thị trường nội địa. Bên cạnh đó, thông qua nhập khẩu bảo đảm sự phát triển ổn định những ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi nước mà khả năng sản xuất trong nước chưa bảo đảm cho chúng ta, tạo ra những năng lực mới trong sản xuất, khai thác hết lợi thế so sánh của mỗi quốc gia mình nhằm mục đích kết hợp hài hoà giữa nhập khẩu với xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Tiêu chuẩn hiệu quả của nhập khẩu là thực hiện sự đổi mới trọng điểm về trình độ công nghệ của sản xuất trong nước nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội, tăng chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Vì vậy, việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nước phát triển góp phần tích luỹ nâng cao hiệu qủa kinh tế chung và đảm bảo cho lợi ích của mỗi doanh nghiêp nói riêng. Hoạt động nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều khâu nghiệp vụ khác nhau, từ khâu nghiên cưu điều tra, tiếp cận thị trường nước ngoài, lựa chọn bạn hàng, hàng nhập khẩu, tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho tới khi hàng hoá ra tới bến cảng, chuyển giao quyền sở hữu cho người mua và hoàn thành thủ tục thanh toán. mỗi khâu nghiệp vụ phải được nghiên cứu thực hiện đầy đủ, kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ năm bắt được lợi thế nhằm đảm bảo cho hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả cao, phục vụ đầy đủ và bổ xung kịp thời nhu cầu trong nước. 2.Quy trình XNK hàng hóa. Hoạt động nhập khẩu là một quá trình gồm nhiều khâu. Bất kỳ một sự không ăn khớp giữa các khâu sẽ dẫn đến thiệt hại kinh tế cho doanh nghiệp nhập khẩu, và quan trọng hơn là sự mất uy tín đối với các đối tác trong kinh doanh. Như vây, hiệu quả của hoạt động nhập khẩu phụ thuộc phần lớn vào trình độ tổ chức thực hiện quy trình nhập khẩu. Việc nghiên cứu kỹ quy trình này cũng giúp chúng ta nảy sinh những ý kiến khả dĩ có thể làm tăng hiệu qủa trong hoạt động kinh doanh XNK. Quy trình thực hiện hoạt động nhập khẩu được cụ thể quy sơ đồ sau: Mô hình 1: quy trình thực hiện hoạt động nhập khẩu Nghiên cứu thị trường Lựa chọn đối tác Đàm phán ký kết HĐ Tổ chức thực hiện HĐ Tổ chức Tiệu thụ Hàng hoá 2.1.Điều tra nghiên cứu thị trường. Vấn đề nghiên cứu thị trường là mộg việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luật, những kết luận này sẽ giúp cho nhà quản lý đưa ra quyết định đúng đắn để lập dế hoạch marketinh. Công tác nghiên cứu thị trường phải góp phần chủ yếu trong việc thực hiện phương châm hành động “chỉ bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái có sẵn” Công tác nghiên cứu thị trường phải trả lời một số câu hỏi sau đây: Nước nào là thị trường có triển vọng nhất đối với sản phẩm của công ty? Khả năng số lượng bán ra được bao nhiêu? Sản phẩm cần có những thích ứng gì trước những đòi hỏi của thị trường? Nên chọn phương pháp bán nào cho phù hợp? 2.2. Lựa chọn đối tác giao dịch. Việc nghiên cứu thị trường giúp cho doanh nghiệp có thể lựa chọn thị trường thời cơ thuận lợi, phương thức mua bán và điều kiện giao dịch thích hợp. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, kết quả hoạt động kinh doanh còn phụ thuộc vào đối tác giao dịch. Trong những điều kiện như nhau, việc giao dịch với khách hàng cụ thể này thì thành công, nhưng với khách hàng khác nhau thì sẽ gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Mục đích của lựa chọn đối tác là tìm kiếm người cộng tác khả dĩ, an toàn và có lợi. Trong quá trình lựa chọn đối tác giao dịch doanh nghiệp cần nghiên cứu những vấn đề sau: Tình hình sản xuất kinh doanh của đối tác: lĩnh vực kinh doanh, phạm vi kinh doanh, chất lượng sản phẩm, giá cả, khả năng cung cấp sản phẩm lâu dài và thường xuyên.. Khả năng về vốn và cơ sở vật chất của đối tác: cho thấy ưu thế của đối tác trên thị trường, thực trạng khả năng sản xuất kinh doanh của họ. Thái độ và quan điểm của đối tác. Uy tín và mối quan hệ với các bạn hàng của đối tác Tình hình chính trị của nước đối tác. đây là vấn đề quan trọng, nhất là khi trên thế giới đang xảy ra nhiều xung đột lớn về chính trị, quân sự, có ảnh hưởng lớn đến quá trình nhập khẩu. Muốn tìm được đối tác phù hợp, các nhân viên kinh doanh nhập khẩu cần phải tìm hiểu thông tin thông qua các bạn hàng đã từng làm việc với đối tác mà doanh nghiệp sẽ tiến hành đàm phán, phân tích tình hình hoạt động của họ nếu điều kiện thông tin cho phép. 2.3. Đàm phán ký kết hợp đồng. 2.3.1. Đàm phán. Đàm phán là quá trình bàn bạc, trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến thống nhất, ký kết hợp đồng. Đàm phán có nhiều hình thức đàm phán khác nhau như: đàm phán qua thư tín, qua điện thoại, qua gặp gỡ trực tiếp... 2.3.2.Ký kết hợp động: Hợp đồng XNK là hợp đồng mua bán đặc biệt, trong đó người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua vượt qua biên giới quốc gia, còn người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một khoản tiền ngang giá trị hàng hoá bằng các phương thức thanh toán quốc tế theo thoả thuận và không vi phạm pháp luật. Ngoài ra hợp đồng coàn là cơ sở pháp lý để giải quyết mọi tranh chấp phát sinh (nếu có). Vì vậy khi ký hợp đồng cần phải chú ý: Ghi rõ và đầy đủ ngày tháng lập hợp đồng, các bên ký kết hợp đồng. Liệt kê cụ thể các điều khoản của hợp đồng như tên hàng, số lượng hàng, phẩm chất.... Trước khi ký kết hợp đồng phải ghi rõ số bản hợp đồng, ngôn ngữ sử dụng, thời gian và địa điểm ký hợp đồng, thời gian hợp đồng có hiệu lực.... 2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng. Sau khi hợp đồng đượclý kết, đơn vị kinh doanh nhập khẩu với tư cách là một bên ký kết sẽ phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Việc thực hiện hợp đồng sẽ phải trải qua nhiều bước để có thể đảm bảo được việc tuân thủ các quy định của Luật pháp Quốc tế, bảo đảm được việc hàng hoá bên nhập khẩu được thoả mãn yêu cầu của mình. Các bước mà doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải trải qua trong qúa trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu được sơ đồ hoá như sau: Sơ đồ 1: Quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu: Ký kết HĐ-KD-NK Xin giấy phép NK Mở L/C khi bên bán báo Đôn đốc bên bán giao hàng Thuê tàu hoặc lưu cước Mua bảo hiểm hàng hoá Làm thủ tục hải quan Nhận hàng Kiểm tra hàng hoá Làm thủ tục thanh toán Khiếu nại và xử lý khiếu nại ( nếu có ) 2.4.1 Xin giấy phép nhập khẩu. Giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để Nhà nước quản lý nhập khẩu vì thế sau khi ký hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin phép nhập khẩu để thực hiện hợp đồng đó. Giấy phép do Bộ Thương Mại làm thủ tục xin giấy phép nhập khẩu khác nhau đối với hàng hoá thuộc các nhóm hàng khác nhau. Nó bảo đảm về mặt pháp lý của các bên tham gia xuất nhập khẩu, hàng hoá được xuất nhập khẩu đúng với Luật Pháp của các nước. 2.4.2 Mở thư tín dụng L/C Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằn phương thức thư tín dụng chứng từ bên mua phải mở L/C ở ngân hàng khi có thông báo từ bên bán. Thời gian mở L/C phụ thuộc vào thời gian giao hàng. Để cho chặt chẽ, hợp đồng thường quy định cụ thể ngày giao hàng, ngày mở L/C. Nếu như hợp đồng không quy định cụ thể thì thông thường thời gian này là khoảng 15 đến 20 ngày trước khi đến thời gian giao hàng. Cơ sở mở L/C là các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu. Đơn vị nhập khẩu dựa vào cơ sở đó làm đơn xin mở L/C gng theo mẫu của ngân hàng. 2.4.3 Đôn đốc bên bán giao hàng. Sau khi xin giấy pép nhập khẩu và mở thư tín dụng L/C, bên doanh nghiệp nhập khẩu cũng nên thường xuyên liên lạc với bên đối tác xuất khẩu để đôn đốc thực hiện giao hàng đúng hợp đồng đã được thảo thuận. Mặt khác, khi nảy sinh những trường hợp trục trặc thì sớm biết để phối hợp với bên xuất để kịp thời xử lý. 2.4.4 Thuê tàu chở hàng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, việc thuê tàu chở hàng dựa vào những căn cứ sau: Những điều khoản trong hợp đồng mua bán. Đặc điểm hàng hoá mua bán Điều kiện vân tải. Nếu điều kiện cơ sở là FOB thì bên nhập khẩu phải thuê tàu để chở hàng, nếu điều kiện giao hàng là CIF thì bên nhập khẩu phải thuê tàu mà nghĩa vụ đó thuộc về người xuất khẩu. Tuỳ theo đặc điểm của hàng hoá kinh doanh, phương thức thuê tàu cho phù hợp : thuê tàu chuyến, tàu chợ hay tàu bao. Nếu nhập khẩu thường xuyên với khối lượng lớn thì nên thuê tàu chuyến. Nếu nhập khẩu với khối lượng nhỏ thì nên thuê tàu chợ. 2.4.5 Mua bảo hiểm hàng hoá. Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường gặp rất nhiều rủi ro, tổn thất. Bởi vậy, trong kinh doanh thương mại quốc tế, bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất. Hợp đồng bảo hiểm có thể chia làm hai loại: Hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm chuyến. Ngoài ra, khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm, đó là : bảo hiểm mọi rủi ro ( điều kiện A), bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng ( điều kiện B ), bảo hiểm miễn bồi thường tổn thất riêng ( điều kiện C). Ngoài ra còn có một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt như : bảo hiểm chiến tranh, bảo hiểm đình công, bạo động. Để lựa chọn điều kiện bảo hiểm cho phù hợp cần căn cứ vào tính chất, đặc điểm của hàng hoá, thời tiết, khả năng vận chuyển bốc dỡ, đặc điểm quãng đường. 2.4.6 Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hay nhập khẩu để phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là một công cụ để quản lý hành vi buôn bán theo pháp luật của nhà nước để : ngăn chặn xuất nhập khẩu luậu qua biên giới; để kiểm tra giấy tờ có sai sót, giả mạo hay không; để thống kê số liệu về hàng xuất nhập khẩu. Việc làm thủ tục hải quan gồm 3 bước chủ yếu sau: Bước 1: Khai báo hải quan Chủ hàng phải kê khai chi tiết về hàng hoá lên tờ khai để cơ quan hỉa quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Việc kê khai phải trung thực, chính xác. Tờ khai hải quan phải được xuất trình cùng với một số chứng từ khác: giấy phép nhập khẩu, hoá đơn, phiếu đóng gói bản kê khai chi tiết, vận đơn. Bước 2: Xuất trình hàng hoá. Hải quan được phép kiểm tra hàng hoá nếu thấy cần thiết. Thông thường với khối lượng ít, hàng lên bờ thì vận chuyển đến kho Hải quan kiểm lượng làm thủ tục hải quan và nộp thuế ( nếu có ) đối với hàng nhập khẩu. Đối với hàng hoá nhập khẩu với khối lượng lớn, việc kiểm tra hàng hoá và giấy tờ của Hải quan có thể diễn ra tại cửa khẩu hay tại nơi giao hàng cuối cùng. Bước 3: Thực hiện các quyết định của Hải quan. Sau khi kiểm ra giấy tờ và hàng hoá, Hải quan sẽ ra các quyết định : cho hàng qua biên giới ( thông quan ); cho hàng qua biên giới có điều kiện ( ví dụ: phải sửa chữa, khắc phụ khuyết tật,.. .) ; cho hàng qua biên giới sau khi chủ hàng đã nộp thuế xuất nhập khẩu; không được phép nhập khẩu. Doanh nghiêp có trách nhiệm nghiêm túc thực hiện các quyết định trên. Nếu vi phạm các quyết định trên sẽ thuộc vào tội hình sự. 2.4.7 Nhận hàng. Để nhận hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài về, đơn vị nhập khẩu phải thực hiện công việc sau: Ký kết hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vận tải ( ga, cảng ) về việc giao nhận hàng. Xác nhận với cơ quan vận tỉa kế hoạch tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu. Cung cấp tài liệu cần thiết cho việc nhận hàng ( vận đơn, lệnh giao hàng...) nếu tàu biển không giao những tài liệu đó cho cơ quan vận tải. Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập biên bản ( nếu cần ) về hàng hoá và giải quyết trong phạm vi của minhf những vấn đề xảy ra trong giao nhận. Thanh toán cho cơ quan vận tải các khoản phí tổn về giao nhận, bốc xếp, bảo quản và vận chuyển nhập khẩu. Thông báo cho các đơn vị trong nước đặt mua hàng nhập khẩu ( nếu hàng nhập khẩu cho một đơn vị trong nước ) dự kiến ngày hàng về, ngày thực tế tàu chở hàng về đến cảng hoặc ngày toa xe chở hàng vào sân ga giao nhận. Hoặc thông báo cho các đơn vị đặt hàng chuẩn bị tiếp nhận hàng hoá. Chuyển hàng về kho của doanh nghiệp hoặc giao trực tiếp cho các đơn vị đặt hàng 2.4.8 Kiểm tra hàng hoá. Kiểm tra chất lượng hàng hoá có tác dụng đảm bảo quyền lợi cho khách hàng, ngăn chặn kịp thời những hậu quả xấu và bảo đảm uy tín trong quan hệ buôn bán xuất nhập khẩu, nó gồm những công việc như kiểm tra hàng hoá và kiểm định hàng hoá nếu hàng hoá là động thực vật, kiểm tra về số lượng hàng hoá xuất nhập khẩu được thực hiện bởi các cơ quan chức năng đặc biệt như Công ty giám định, cơ quan Hải quan cở ga, cảng. 2.4.9 Làm thủ tục thanh toán. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương, có thể nói thanh toán là khâu trọng tâm và kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh thương mại quốc tế. Do đặc điểm buôn bán với nước ngoài, nên thanh toán trong kinh doanh thương mại quốc tế phức tạp do vậy cần phải rất cẩn thận để tránh xảy ra tổn thất. Trong thủ tục thanh toán, có nhiều phương thức thanh toán như: thư tín dụng ( L/C), phương thức nhờ thu, chuyển tiền.... Việc thực hiện thanh toán theo phương thức nào phải quy định cụ trể trong hợp đồng. Doanh nghiệp phải tiến hành thanh toán theo đúng điều kiện của hợp đồng. 2.4.10 Khiếu nại về hàng hoá ( nếu có ) Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng xuất khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời hạn khiếu nại. Bên nhập khẩu phải viết đơn khiếu nại và gửi cho bên bị khiếu nại trong thời hạn quy định, kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất như: biên bản giám định, hoá đơn, vận đơn đường biển, đơn bảo hiểm ( nếu khiêu nại Công ty bảo hiểm ) Tuỳ theo nội dung khiếu nại mà người nhập khẩu và bên bị khiếu nại có các cách giải quyết khác nhau. Nếu như không tự giải quyết được thì làm đơn kiện gửi đến trọng tài kình tế hoặc toà án kinh tế theo quy định trong hợp đồng. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu là khâu quan trọng nhất và cũng là khâu có chịu tác động của nhiều nhân tố. Nó bao gồm các nghiệp vụ, các giai đoạn khác nhau nhưng phải được tiến hành theo trình tự nhất định hoặc tiến hành song song. Trong giai đoạn này, nếu thực hiện được tốt thì hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty sẽ tăng lên do tiết kiệm được thời gian tranh thủ được cơ hội kinh doanh, tiết kiệm được chi phí sở dụng vốn, tăng tốc độ quay vòng của vốn và tránh được các rủi ro trong khi nhập hàng. Muốn làm tốt khâu này thì ngoài việc nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm hàng thì công ty cũng cần thiết lập quan hệ tốt với các cơ quan như ngân hàng, thuế quan, hải quan, cơ quan vận chuyển.... 2.5. Tổ chức tiêu thụ hàng nhập khẩu. Sau khi nhập hàng từ ngoài về, doanh nghiệp giao hàng cho đơn vị đặt hàng hoặc tổ chức tiêu thụ tốt trên thị trường nội địa. Doanh nghiệp nhập khẩu cần tiến hành tiêu thụ hàng hoá có hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp, tạo điều kiện tái đầu tư vào quá trình nhập khẩu tiếp theo. Đây là giai đoạn bán hàng hay tiêu thụ hàng nhập khẩu. Nó giúp cho giá trị được thực hiện. Tiêu thụ nhanh thì công ty sớm thu hồi vốn để sử dụng đầu tư vào các lĩnh vực có lãi khác. Ngoài ra, trong quá trình tiêu thụ, công ty mới có cơ hội xây dựng chữ tín với các bạn hàng và tìm hiểu được nhu cầu của các khách hàng hiện tại và tiềm năng. Để làm tốt khâu này, doanh nghiệp nhập khẩu cần đề ra các biện pháp nhằm củng cố các quan hệ truyền thống, đồng thời thu hút nhiều khách hàng hơn nữa đến với doanh nghiệp mình, như các biện pháp về thanh toán, vận chuyển, lưu kho.... II/ Quan niệm và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả XNK. 1. Quan niệm về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Theo nghĩa tổng quát, hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ và năng lực quản lý, bảo đảm thực hiện có kết quả cao những nhiệm vụ kinh tế - xã hội đặt ra với chi phí nhỏ nhất. Với nội dung như vậy, ta cần phân biệt sự khác nhau và mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh và kết quả kính doanh. Hiệu quả kinh doanh về hình thức luôn là một phạm trù so sánh thể hiện mối tương quan gữa cái bỏ ra và cái thu về được, còn kết quả chỉ là yếu tố cần thiết để tính toán và phân tích hiệu quả. Khi xem xét độc lập chỉ tiêu kết quả kinh doanh thì nó chưa thể hiện được nó tạo ra ở mức và với chi phí nào. Mặt khác khi xem xét vấn đề hiệu quả kinh doanh cũng cần phải đặt nó trong một quá trình mà trong đó các yếu tố tăng thêm có sự liên kết đến những yếu tố sẵn có bới xét trên quan điểm triết học Mác-Lênin thì sự vật và hiện ượng đều có mối quan hệ rang buộc chứ không tồn tại một cách riêng lẻ. Việc xem xét như vậy để tránh ý kến cho rằng hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỉ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí. Việc quan niệm như vậy là phù hợp hơn cho việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của việc mở rộng sản xuất kinh doanh. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng coa năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí. Vì vậy, yêu cầu của việc nâng coa hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, hay chính xác hơn là đạt kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất đinhj với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Khi đánh giá hiệu quả kinh doanh cần xem xét trên hai mặt định lượng và định tính. Về mặt định lượng: Hiệu quả kinh doanh của việc thực hiện mỗi nhiệm vụ kinh doanh biểu hiện ở mỗi tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Nếu xét về mặt tổng lượng thì hiệu quả kinh doanh chỉ có được khi kết quả lớn hơn chi phí, chênh lệch này càng lớn thì thiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại. Về mặt định tính, mức độ hiệu quả kinh doanh coa thu được phản ánh sự cố gắng nỗ lực, trình độ quản lý của mỗi khâu, mỗi bộ phận trong doanh nghiệp và sự gắn bó của việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh doanh với những yêu cầu và mục tiêu chính trị - xã hội. Hai mặt định lượng và định tính của phạm trù này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong những biểu hiện về định lượng phải nhằm đạt được những mục tiêu chính trị xã hội nhất định. Ngược lại, việc quản lý kinh tế dù ở giai đoạn nào cũng không chấp nhận việc thực hiện những yêu cầu mục tiêu chính trị- xã hội với bất kỳ giá nào. Trên đây, ta đã đề cập tới quan niệm hiệu quả kinh doanh đối với các hoạt động kinh doanh nói chung. Vậy hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu có gì khác ? Như chúng ta đã biết, hoạt động nhập khẩu kà một trong hai hoạt động chính của thương mại quốc tế. Nó ra đời nhằm thoả mãn nhu cầu trao đổi giữa các quốc gia, cụ thể là nhằm bù đắp những hàng hoá, vật tư nguyên liệu trong nước không có hoặc sản xuất chưa đủ, hoặc sản xuất kém hiệu quả. Xét theo ý nghĩa đó thì hoạt động nhập khẩu là hết sức cần thiết, nó đóng góp vào việc nâng cao đời sống của nhân dân cũng nhưu góp phần vào việc nâng cao năng lực và ổn định sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Như vậy, xét về mặt bản chất hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là một hình thái của hoạt động kinh doanh nói chung, nó kế thừa và xoay quanh bản chất của hoạt động kinh doanh, nó được mở rộng về mặt không gian trao đổi hàng hoá và chủng loại hàng hoá. Do vậy, bản chất của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là bản chất của hoạt động kinh doanh nói chung. Tuy vậy, khi đề cập đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu chúng ta cũng cần quan tâm tới một số đặc điểm có tính đặc trưng của nó. Bởi vì, doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là một doanh nghiệp trao đổi buôn bán hàng hoá vượt qua biên giới đất nước. Tuy nhiên xét theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là tương quan giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Mặt khác nếu đứng trên góc độ từng yếu tố riên lẻ để xem xét thì hiệu quả là thể hiện tình độ và khả năng sử dụng các yếu tố, các nguồn lực cần thiết phục vụ cho quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong thực tế, hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu trong các doanh nghiệp tăng lên trong các trường hợp sau: Kết quả tăng, chi phí giảm. Kết quả tăng, chi phí tăng nhưng tốc độ tăng của chi phí chậm hơn tốc độ tăng của kết quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Trường hợp này trong kinh doanh phổ biến hơn và ta phải chấp nhận bởi lẽ thời gian đầu chi phí tăng cao nhưng kết quả thấp do đổi mới mặt hàng, thay đổi thị trường,... Thường khi mục tiêu tồn tại của doanh nghiệp trong điều kiện tối thiểu nhất là các hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp phải tạo ra thu nhập từ buôn bán với nước ngoài, đủ bù đắp chi phí và có chút lãi còn nếu không là phải có lãi và tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Điều này là một tất yếu khách quan buộc các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu phaỉ nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Cũng cần phải nói thêm rằng, đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp cấn xem xét toàn diện về không gian và thời gian nhất là trong giai đoạn hiện nay với đường lối chính sách mở cửa nền kinh tế đất nước, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Về mặt thời gian, hiệu quả mà doanh nghiệp đật được trong từng thời kỳ, từng giai đoạn không được làm giảm sút hiệu quả kinh doanh của các giai đoạn tiếp theo. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp không được vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài; không phả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc911.doc
Tài liệu liên quan