Chuyên đề Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty thương mại vận tải Trường Giang

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào, vốn đều được xem là yếu tố không thể thiếu, không có vốn thì không hoạt động kinh doanh được, khi có vốn rồi thì điều đầu tiên mà doanh nghiệp phải đối phó là làm thế nào để có được lợi nhuận, sử dụng như thế nào để đồng vốn có hiệu quả, đây mới là sự quan tâm lớn nhất của các doanh nghiệp.

Đối với một nền kinh tế mới vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá như nước ta hiện nay, việc sử dụng vốn là mối quan tâm của các nhà lãnh đạo và của các doanh nghiệp. Do đó, đi tìm lời giải về việc sử dụng vốn hay nói cách khác là các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là vấn đề mang tính thời sự và thiết thực đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.

Là một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực thương mại vận tải, Công ty Thương mại vận tải Trường Giang đương nhiên không nằm ngoài xu thế này. Trong quá trình thực tập tại Công ty Thương mại vân tải Trường Giang, được sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của thầy giao hướng dẫn cũng như các cán bộ trong Công ty, em đã bước đầu được làm quen với thực tế, nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, vận dụng lý luận vào thực tiễn và từ thực tiễn làm sáng tỏ hơn những lý luận được nghiên cứu trong nhà trường. Qua đó, em đã chú trọng đi sâu nghiên cứu đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Thương mại vận tải Trường Giang” – một trong những vấn đề, mà theo em, có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường quốc tế.

Chuyên đề tốt nghiệp gồm ba chương:

Chương I: Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty thương mại vận tải Trường Giang.

Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty thương mại vận tải Trường Giang.

 

 

doc56 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1053 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty thương mại vận tải Trường Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào, vốn đều được xem là yếu tố không thể thiếu, không có vốn thì không hoạt động kinh doanh được, khi có vốn rồi thì điều đầu tiên mà doanh nghiệp phải đối phó là làm thế nào để có được lợi nhuận, sử dụng như thế nào để đồng vốn có hiệu quả, đây mới là sự quan tâm lớn nhất của các doanh nghiệp. Đối với một nền kinh tế mới vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá như nước ta hiện nay, việc sử dụng vốn là mối quan tâm của các nhà lãnh đạo và của các doanh nghiệp. Do đó, đi tìm lời giải về việc sử dụng vốn hay nói cách khác là các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là vấn đề mang tính thời sự và thiết thực đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Là một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực thương mại vận tải, Công ty Thương mại vận tải Trường Giang đương nhiên không nằm ngoài xu thế này. Trong quá trình thực tập tại Công ty Thương mại vân tải Trường Giang, được sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của thầy giao hướng dẫn cũng như các cán bộ trong Công ty, em đã bước đầu được làm quen với thực tế, nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, vận dụng lý luận vào thực tiễn và từ thực tiễn làm sáng tỏ hơn những lý luận được nghiên cứu trong nhà trường. Qua đó, em đã chú trọng đi sâu nghiên cứu đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Thương mại vận tải Trường Giang” – một trong những vấn đề, mà theo em, có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường quốc tế. Chuyên đề tốt nghiệp gồm ba chương: Chương I: Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty thương mại vận tải Trường Giang. Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty thương mại vận tải Trường Giang. Chương I: hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1.1.Vốn của doanh nghiệp 1.1.1.Vai trò của vốn trong doanh nghiệp Khái niệm về vốn trong doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh đều với mục đích là sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ để trao đổi với các đơn vị kinh tế khác nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng để tiến hành sản xuất kinh doanh thì cần thiết phải có vốn. Vậy vốn là gì ? Từ trước đến nay, có rất nhiều khái niệm về vốn, và mỗi khái niệm đều có những ưu điểm khác nhau, tuỳ điều kiện, mục đích nghiên cứu mà người ta có thể tiếp cận vốn dưới góc độ nào. Theo các nhà kinh tế học cổ điển tiếp cận vốn dưới góc độ hiện vật, vốn là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là cách hiểu phù hợp với trình độ quản trị còn sơ khai, nó rất đơn giản, dễ hiểu nhưng chưa đầy đủ và chưa phản ánh hết mặt tài chính của vốn. Theo quan điểm của Mác dưới góc độ các yếu tố sản xuất, vốn (tư bản) là giá mang lại từ giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa của Mác có tầm khái quát lớn, tuy nhiên trong bối cảnh lúc đó khi mà nền kinh tế chưa phát triển, Mác quan niệm chỉ có khu vực sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Và tiền chỉ được gọi là vốn khi được dùng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với mục đích là lợi nhuận. Quan điểm này đã chỉ rõ mục tiêu của quản trị và sử dụng vốn, nhưng quan điểm này lại mang tính trừu tượng, do đó hạn chế ý nghĩa nhất là đối với các vấn đề như hạch toán, phân tích tình hình quản trị và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Theo Paul-Sammelson, nhà kinh tế học theo trường phái tân cổ điển đã kế thừa quan niệm về các yếu tố sản xuất của trường phái cổ điển và chia yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất ra làm ba loại :đất đai, lao động và vốn. Theo ông, vốn là hàng hóa được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Khái niệm này không đề cập đến các loại tài sản khác, các giấy tờ có giá trị có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Do đó cũng không phản ánh đầy đủ mặt tài chính của vốn. Theo một số nhà tài chính thì vốn là tổng số tiền do những người có cổ phần trong công ty đóng góp và họ nhận được phần thu nhập chi cho các chững khoán của công ty. Quan điểm này đã đề cập đến mặt tài chính của vốn, khuyến khích các nhà đầu tư tăng cường đầu tư, mở rộng và phát triển sản xuất. Song nó có hạn chế là không nói rõ nội dung và trạng thái của vốn trong quá trình phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiểu theo nghĩa rộng, một số quan điểm lại cho rằng vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí để sản xuất hàng hoá, dịch vụ như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các kiến thức về kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp được tích luỹ, sự khéo léo về trình độ quản trị và tác nghiệp của cán bộ điều hành cùng chất lượng đội ngũ công nhân viên trong doanh nghiệp, các lợi thế về cạnh tranh như vị trí, uy tín của doanh nghiệp trên thương trường... Quan điểm này có ý nghĩa rộng trong việc khai thác đầy đủ mọi hình thức của vốn trong nền kinh tế thị trường nhưng việc xác đình và quản trị vốn theo quan điểm này rất khó khăn, phức tạp nhất là khi trình độ quản trị chưa cao và hệ thống pháp luật chưa thực sự hợp lý và hoàn thiện như nước ta hiện nay. Cũng có quan điểm lại cho rằng: Vốn kinh doanh là giá trị của các tài sản hiện có của doanh nghiệp được biểu hiện bằng tìên, nhưng quan điểm này mới dừng lại ở mặt hình thái của vốn mà không phản ánh trạng thái, mục đích của vốn nên cũng không thuận lợi cho phân tích kinh tế . Như vậy , các quan điểm về vốn ở trên một mặt đã thể hiện được vai trò của vốn trong những điều kiện cụ thể với những yêu cầu, mục đích nghiên cứu cụ thể. Nhưng mặt khác, trong cơ chế thị trường hiện nay, đứng trên góc độ hạch toán và quản trị, các quan điểm đó còn gây khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu của quản trị vốn hiệu quả. Có thể nói, vốn sản xuất kinh doanh là tiền đề cho mọi quá trình đầu tư và sản xuất kinh doanh ; là quỹ tiền tệ đặc biệt, là tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện tồn tại một nền sản xuất hàng hoá -tiền tệ, khái niệm về vốn sản xuất kinh doanh phải thể hiện những vấn đề sau : -Nguồn gốc sâu xa của vốn sản xuất kinh doanh là một bộ phận của thu nhập quốc dân được tái đầu tư (khác vốn đất đai, vốn nhân lực ). -Trạng thái vốn tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh là tài sản vật chất ( tài sản cố định, tài sản dự trữ) và tài sản tài chính (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các chứng khoán, tín phiếu...) là cơ sở đề ra biện pháp quản trị vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách hiệu quả . -Mối quan hệ mật thiết giữa vốn và các nhân tố khác trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ( đất đai, lao động).Điều này đòi hỏi các nhà quản trị phải sử dụng tiết kiệm , hợp lý và hiệu qủa vốn. -Mục đích của quá trình đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận. Vấn đề này sẽ định hướng cho quá trình quản trị kinh doanh nói chung và quản trị vốn nói riêng. Từ các vấn đề trên, có thể định nghĩa: Vốn là một phần thu nhập quốc dân dưới dạng tài sản vật chất hay tài sản tài chính được các cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp bỏ ra, đẩu tư phục vụ sản xuất kinh doanh nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Vai trò của vốn trong doanh nghiệp Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh với bất kỳ quy mô nào cũng cần có một lượng vốn nhất định, nó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định (lượng vốn tối thiểu mà pháp luật quy định cho từng loại doanh nghiệp) khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập. Ngược lại, việc thành lập doanh nghiệp không thể thành lập được. Trường hợp trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không đạt điều kiện mà pháp luật quy định, doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố chấm dứt hoạt động như phá sản, giải thể, sát nhập… Như vậy vốn có thể được xem là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp. Vón không những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ để phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất diễn ra thường xuyên liên tục. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Điều này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp không ngừng phải cải thiện máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hoá công nghệ… tất cả những yếu tố này muốn đạt được thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn. Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh, vốn của doanh nghiệp phải được sinh lời tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi, đảm bảo vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng phạm vi sản xuất, thâm nhập vào thị trường tiềm năng từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy thì doanh nghiệp mới có thể sử dụng vốn tiết kiệm có hiệu quả hơn và luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 1.1.2.Các loại vốn trong doanh nghiệp 1.1.2.1. Phân loại vốn theo nguồn gốc Vốn chủ sở hữu Là vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp mà doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Vốn chủ sở hữu do chủ doanh nghiệp và các nhà đầu tư tự góp vốn hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh, do đó vốn chủ sở hữu không phải là một khoản nợ. Tuỳ loại hình doanh nghiệp mà một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủ sở hữu vốn: Đối với doanh nghiệp nhà nước nguồn vốn hoạt động do Nhà nươc cấp hoặc đầu tư lên Nhà nước là chủ sở hữu vốn. Đối với các doanh nghiệp liên doanh, liên kết chủ sở hữu vốn là các thành viên tham ga góp vốn hoặc các cá nhân tham gia hùn vốn. Đối với các công ty cổ phần thì chủ sở hữu vốn là các cổ đông. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu vốn là các cá nhân hoặc một hộ gia đình. Vốn chủ sở hữu bao gồm Vốn góp do các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng để thành lập hoặc mở rộng kinh doanh và được sử dụng vào mục đích kinh doanh. Số vốn này có thể được bổ sung, tăng thêm hoặc rút bớt trong quá trình kinh doanh. Lợi nhuận chưa phân phối (lãi lưu giữ): đây là kết quả của toàn bộ hoạt động kinh doanh. Số lợi nhuận này trong khi chưa phân phối được sử dụng cho kinh doanh và coi như một nguồn vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu khác: là số vốn chủ sở hữu có nguồn gốc từ lợi nhuận để lại ( các quỹ doanh nghiệp, các khoản dự trữ theo điều lệ, dự trữ theo luật định…) hoặc các loại vốn khác (xây dựng cơ bản, chênh lệch đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá hối đoái, nguồn kinh phí…) Vốn nợ Vốn nợ là khoản vốn đầu tư ngoài vốn chủ sở hữu được hình thành từ nguồn vốn đi vay, đi chiếm dụng của các cá nhân, đơn vị tổ chức trong và ngoài nước và sau một thời gian nhất định,doanh nghiệp phải trả cho người cho vay cả gốc lẫn lãi.Phần vốn này,doanh nghiệp được sử dụng với những điều kiện nhất định(Như thời hạn sử dụng,lãi suất,thế chấp,..)nhưng không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Vốn nợ luôn được ưu tiên chi trả trước vốn chủ sở hưũ trong bất cứ hoàn cảnh nào đặc biệt doanh nghiệp khó khăn về tài chính. Doanh nghiệp càng sử dụng vốn vay càng nhiều thì độ rủi ro càng cao nhưng để phục vụ sản xuất kinh doanh thì đây là nguồn vốn rất lớn tùy thuộc vào khả năng thế chấp, tình hình sản xuất kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp. Vốn nợ của doanh nghiệp gồm hai loại: Nợ ngắn hạn: là khoản tiền mà doanh nghiệp có trách nhiệm trả trong vòng một chu kì hoạt động kinh doanh bình thường hoặc trong vòng một năm. Các khoản nợ này được trang trải bằng tài sản lưu động hoặc bằng các khoản nợ ngắn hạn phát sinh. Nợ ngắn hạn bao gồm: vay ngắn hạn, thương phiếu phải trả, tiền phải trả cho người bán, người nhận thầu, thuế và các khoản phải nộp ngân sách, lương, phụ cấp phải trả cho công nhân viên, các khoản nhận kí quỹ, kí cược ngắn hạn và các khoản phải trả ngắn hạn khác. Nợ dài hạn: là các khoản nợ mà thời gian trả nợ trên một năm, bao gồm: Vay dài hạn cho đầu tư phá triển, nợ thế chấp phải trả, thương phiếu dài hạn, trái phiếu phải trả, các khoản nhận kí cược, kí quỹ dài hạn, các khoản phải trả dài hạn khác. Thông thường, một doanh nghiệp đều nên phối hợp cả hai nguồn vốn trên để đảm bảo nhu cầu vốn của doanh nghiệp cũng như bảo đảm nguyên tắc phân tán rủi ro trong đầu tư. Kết cấu hợp lý của hai nguồn vốn này tuỳ thuộc đặc điểm ngành doanh nghiệp đang hoạt động, quyết định của nhà quản trị doanh nghiệp trên cơ sở xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp và tình hình chung của nền kinh tế đất nước. 1.1.2.2. Phân loại vốn theo đặc điểm luân chuyển vốn Vốn cố định VCĐ của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư, ứng trước về TSCĐ, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng. Quy mô của VCĐ quyết định quy mô của TSCĐ nhưng các đặc điểm của TSCĐ lại ảnh hưởng tới sự vận động và công tác quản trị VCĐ. Vì vậy, muốn quản trị VCĐ hiệu quả thì phải quản trị , sử dụng hiệu quả. TSCĐ. Từ mối quan hệ này, ta có thể khái quát những nét đặc thù của VCĐ như sau: -VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh do TSCĐ có thể phát huy trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nên VCĐ-hình thái biểu hiện của nó cũng được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh tương ứng. -VCĐ được luân chuyển dần từng phần khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật ban đầu nhưng tính năng và công suất của nó bị giảm dần và kéo theo giá trị tài sản đó cũng bị giảm đi. Theo đó, VCĐ cũng được tách làm hai phần: +Một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức khấu hao TSCĐ. Tức là trong quá trình sử dụng và bảo quản, TSCĐ bị hao mòn. Bộ phận giá trị của TSCĐ tương ứng với mức hao mòn mà nó được chuyển dịch dần dần vào giá trị sản phẩm, gọi là khấu hao TSCĐ. + Phần còn lại của VCĐ được “cố định” trong TSCĐ. Việc quản trị VCĐ và TSCĐ trên thực tế là một công việc rất phức tạp. Để giảm nhẹ khối lượng quản trị, về kế toán tài chính người ta có những quy định thống nhất về tiêu chuẩn giới hạn về giá trị và thời gian sử dụng một TSCĐ. Hiện nay, ở nước ta một tư liệu lao động là TSCĐ phải đồng thời thoả mãn hai điều kiện: Giá trị tối thiểu từ 10 triệu đồng Việt nam và thời hạn sử dụng ít nhất là 1 năm. Để quản trị VCĐ hiệu quả, cần nghiên cứu kết cấu và phân loại VCĐ. * Cơ cấu của vốn cố định Là tỷ trọng của từng loại VCĐ so với tổng toàn bộ VCĐ của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ lệ trong cơ cấu vốn là một chỉ tiêu động mang tính biện chứng và phụ thuộc nhiều nhân tố như: khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, khả năng thu hút vốn đầu tư, phương hướng mục tiêu sản xuất kinh doanh, trình độ trang bị kỹ thuật, quy mô sản xuất. Việc nghiên cứu cơ cấu vốn cố định có ý nghĩa quan trọng trong việc huy động và sử dụng vốn. Khi nghiên cứu vốn cố định phải nghiên cứu trên hai góc độ là: nội dung kế hoạch và quan hệ mỗi bộ phận so với toàn bộ. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng được một cơ cấu hợp lý phù hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp và với trình độ phát triển khoa học-kỹ thuật. * Phân loại vốn cố định Có nhiều cách phân loại TSCĐ: + Căn cứ và hình thái bíểu hiện TSCĐ hữu hình: Là TSCĐ có hình thái vật chất. TSCĐ vô hình:Là TSCĐ không có hình thái vật chất. + Căn cứ theo tình hình sử dụng: TSCĐ đang sử dụng TSCĐ chưa sử dụng TSCĐ không cần dùng TSCĐ chờ thanh lý + Căn cứ theo công dụng kinh tế TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh doanh + Căn cứ theo quyền sở hữu TSCĐ doanh nghiệp tự có TSCĐ doanh nghiệp thuê ngoài TSCĐ doanh nghiệp bảo quản, giữ hộ cho đơn vị khác Vốn lưu động: VLĐ của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của TSLĐ và vốn lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp tiến hành thường xuyên, liên tục. Khác với VCĐ, VLĐ chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất. Trong quá trình sản xuất kinh doanh VLĐ được luân chuyển không ngừng qua ba giai đoạn: dự trữ, sản xuất và tiêu thụ. VLĐ chu chuyển nhanh hơn VCĐ. Trong mỗi giai đoạn đó VLĐ được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau, có thể là hình thái hiện vật hay hình thái giá trị. Có thể thấy rằng VLĐ là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì việc tổ chức sử dụng vốn sẽ gặp nhiểu khó khăn và do đó quá trình sản xuất cũng bị trở ngại hay gián đoạn. Để quản trị VLĐ tốt, cần nghiên cứu kết cấu và phân loại VLĐ. * Cơ cấu vốn lưu động Là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần vốn lưu động chiếm trong tổng số VLĐ. ở những doanh nghiệp khác nhau, kết cấu vốn lưu động không giống nhau. Xác định được cơ cấu VLĐ hợp lý sẽ góp phần sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả VLĐ. Để quản lý và sử dụng có hiệu quả VLĐ thì cần thiết phảI tiến hành phân loại vốn khác nhau. *Phân loại VLĐ +Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn lưu động người ta chia vốn là ba loại: Vốn dự trữ: Là một bộ phận dùng để mua nguyên liệu, phụ tùng thay thế.... dự trữ và đưa vào sản xuất. Vốn trong sản xuất: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản xuất. Vốn trong lưu thông: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu thông như thành phẩm, vốn tiền mặt... + Căn cứ vào phương pháp xác định vốn người ta chia vốn thành: VLĐ định mưc: là số VLĐ cần thiết tối thiểu thường xuyên trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm: vốn dự trữ, vốn trong sản xuất và thành phẩm, hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm, vật tư thuê ngoài chế biến. VLĐ không định mức: là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh nhưng không có căn cứ để tính định mức được. + Căn cứ và nguồn hình thành: VLĐ tự có: là số vốn doanh nghiệp được Nhà nước cấp, VLĐ từ bổ sung lợi nhuận, các khoản phải trả nhưng chưa đến kỳ hạn... VLĐ đi vay: đây là nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu về VLĐ thường xuyên cần thiết trong kinh doanh. Có thể vay vốn ngân hàng, các tổ chức tín dụng hoặc có thể vay vốn của các đơn vị, tổ chức và các cá nhân khác trong và ngoài nước. Mỗi doanh nghiệp cần xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý. Sự khác nhau cơ bản giữa VCĐ và VLĐ là : nếu như VCĐ tham gia vào quá trình sản xuất như tư liệu lao động thì VLĐ là đối tượng lao động. Nếu như VLĐ tạo ra thực thể của sản phẩm hàng hoá thì VCĐ là phương thức để dịch chuyển VLĐ thành sản phẩm hàng hoá. Mặt khác nếu như VLĐ được kết chuyển một lần vào giá trị của sản phẩm hàng hoá và thu hồi được ngay sau khi doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá còn VCĐ tham gia nhiều vào quá trình sản xuất kinh doanh và kết chuyển và giá trị sản phẩm hàng hoá dưới hình thức khấu hao. 1.2.Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp 1.2.1.Quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn Mặc dù có rất nhiều các quan điểm khác nhau về vấn đề hiệu quả song có thể khẳng định trong nền kinh tế thị trường hiệu quả là công cụ để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh đều có mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Hiệu quả là một phạm trù được sử dụng rất rộng rãi trong cả lĩnh vực kinh tế xã hội và kỹ thuật . Song ở đây chúng ta chỉ xem xét hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh ( hiệu quả kinh doanh ). Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực(lao động, thíêt bị, máy móc, nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn) để đạt mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Vì vậy có thể mô tả bằng công thức: + Hiệu quả kinh doanh: H = K/C Trong đó : K:Là kết quả đạt được C:hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả. Như vậy, hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong sự vận động không ngừng của các quá trình sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào qui mô, tốc độ biến động của từng nhân tố. Hiệu quả kinh doanh cũng là một phạm trù phức tạp, và khó xác định tính toán bởi cả phạm trù kết qủa và hao phí nguồn lực gắn với một thời kỳ cụ thể đều khó xác định một cách chính xác. Từ các vấn đề trên suy ra hiệu quả sử dụng vốn là một bộ phận của hiệu quả kinh doanh, nó phản ánh trình độ lợi dụng nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm mục tiêu xác định. Hiệu quả sử dụng vốn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn phản ánh mối quan hệ so sánh giữa kết quả thu được với số vốn bình quân đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất đinh. Và hai loại chỉ tiêu trên được xem xét với yếu tố đầu vào là vốn cố định và vốn lưu động. * Bản chất hiệu quả sử dụng vốn Để hiểu rõ bản chất của hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng, cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù kết quả và hiệu quả sử dụng vốn. Kết quả sử dụng vốn bao giờ cũng là mục tiêu mà doanh nghiệp hướng tới, có thể biểu hiện bằng đơn vị hiện vật cụ thể như m, lít, kg....hay đơn vị giá trị như triệu đồng, ngoại tệ....Kết quả sử dụng vốn cũng có thể phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh hoàn toàn định tính của doanh nghiệp như uy tín, danh tiếng, chất lượng sản phẩm....Nhưng không chỉ có kết quả định tính mà kết quả định lượng của một thời kỳ kinh doanh nào đó thường là rất khó xác định bởi nhiều lý do như kết quả không chỉ là sản phẩm hoàn chỉnh mà còn là sản phẩm dở dang, bán thành phẩm ,.... Hơn nữa, hầu như quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lại tách rời quá trình tiêu thụ nên ngay cả sản phẩm sản xuất xong ở một thời kỳ nào đó cũng chưa thể khẳng định được liệu sản phẩm đó có tiêu thụ được không và bao giờ thì tiêu thụ và thu được tiền về... nên nó cũng lại tách rời quá trình tiêu thụ. Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực vốn. Trình độ lợi dụng nguồn lực vốn không thể đo bằng các đơn vị hiện vật hay giá trị mà là một phạm trù tương đối, chỉ có thể được phản ánh bằng số tương đối: tỷ số giữa kết quả và hao phí nguồn lực vốn tạo ra kết quả đó. Cũng cần tránh nhầm lẫn giữa phạm trù hiệu quả với phạm trù mô tả sự chênh lệch giữa kết quả và vốn. Chênh lệch giữa kết quả và vốn luôn là số tuyệt đối, phạm trù này phản ánh mức độ đạt được của vốn nên cũng mang bản chất kết quả của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh và không bao giờ phản ánh trình độ lợi dụng nguồn lực vốn. Nếu kết quả là mục tiêu của quá trình sản xuất kinh doanh thì hiệu quả sử dụng vốn là phương tiện để doanh nghiệp có thể đạt được mục tiêu đó. Mặt khác, hao phí nguồn lực vốn của một thời kỳ trước hết là hao phí về mặt hiện vật, cũng có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật hay đơn vị giá trị. Tuy nhiên, thông thường người ta hay xác định bằng đơn vị giá trị vì nó mang tính so sánh cao hơn. Việc xác định hao phí nguồn lực trong một thời kỳ là một vấn đề không đơn giản, không đơn giản ngay ở sự nhận thức về vấn đề này: Hao phí nguồn lức vốn này được đánh gía thông qua phạm trù chi phí kế toán hay chi phí sản xuất kinh doanh? Chỉ có phạm trù chi phí sản xuất kinh doanh mới phản ánh tương đối đầy đủ chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã bỏ ra. Nhưng việc có tính toán được chi phí kinh doanh trong từng thời kỳ kinh doanh ngắn hay không cũng như có tính toán được chi phí kinh doanh tới từng bộ phận hay không còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học quản trị chi phí kinh doanh. Cũng cần chú ý rằng hiệu quả sử dụng vốn phản ánh trình độ lợi dụng nguồn lực vốn trong một thời kỳ kinh doanh nào đó cũng hoàn toàn khác với việc so sánh sự tăng lên của kết quả với sự tăng lên của sự tham gia các yếu tố đầu vào. Vậy, bản chất của pham trù kết quả và hiệu quả sử dụng vốn là hoàn toàn khác nhau. Kết quả là mục tiêu còn hiệu quả sử dụng vốn là phương tiện để doanh nghiệp đạt mục tiêu đó trong một thời kỳ nhất đinh. *Mục đích phân tích hiệu quả sử dụng vốn Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhằm mục đích thông tin giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có các quyết định đúng đắn, kịp thời . Xác lập được một cơ cấu vốn hợp lý Giúp cho các nhà quản trị đánh giá được tình hình thực tế về vấn đề sử dụng vốn. Từ đó tìm ra những mặt yếu kém, chưa có hiệu quả cụ thể đến từng bộ phận và xem xét,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc110793.doc
Tài liệu liên quan