Chuyên đề Nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên

Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Hiện nay, đất nước ta đang trên con đường đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm đưa Việt Nam trở thành một nước có nền kinh tế phát triển cùng hội nhập với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, trong xu thế quốc tế hoá thời đại mới. Nhất là trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, là một trong những nước có nền kinh tế tăng trưởng cao. Đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy cần phải có những điều kiện cần và đủ thúc đẩy nền kinh tế đất nước hàng năm luôn được phát triển tăng trưởng một cách vững chắc. Một trong những điều kiện cần thiết ấy chúng ta cần phải kể đến đó là nguồn vốn. Có thể nói nguồn vốn là nguồn lực chính cần thiết và cơ bản là điều kiện tiền đề để đáp ứng sự phát triển đó, không ai khác các NHTM là các chủ thể chính quan trọng nhất đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do tính đặc thù trong hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng là đi vay rồi lại cho vay lợi nhuận thu được là phần chênh lệch giữa thu lãi cho vay và thu từ các dịch vụ khác, hay nói cách khác, lợi nhuận thu được do sự chênh lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào. Để NHTM hoạt động có hiệu quả thiết thực thì chi phí đầu vào phải thấp hơn so với lãi suất đầu ra.

Hơn thế nữa, hoạt động của NHTM còn có vai trò quan trọng, là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua cung ứng tiền tệ và các chính sách khác.

Là một sinh viên chuyên ngành ngân hàng tài chính, nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống các NHTM nói chung và vai trò của nguồn vốn nói riêng. Em xin mạnh dạn trình bày một số hiểu biết của em về nguồn vốn qua chuyên đề “Nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên”

Do phạm vi nghiên cứu chỉ bao gồm nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn của Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo mà chủ yếu là hoạt động trên địa bàn đơn vị phụ trách nên em không có nhiều tham vọng mà chỉ tập trung vào giải quyết các câu hỏi đặt ra đó là : Thực trạng nguồn vốn và huy động nguồn vốn tại ngân hàng huyện nhà hiện nay ra sao?, đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của huyện nhà hay chưa?, những thuận lợi và khó khăn trong công tác phát triển nguồn vốn?, những giải pháp dự định trong tương lai ít nhất là trong một vài năm tới để khắc phục những khó khăn và phát huy thế mạnh trên địa bàn để làm tối đa lợi nhuận cho ngân hàng đồng thời thúc đẩy nền kinh tế huyện nhà phát triển?

Phương pháp nghiên cứu là từ lý thuyết đã được học áp dụng vào thực tế, bổ sung lẫn nhau, kết hợp các số liệu thực tế tại ngân hàng để phục vụ cho chuyên đề.

Kết cấu của chuyên đề bao gồm:

LỜI MỞ ĐẦU

CHƯƠNG I: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN TUẦN GIÁO -TỈNH ĐIỆN BIÊN

KẾT LUẬN

 

 

doc62 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 871 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời mở đầu Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Hiện nay, đất nước ta đang trên con đường đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm đưa Việt Nam trở thành một nước có nền kinh tế phát triển cùng hội nhập với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, trong xu thế quốc tế hoá thời đại mới. Nhất là trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ, là một trong những nước có nền kinh tế tăng trưởng cao. Đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy cần phải có những điều kiện cần và đủ thúc đẩy nền kinh tế đất nước hàng năm luôn được phát triển tăng trưởng một cách vững chắc. Một trong những điều kiện cần thiết ấy chúng ta cần phải kể đến đó là nguồn vốn. Có thể nói nguồn vốn là nguồn lực chính cần thiết và cơ bản là điều kiện tiền đề để đáp ứng sự phát triển đó, không ai khác các NHTM là các chủ thể chính quan trọng nhất đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do tính đặc thù trong hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng là đi vay rồi lại cho vay lợi nhuận thu được là phần chênh lệch giữa thu lãi cho vay và thu từ các dịch vụ khác, hay nói cách khác, lợi nhuận thu được do sự chênh lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào. Để NHTM hoạt động có hiệu quả thiết thực thì chi phí đầu vào phải thấp hơn so với lãi suất đầu ra. Hơn thế nữa, hoạt động của NHTM còn có vai trò quan trọng, là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua cung ứng tiền tệ và các chính sách khác. Là một sinh viên chuyên ngành ngân hàng tài chính, nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống các NHTM nói chung và vai trò của nguồn vốn nói riêng. Em xin mạnh dạn trình bày một số hiểu biết của em về nguồn vốn qua chuyên đề “Nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên” Do phạm vi nghiên cứu chỉ bao gồm nguồn vốn và giải pháp phát triển hoạt động huy động nguồn vốn của Ngân hàng nông nghiệp & phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo mà chủ yếu là hoạt động trên địa bàn đơn vị phụ trách nên em không có nhiều tham vọng mà chỉ tập trung vào giải quyết các câu hỏi đặt ra đó là : Thực trạng nguồn vốn và huy động nguồn vốn tại ngân hàng huyện nhà hiện nay ra sao?, đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của huyện nhà hay chưa?, những thuận lợi và khó khăn trong công tác phát triển nguồn vốn?, những giải pháp dự định trong tương lai ít nhất là trong một vài năm tới để khắc phục những khó khăn và phát huy thế mạnh trên địa bàn để làm tối đa lợi nhuận cho ngân hàng đồng thời thúc đẩy nền kinh tế huyện nhà phát triển? Phương pháp nghiên cứu là từ lý thuyết đã được học áp dụng vào thực tế, bổ sung lẫn nhau, kết hợp các số liệu thực tế tại ngân hàng để phục vụ cho chuyên đề. Kết cấu của chuyên đề bao gồm: Lời mở đầu Chương I: Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Chương II: Thực trạng hoạt động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp & Phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo - tỉnh Điện Biên Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp & Phát triển nông thôn huyện Tuần Giáo -tỉnh Điện Biên Kết luận I hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường: Khái niệm: Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận thông qua các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu. Khái niệm về ngân hàng thương mại đang dần thay đổi vì sự pha trộn các hoạt động truyền thống của ngân hàng và các loaị hình trung gian tài chính khác. Các loại hình ngân hàng thương mại: Có thể phân chia ngân hàng theo các tiêu thức khác nhau tuỳ theo yêu cầu của người quản lý. (1) Các loại hình ngân hàng chia theo hình thức sở hữu: + Ngân hàng sở hữu tư nhân: Là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn của cá nhân. Loại ngân hàng này thường nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa phương( các ngân hàng này thường gắn liền với doanh nghiệp và cá nhân ở địa phương). Chủ ngân hàng thường rất am hiểu tình hình của người vay, vì vậy hạn chế được sự lừa đảo của khách. Tuy nhiên, do kém đa dạng, nên khi địa phương đó gặp rủi ro( ví dụ như thiên tai, mất mùa...) ngân hàng thường không tránh khỏi được tổn thất. + Ngân hàng sở hữu của các cổ đông( ngân hàng cổ phần): Ngân hàng này thường thành lập thông qua phát hành các cổ phiếu. Việc nắm giữ cổ phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định các hoạt động của ngân hàng, tham gia chia cổ tức từ thu nhập của ngân hàng đồng thời phải gánh chịu các tổn thất có thể xảy ra. Do vốn sở hữu được hình thành thông qua tập trung, các ngân hàng cổ phần có khả năng tăng vốn nhanh chóng, vì vậy thường là các ngân hàng lớn. Các tổ hợp ngân hàng lớn nhất hiện nay trên thế giới là các ngân hàng cổ phần. Các ngân hàng cổ phần thường có phạm vi hoạt động rộng, hoạt động đa năng, có nhiều chi nhánh hoặc công ty con. Khả năng đa dạng hoá cao nên các ngân hàng cổ phần có thể giảm rủi ro gây nên bởi tính chuyên môn hoá( thiên tai của một vùng, sự suy thoái của một ngành hoặc của một quốc gia...), song chúng thường phải gánh chịu rủi ro từ cơ chế quản lý phân quyền(nhiều chi nhánh được phân quyền lớn và hoạt động tương đối độc lập với trụ sở ngân hàng mẹ giám đốc chi nhánh này có thể gây bất cẩn và rủi ro xảy ra..) + Ngân hàng sở hữu nhà nước: Đây là loại hình ngân hàng mà vốn sở hữu do nhà nước cấp, có thể là nhà nước trung ương hoặc tỉnh, thành phố. Các ngân hàng này được thành lập nhằm thực hiện một số mục tiêu nhất định thường là do chính sách của chính quyền trung ương hoặc địa phương quy định. + Ngân hàng liên doanh: Ngân hàng này được hình thành dựa trên góp vốn của hai hoặc nhiều bên, thường là giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài để tận dụng ưu thế của nhau. (2) Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo tính chất hoạt động: + Tính chất đơn năng: Ngân hoạt động theo hướng đơn năng: Loại ngân hàng này chỉ tập trung cung cấp một số dịch vụ ngân hàng, ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối với nông nghiệp; hoặc chỉ cho vay ( không bảo lãnh hoặc cho thuê)... Tính chuyên môn hoá cao cho phép ngân hàng có được đội ngũ giàu kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ. Tuy nhiên loại ngân hàng này thường gặp rủi ro lớn khi ngành hoặc lĩnh vực mà ngân hàng phục vụ sa sút. Ngân hàng đơn năng có thể là ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, trình độ cán bộ hạn hẹp.. + Tính chất đa năng: Là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng. Đây là xu hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng đa năng thường là các ngân hàng lớn. Tính đa năng giúp các ngân hàng tăng thu nhập và hạn chế rủi ro. (3) Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo cơ cấu tổ chức: + Ngân hàng sở hữu công ty và ngân hàng không sở hữu công ty: Ngân hàng sở hữu công ty là ngân hàng nắm giữ phần lớn vốn của công ty, cho phép ngân hàng được quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của công ty. Do luật nhiều nước cấm hoặc hạn chế các ngân hàng thương mại tham gia trực tiếp vào một số loại hình kinh doanh như chứng khoán bất động sản...nên các ngân hàng lớn đã thành lập, hoặc mua lại một số công ty chứng khoán, quỹ đầu tư... nhằm mở rộng hoạt động. Các ngân hàng không sở hữu công ty có thể do vốn nhỏ, hoặc quy định của luật không cho phép, hoặc không bị cấm trong việc đưa ra các dịch vụ tài chính. + Ngân hàng đơn nhất và ngân hàng có chi nhánh: Ngân hàng đơn nhất được hiểu là ngân hàng không có chi nhánh tức là các dịch vụ ngân hàng chỉ do một hội sở ngân hàng cung cấp. Ngân hàng có chi nhánh thường là ngân hàng có vốn tương đối lớn, cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua nhiều đơn vị ngân hàng. Việc thành lập chi nhánh thường bị kiểm soát chặt chẽ bởi ngân hàng nhà nước thông qua định mức về vốn chủ sở hữu, về chuyên môn của đội ngũ cán bộ, về sự cần thiết của đội ngũ cán bộ... Chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường: (1) Trung gian tài chính: Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiền tiết kiệm đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: + Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn + Các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ hai sang nhóm thứ nhất nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc là quan hệ hùn vốn. Quan hệ tín dụng trực tiếp đã có từ rất lâu và tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian... Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá, trung gian tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch. Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn các khoản tín dụng và chứng khoán không thể chia thành những khoản nhỏ mà mọi người đều có thể mua. Ngân hàng cung cấp một dịch vụ có giá trị trong việc mua chứng khoán đó thành chứng khoán có giá trị nhỏ hơn(dưới dạng tiền gửi) phục vụ cho hàng triệu người. Trong ví dụ này, hệ thống tài chính kém hoàn hảo tạo ra vai trò cho các ngân hàng trong việc phục vụ những người tiết kiệm. Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng. Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là “tình trạng thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn các công cụ với các yếu tổ rủi ro- lợi nhuận thấp nhất. (2) Tạo phương tiện thanh toán: Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy. Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất dẫn đến việc nhà nước tập trung quyền lực phát hành(in) vào một tổ chức hoặc là Bộ tài chinh hoặc là Ngân hàng trung ương. Từ đó chấm dứt việc các ngân hàng thương mại tạo ra các giấy bạc cho riêng mình. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Bộ phận thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông(Mo), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn... Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay(hay tạo tín dụng), các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán(tham gia tạo ra M1). Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu(tức làm tăng số dư tiền gưỉ) của một khách hàng khác tại một ngân hàng từ đó tạo ra khoản vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo khối lượng tiền gửi( tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay(tạo tín dụng). (3) Trung gian tín dụng: Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng Séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu,...cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng ở các quốc gia khác nhau với nhau. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại: a. Hoạt động huy động vốn: (1) Nhận tiền gửi: Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao , do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền .một trong nhưng nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng .Ngâng hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn.Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép nhân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh .Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi xuất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi xuất 16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung hải với lãi xuất gấp đôi hay gấp ba lãi xuất tiết kiệm. Như vậy , khi cung cấp dịch vụ nhận tiền gửi ngân hàng thu “phí” gián tiếp thông qua thu nhập của hoạt động sử dụng tiền gửi đó. Hiện nay, hoạt động nhận tiền gửi với các hình thức nhận tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn đang được áp dụng phổ biến rộng rãi. (2) Phát hành các giấy tờ có giá: Ngân hàng thương mại phát hành các giấy tờ có giá như Kỳ phiếu, Trái phiếu,…nhằm huy động vốn chủ yếu đáp ứng cho tài trợ các khoản cho vay trung và dài hạn. Đây là hoạt động mang lại nguồn vốn tương đối lớn cho các ngân hàng thương mại lớn có uy tín. Các ngân hàng nhỏ thì hình thức huy động vốn này thường không hiệu quả và thường sử dụng hình thức này thông qua các ngân hàng đại lý. (3) Hoạt động đi vay của Ngân hàng thương mại: Để huy động vốn, Ngân hàng thương mại có thể đi vay Ngân hàng nhà nước, các tổ chức tín dụng khác, các ngân hàng nước ngoài… Ngân hàng thương mại chỉ đi vay Ngân hàng nhà nước khi có chính sách tăng cung ứng tiền tệ hoặc trong những trường hợp đặc biệt bị thiếu vốn trong thanh toán. Còn vay các tổ chức tín dụng khác mà chủ yếu là các ngân hàng thương mại khác trên thị trường liên ngân hàng phần lớn chỉ đảm bảo yêu cầu dự trữ bắt buộc và thường là vay qua đêm. b. Hoạt động sử dụng vốn: Đây là hoạt động chủ yếu thứ hai sau hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại. - Mua bán ngoại tệ: Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên thực hiện đó là mua bán ngoại tệ: Mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. - Hoạt động cho vay: + Cho vay thương mại Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán(người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước ). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mở hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. + Cho vay tiêu dùng Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. + Tài trợ cho dự án Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn:Tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất. - Hoạt động chiết khấu(tái chiết khấu khi khách hàng mang đến giấy tờ có giá đã chiết khấu trước đây) giấy tờ có giá: Ngân hàng thương mại chiết khấu giấy tờ có giá(tái chiết khấu) khi khách hàng mang đến giấy tờ có giá như trái phiếu, …ngân hàng thu lợi nhuận thông qua lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu. - Hoạt động đầu tư chứng khoán: Ngân hàng thương mại đầu tư chứng khoán của Chính phủ, của các ngân hàng khác, của các Công ty, Doanh nghiệp… làm ăn hiệu quả, có uy tín chờ đến ngày đáo hạn hưởng lãi. Tuy nhiên hoạt động này tuỳ vào loại chứng khoán, loại chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán thì vốn đầu tư quay vòng nhanh, còn phần lớn chứng khoán đầu tư đều chờ đến ngày đáo hạn do vậy vốn đầu tư vào loại này thường lớn và sự biến động dường như là không có. - Hoạt động kinh doanh chứng khoán: Ngân hàng thương mại mua chứng khoán để kinh doanh, đặc điểm chung của loại hoạt động này là thường chiếm độ rủi ro lớn, cần lượng vốn lớn. Chứng khoán mua vào lại có thể bán ra ngay, nên vốn dự trù cho hoạt động này là tương đối lớn và quỹ dự phòng rủi ro cho nó là khá lớn. - Hoạt động góp vốn mua cổ phần: Ngân hàng thương mại góp vốn mua cổ phần có thể cao hơn hay thấp hơn giá thị trường. Họ hy vọng vào giá bán những cổ phần này sẽ đem lại lợi nhuận này. - Hoạt động góp vốn liên doanh: Ngân hàng thương mại góp vốn liên doanh liên kết với các ngân hàng khác, các đối tác làm ăn chủ yếu các hoạt động như đồng bảo lãnh, hoạt động đồng tài trợ… c. Các hoạt động khác: (1) Bảo quản hộ tài sản: Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các tờ giấy có giá và các tài sản khác cho khách hàng trong két(vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc nhưng giấy tờ quan trọng khác với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuật tiện. Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác nhu mua bán hộ các giấy tờ có giá cho khách, thanh toá lãi hoặc cổ tức hộ... (2) Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng, khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí )đã góp phần rút ngắn thời gian king doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân hàng được mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn. Điều này đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các thẻ thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L\C, đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng điện thẻ... (3) Quản lý ngân quĩ: Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý cho việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. (4) Tài trợ các hoạt động của chính phủ: Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính phủ dành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép hoạt động với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với một mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng thường mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được. (5) Bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của một ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác... (6) Cho thuê thiết bị trung và dài hạn( Leasing): Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua(do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn. (7) Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và Doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư... Thậm chí, các ngân hàng đóng vài trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập Doanh nghiệp. (8) Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến cho các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới. (9) Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức công ty bảo hiểm con, ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí... (10) Cung cấp các dịch vụ đại lý: Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng(thường là ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong hoạt động đồng tài trợ... Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại: Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại: (1) Vốn chủ sở hữu: Để bắt đầu hoạt động ngân hàng( được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại nguồn vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. + Nguồn vốn hình thành ban đầu: Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26.doc
Tài liệu liên quan