Chuyên đề Phân tích thống kê thực trạng và hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời kỳ 1992-2004

 

Nền kinh tế thế giới đang phát triển ở giai đoạn thứ ba, kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Giai đoạn này được mệnh danh là giai đoạn toàn cầu hoá, khu vực hoá với đặc trưng nổi bật là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI – Foreign Direct Investment ). FDI đang là làn sóng mở đường cho xu hướng phát triển kinh tế của thế giới, nhiều nền kinh tế trước đây đã từng đóng cửa thì nay thực sự đã mở rộng để đón chào các nhà đầu tư.

Đối với nước ta, FDI là một thành tố quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời nó cũng góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới của nước ta diễn ra một cách nhanh chóng thuận lợi hơn. Trong tình trạng đói vốn, khát công nghệ hiện nay của nước ta, công tác bức xúc là phải kêu gọi càng nhiều càng nhanh FDI ( Nguồn tài chính không phải nợ vay-Non debt sorce of finance ) càng tốt.

Hơn 13 năm qua, kể từ khi luật đầu tư nước ngoài ra đời tại Việt Nam (29/12/1987) tới nay, việc thực hiện chủ trương thu hút vốn FDI đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, hơn 3 năm trở lại đây, do ảnh hưởng nặng nề của cuộc tài chính xảy ra ở một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới, cộng mức độ cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực thu hút FDI của các nước láng giềng như Trung Quốc, Thái Lan FDI tại Việt Nam có phần chững lại, giảm thiểu cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Tình hình này đòi hỏi chúng ta phải có những tổng kết và đánh giá đúng đắn về FDI trong những năm qua, phân tích được những lợi thế và bất lợi của đất nước để nhanh chóng có những giải pháp đồng bộ toàn diện nhằm tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, có thể cạnh tranh với các nước trên khu vực.

Hơn nữa, một khi đã thu hút được FDI thì vấn đề là làm sao sử dụng FDI một cách có hiệu quả nhất, đảm bảo kết hợp một cách hài hoà hiệu quả tài chính (góc độ nhà đầu tư) và hiệu quả kinh tế xã hội (góc độ nền kinh tế xã hội). Có như vậy, Việt Nam mới ngày càng hấp dẫn các nhà đầu tư, đồng thời giảm thiểu chi phí mà xã hội phải gánh chịu nâng cao lợi ích kinh tế xã hội khi đầu tư. Với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc giải quyết các vấn đề trên, em đã chọn đề tài “ Phân tích thống kê thực trạng và hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời kỳ 1992-2004”.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp được chia làm ba phần chính:

Chương I: Những vấn đề về FDI và hiệu quả FDI.

Chương II: Hệ thống chỉ tiêu thống kê về FDI và hiệu quả FDI.

Chương III: Phân tích thống kê thực trạng và hiệu quả FDI.

 

doc68 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 964 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Phân tích thống kê thực trạng và hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời kỳ 1992-2004, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu N ền kinh tế thế giới đang phát triển ở giai đoạn thứ ba, kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Giai đoạn này được mệnh danh là giai đoạn toàn cầu hoá, khu vực hoá với đặc trưng nổi bật là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI – Foreign Direct Investment ). FDI đang là làn sóng mở đường cho xu hướng phát triển kinh tế của thế giới, nhiều nền kinh tế trước đây đã từng đóng cửa thì nay thực sự đã mở rộng để đón chào các nhà đầu tư. Đối với nước ta, FDI là một thành tố quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời nó cũng góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới của nước ta diễn ra một cách nhanh chóng thuận lợi hơn. Trong tình trạng đói vốn, khát công nghệ hiện nay của nước ta, công tác bức xúc là phải kêu gọi càng nhiều càng nhanh FDI ( Nguồn tài chính không phải nợ vay-Non debt sorce of finance ) càng tốt. Hơn 13 năm qua, kể từ khi luật đầu tư nước ngoài ra đời tại Việt Nam (29/12/1987) tới nay, việc thực hiện chủ trương thu hút vốn FDI đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, hơn 3 năm trở lại đây, do ảnh hưởng nặng nề của cuộc tài chính xảy ra ở một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới, cộng mức độ cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực thu hút FDI của các nước láng giềng như Trung Quốc, Thái Lan… FDI tại Việt Nam có phần chững lại, giảm thiểu cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Tình hình này đòi hỏi chúng ta phải có những tổng kết và đánh giá đúng đắn về FDI trong những năm qua, phân tích được những lợi thế và bất lợi của đất nước để nhanh chóng có những giải pháp đồng bộ toàn diện nhằm tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, có thể cạnh tranh với các nước trên khu vực. Hơn nữa, một khi đã thu hút được FDI thì vấn đề là làm sao sử dụng FDI một cách có hiệu quả nhất, đảm bảo kết hợp một cách hài hoà hiệu quả tài chính (góc độ nhà đầu tư) và hiệu quả kinh tế xã hội (góc độ nền kinh tế xã hội). Có như vậy, Việt Nam mới ngày càng hấp dẫn các nhà đầu tư, đồng thời giảm thiểu chi phí mà xã hội phải gánh chịu nâng cao lợi ích kinh tế xã hội khi đầu tư. Với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc giải quyết các vấn đề trên, em đã chọn đề tài “ Phân tích thống kê thực trạng và hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời kỳ 1992-2004”. Chuyên đề thực tập tốt nghiệp được chia làm ba phần chính: Chương I: Những vấn đề về FDI và hiệu quả FDI. Chương II: Hệ thống chỉ tiêu thống kê về FDI và hiệu quả FDI. Chương III: Phân tích thống kê thực trạng và hiệu quả FDI. Chương I Những vấn đề về FDI và hiệu quả FDI. I. Khái niệm và vai trò của FDI. 1. Khái niệm: Đầu tư ( Investment ) nói chung là sự bỏ ra các nguồn lực ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ ) để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại đầu tư, ở đây chúng ta chỉ xem xét phân loại đầu tư theo nguồn vốn thì đầu tư gồm hai loại: - Đầu tư trong nước - Đầu tư nước ngoài Trong đó, đầu tư nước ngoài là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Về bản chất đầu tư nước ngoài là những hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đầu tư nước ngoài gồm hai dòng chính: - Đầu tư tư nhân - Trợ giúp phát triển chính thức của Chính phủ và tổ chức quốc tế Đầu tư của tư nhân được thực hiện dưới ba hình thức: đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và tín dụng thương mại. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) chỉ là một trong ba hình thức đầu tư tư nhân. Đầu tư tư nhân đây là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc dịch vụ thương mại. Nhìn chung ở các nước, FDI được hiểu là một hoạt động kinh doanh, một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện sự khác biệt về quốc tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn thể hiện ở việc di chuyển tư bản bắt buộc phải vượt ra ngoài tầm kiểm soát quốc gia. Còn theo điều 2 Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/11/1996 thì: " Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này". Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm sau: - Là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị không để lại gánh nợ nần cho nền kinh tế. - Chủ đầu tư tiến hành mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%; 51% cổ phần còn lại do nước chủ nhà nắm giữ. Trong khi đó, Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam cho phép mở rộng rãi hơn với hình thưc 100% vốn nước ngoài và quy định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án. - Thông qua Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận công nghệ, kỹ thuật tiên tiến học hỏi kinh nghiệm quản lý... là nhiều mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không thể giải quyết được. - Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động nó bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp dể triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như nguồn vốn đầu tư từ lợi nhuận. Chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn hỗ trợ phát triển chính thưc (ODA-Official Development Assistance). Khác với FDI, ODA thường dùng để đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở như giao thông vận tải, giáo dục, y tế... Đó là những công trình mặc dù có lợi nhuận thấp, thậm chí không có lợi nhuận trực tiếp, thời gian thu hồi vốn chậm nhưng lại hết sức cần thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư, tuy có ưu điểm hơn FDI về lãi suất nhưng ODA cũng có những bất lợi cho nước đầu tư như: Chịu ràng buộc về kinh tế và chính trị (nước chủ nhà phải có cổ phần đóng góp vào IMF...); sử dụng vốn vay tràn lan, kém hiệu quả gây nợ chồng chất; là nguyên nhân gián tiếp gây ra tình trạng tham nhũng; chi phí tiếp nhận vốn cao... Trong điều kiện này thì FDI có lợi thế hơn hẳn bởi FDI không đưa đến gánh nặng nợ nần, không bị ràng buộc về kinh tế hay chính trị, việc sử dụng vốn trực tiếp đụng chạm đến lợi ích của các nhà đầu tư nên sẽ có hiệu quả hơn. Chính vì thế, báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tháng 3/1996 đã đề cập: "Bên cạnh những thuận lợi to lớn ở trong nước và quốc tế đối với việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA, chúng ta còn nhiều khó khăn và thách thức. ODA trên thế giới là nguồn vốn có hạn lại có sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước đang phát triển. ODA và chính trị đi liền với nhau, các nước cung cấp ODA thường hay gắn các điều kiện để mưu tìm lợi ích kinh tế hoặc chính trị. Phần lớn ODA là vốn vay, tuy có phần ưu đãi, song phải trả nợ nếu không tính toán đúng đắn sẽ có nguy cơ mắc phải nợ nần". FDI cũng khác xa các quan hệ thương mại thông thường như quan hệ xuất nhập khẩu vay thương mại, gia công hàng hoá. Bởi lẽ, bản chất FDI là việc di chuyển tư bản từ nước này sang nước khác để kinh doanh và chủ đầu tư không bị tách rời khỏi vốn đầu tư (quản lý và sử dụng vốn đầu tư, hưởng lợi nhuận thu được và phải chịu sự rủi ro trực tiếp nếu có). Còn các quan hệ thương mại thông thường là các quan hệ trao đổi hàng tiền giữa các chủ thể trong từng việc cụ thể, dù có sự chuyển dịch hàng tiền qua biên giới nhưng không kéo theo sự quản lý của chủ sở hữu, sự chuyển giao quyền quản lý và trách nhiệm gánh chịu sự rủi ro với đối tượng chuyển giao. 2. Vai trò của FDI. 2.1. Đối với nước đi đầu tư. FDI cho phép bành chướng sức mạnh về nền kinh tế, tăng cưởng ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế, nhờ mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, lại tránh được hàng rào bảo vệ mậu dịch của các nước nhận đầu tư khi xuất khẩu sản phẩm là máy móc thiết bị sang nước nhận đầu tư (để góp vốn) và xuất khẩu sản phẩm tại đây sang các nước khác (do chính sách xuất khẩu ưu đãi cảu các nước nhận đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, chuyển giao vốn, công nghệ và sản xuất hàng xuất khẩu của các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài) nhờ đó mà giảm được giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với hàng nhập của các nước khác. Phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các nước, về thực chất hoạt động như là chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc. Việc xây dựng các nhà máy sản xuất chế tạo hoặc lắp ráp ở nước sở tại sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, phụ tùng của công ty mẹ ở nước ngoài. Đặc biệt thị trường tiêu thụ sản phẩm nội địa của những nước lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia... có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với nguồn vốn FDI. FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian thu hồi vốn và thu lợi nhuận cao. Nhưng công ty này phần lớn là thuộc những nước công nghiệp phát triển, mà tỷ suất lợi nhuận ở trong nước có hướng giảm, kéo theo hiện tượng thừa tương đối tư bản. Mặt khác, có sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển và sản xuất, mức sống thu nhập giữa các nước nên đã tạo ra chênh lệch về giá cả và các yếu tố đầu vào của sản xuất. Do đó, đầu tư ra nước ngoài cho phép lợi dụng các chênh lệch này để giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận... Trước hết, đó là chi phí về lao động. Tiền lương của người lao động ở Nhật gấp hơn 10 lần lương bình quân lao động trong khối ASEAN, lương bình quân lao động trong các nước NICS Đông á cũng gấp 12 lần lương của Việt Nam. Do đó thời gian qua các nước tư bản phát triển và những nước công nghiệp mới đã chuyển những ngành sử dụng nhiều lao động sang các nước đang phát triển để giảm chi phí sản xuất. Việc tổ chưc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tại các nước sở tại cũng giúp chủ đầu tư giảm chi phí vận chuyẻen, tiết kiệm chi phí quảng cáo, tiếp thị... Do chạy theo lợi nhuận độc quyền cao, các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ mặc nạn thất nghiệp ở các nước phát triển để đầu tư sang những nước có chi phí rẻ, lợi nhuận cao và như vậy tạo ra công ăn việc làm cho các nước nhận đầu tư. Ngoài ra, mục tiêu của nhiều dự án nước ngoài là tạo nguồn nguyên liệu, nhiên liệu phục vụ cho nhu cầu phát triển để sản xuất kinh doanh của chủ các chủ đầu tư, chẳng hạn thăm dò khai thác khí, khoáng sản, tài nguyên biển rừng, sản phẩm cây công nghiệp. Nguồn tài nguyên của các nước đang phát triển có nhiều nhưng không có điều kiện chế biến vì thiếu thốn công nghệ. Do đó, đầu tư vào cả lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được lợi nhuận cao nhất. Như vậy, đối với việc đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế so sánh của các nước nhận đầu tư các chủ đầu tư trực tiếp sản xuất được sản phẩm với giá thành hạ hơn so với sản xuất trong nước, nhờ đó mà các chủ đầu tư này có được ưu thế trong việc tiêu thụ sản phẩm này trên thị trường thế giới. Nếu các sản phẩm này được nhập trở lại các nước chủ đầu tư với giá hạ hơn giá sản phẩm này trong nước hoặc của một số nước khác thì khả năng tiêu thụ sản phẩm này ở chính quốc sẽ mạnh hơn. Cùng với việc đem tiền để đi đầu tư nước khác và nhập khẩu sản phẩm với nhu cầu cao hơn tự sản xuất trên đây làm cho nhu cầu đồng nội tệ tăng so với đồng ngoại tệ theo chiều hướng giảm dần. Sự giảm tỉ giá hối đoái này sẽ có tác dụng khuyến khích các nhà sản xuất tăng cường xuất khẩu nhờ đó tăng thu ngoại tệ cho đất nước. FDI cho phép các công ty nước ngoài kéo dài chu kỳ sống của các sản phẩm mới được tạo ra trong nước, đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đổi mới công nghệ là điều kiện sống còn trong cạnh tranh, do đó các nhà đầu tư nước ngoài thường chuyển những máy móc công nghẹ đã lạc hậu so với trình độ chung của thế giới để sang nước khác. Điều đó, một mặt giúp các chủ đầu tư thực chất bán được máy móc cũ để thu hồi vốn nhằm đổi mới thiết bị công nghệ; kéo dài được chu kỳ sản phẩm của hãng ở các thị trường mới; di chuyển máy móc gây ô nhiễm môi trường ra nước ngoài và trong nhiều trường hợp còn thu được đặc lợi do chuyển giao công nghẹ đã lạc hậu đối với nước chủ đầu tư nước ngoài. 2.2 Đối với nước nhận đầu tư. a. Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng. Vốn cho đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Đối với các nước đang phát triển, sản xuất còn ở trình độ thấp nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp thì vốn FDI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. ở các nước này, có nhiều tiềm năng về lao động, tài nguyên thiên nhiên nhưng do trình độ sản xuất còn thấp kém, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu nên chưa có điều kiện khai thác các tiềm năng ấy. Các nước này chỉ có thể thoát khỏi sự nghèo đói bằng cách tăng trưởng đầu tư, phát triển sản xuất, tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Để thực hiện được việc này các nước đang phát triển cần có nhiều vốn để đầu tư. Trong điều kiện hiện nay, khi mà trên thế giới có nhiều nước đang nắm trong tay một khối lượng vốn khổng lồ và có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài thì đó là cơ hội để các nước đang phát triển có thể tranh thủ nguồn vốn ngắn hạn huy động từ các ngân hàng hoặc thông qua các khoản đầu tư tài chính khác, FDI có tính ổn định hơn rất nhiều. Có thể thấy rõ điều này qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998. Trong 18 tháng trước khi cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra, dòng vốn chảy vào bốn nước bị tác động nặng nề nhất sau này là Inđônêxia, Hàn Quốc, Philippin, Thái Lan lên tới 86,8 tỷ USD chỉ 18 tháng sau đã có 77,9 tỷ USD thoát lui khỏi các nước này. Ngược lại, dòng vốn đi vào các nước Châu á vẫn liên tục tăng từ 71,1 tỷ USD năm 1996 lên 86,9 tỷ USD năm 1999. ở nhiều nước đang phát triển, vốn FDI chiếm tỉ lệ đáng kể trong tổng nguồn vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, trong đó có một số nước hoàn toàn dựa vào vốn FDI, đặc biệt ở giai đoạn đầu của phát triển kinh tế. ở Inđônexia sau khi ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1967, FDI đã cung cấp một lượng vốn bình quân trong 27 năm (1967-1994) là 1,15 tỷ USD/năm trong 15 năm (1979-1994). ở các nước này, FDI đã thực sự đóng vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế và nếu chỉ căn cứ vào thực tại vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế thì có thể đánh giá FDI có ý nghĩa quyết định đến tăng trưởng kinh tế của các nước này. Tỉ lệ FDI/Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ở Việt Nam năm là 32,33%; năm 1997 là 31,32%; đến năm 1999 giảm xuống còn 18,19%. Con số này đã thể hiện chúng ta khá thành công trong việc thu hút FDI trong thời gian qua nhưng tỷ lệ này đang có xu hướng ngày càng giảm. b. Chuyển giao công nghệ. Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước đó bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...(hay còn gọi là công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường...(hay còn gọi là công nghẹ mềm). Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên đầu tư cũng như bên nhận đầu tư. Thực tế cho thấy rằng, kỹ thuật và công nghệ nước ngoài đã giúp cho Malaisia từ chỗ là một nước kinh tế lạc hậu, kỹ thuật thủ công phân tán, lực lượng sản xuất kém phát triển đến giữa những năm 1980 đã trở thành một nước phát triển nhất về găng tay cao su, thứ hai thế giới về chất bán dẫn và tinh thể sơ đồ tích phân và thứ ba thế giới về máy điều hoà nhiệt độ. Mọt trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển kinh tế của hầu hết các nước đang phát triển lao đông trình độ chuyển giao công nghệ còn lạc hậu. Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay, thì việc các nước đang phát triển tự phát triển khoa học kỹ thuật cho kịp với tốc độ phát triển kỹ thuật hiện nay là phải biết tận dụng những thành tụ khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài thồn qua hoạt động chuyển giao công nghệ. Tiếp nhận FDI là một phương thức cho phép các nước đang phát triển tiếp nhận khoa học kỹ thuật - công nghệ hiện đại trên thế giới, tuy nhiên mức độ hiện đại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng dù thế nào thì đây cũng là lợi ích căn bản của các nước tiếp nhận FDI. Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty của các quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và chuyển giao công nghẹe cho nước nhận đầu tư, thì đây là cơ hội cho các nước đang phát triển có thể tiếp thu được kỹ thuật công nghệ thuận lợi nhất. Nhưng không phải các nước đang phát triển được "đi xe miễn phí" mà họ phải trả một khoản học phí không nhỏ cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này. So với việc nhập khẩu thiết bị và mua bản quyền những cách được áp dụng trước kia để nâng cao trình độ công nghệ, thì FDI có lợi hơn hẳn bởi "đó là một kênh chuyển giao trình độ quản lý và kỹ thuật, đi kèm với các nhà máy, thiết bị nước ngoài cũng như mạng lưới tiếp thị và phân phối". Hơn nữa, trong mọi trường hợp các nước đang phát triển cũng ít có sự lựa chọn nào khác ngoài việc mở cửa thu hút FDI, bởi cách mua bản quyền để thay thế cho FDI hiện đã khó khăn hơn rất nhiều so với trước. Theo các chuyên gia, thách thức mà các nước đang phát triển phải đối mặt là "các nước đang phát triển vẫn phải liên tục xoá đi khoảng cách với những nước dẫn đầu công nghiệp, song họ sẽ phải chuyển dẫn từ mẫu hình phát triển dựa vào tích luỹ lên theo mẫu hình dựa theo sự đổi mới". c. Thúc đầy tăng trường kinh tế. Tranh thủ vốn và công nghệ của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn sử dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các nước đang phát triển ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy quốc gia nào thực hiện chiến lược mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ các nhân tố với bên ngoài nó trở thành nhân tố bên trong thì quốc gia đó sẽ tạo được sự tăng trưởng kinh tế cao. Xem xét tình hình tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trên thế giới, có thể rút ra một số nhân xét sau: - Có mức tăng trưởng tỉ lệ thuận giữa tăng trưởng kinh tế với khối lượng vốn FDI được huy động và sử dụng ở Việt Nam năm 1995, khối lượng FDI là 6.607 triệu USD , thì tăng trưởng GDP là 9,5%, tương ứng năm 1996 là 8.864 triệu USD và 9,3%, năm 1997 là 4.654 triệu USD và 8,2%, năm 1998 là 4.059 triệu USD và 5,8%, năm 1999 là 1.548 triệu USD và 4,8%. - Sự tăng trưởng gắn liền với mức tăng trưởng xuất khẩu mức tăng trưởng kinh tế chủ yếu ở các nước đang phát triển thường do nhân tố đầu tư chủ yếu, nhờ đó mà các nhân tố khác như tổng số lao động cũng được sử dụng và năng suất lao động cũng tăng theo. Vì vậy, có thể thống qua tỷ lệ đóng góp của FDI trong GDP để đánh giá vai trò của FDI với tăng trưởng kinh tế. Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tổng sản phẩm trong nước (GDP) của một số nước năm 1999. tên nước Chỉ tiêu Singapore Argentina Brazin Philippin Venezuela Việt Nam 1.FDI (Tr USD) 6.984 23.579 32.659 2.287 3.187 1.548 2.GDP(Tr USD) 84.945 283.011 529.398 65.493 102.222 18.305 3.FDI/GDP(%) 8,12 8,33 6,17 3,49 3,12 8,47 Nguồn: International Financial Statistics-International Moneytary Fund-Volume LIV Number 1 January 2001. d. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội tại của nền kinh tế, mà nó còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời sống đang diến ra mạnh mẽ hiện nay, FDI là một hoạt động quan trong của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi từng quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngược lại, chính đầu tư trực tiếp nước ngoài lại góp phần thúc đẩy nhanh chuyển dich cơ cấu kinh tế. Bởi vì: - Thông qua FDI đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành nghề mới ở nước nhận đầu tư. - FDI góp phần vào sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này làm tăng tỉ phần của chúng trong nền kinh tế. - Một số ngành được kích thích phát triển bởi FDI nhưng cũng có nhiều ngành bị mai mọt rồi đi đến bị xoá sổ. e. Trong quan hệ kinh tế quốc tế. Quan hệ kinh tế quốc tế xuất hiện từ khi con người bắt đầu thực hiện hành vi trao đổi mua bán hàng hoá giữa các quốc gia. Qui mô và phạm vi trao đổi ngày càng mở rộng, hình thành nên các quan hệ quốc tế gắn bó và phụ thuộc vào nhau giữa các nước trên thế giới. FDI là một hoạt động kinh tế đối ngoại ra đời muộn hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác vài ba thập kỷ. Nhưng ngay từ khi xuất hiện, vào khoảng cuối thế kỷ 19, FDI đã có vị trí đáng kể trong quan hệ kinh tế quốc tế. Cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế quốc tế, hoạt động FDI không ngừng được mở rộng và ngày càng chiếm vị trí quan trong trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đến nay, FDI đã trở thành xu hướng của thời đại và là nhân tố cơ bản quy định bản chất các quan hệ kinh tế. Thập kỷ 80 vừa qua đã chứng kiến những bước phát triển mới của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới, khối lượng vốn tăng lên với tốc độ nhanh hơn so với sự gia tăng của sản xuất và buôn bán quốc tế. Những năm 70, lượng vốn FDI trên toàn thế giới bình quân hàng năm là 25 tỷ USD, con số này đã tăng lên gấp hai lần trong thời kỳ 1980-1985. Năm 1986, lượng vồn FDI trên toàn thế giới là 78 tỷ USD, năm 1987 là 133 tỷ USD, năm 1988 là 195 tỷ USD, đến năm 1990 giảm xuống còn chút ít 184 tỷ USD. Tính bình quân hàng năm trong thời kỳ 1985-1990, FDI tăng khoảng 24%, tốc độ này lớn hơn bốn lần so với tốc độ tăng kim nghạch xuất khẩu trong thời kỳ này là 6,1%. Bước sang thập kỷ 90 này, FDI đã tăng lên nhanh chóng và là một nhân tố gây ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia. Trái ngược với tình hình năm 1997, mặc dù tăng trưởng thương mại thế giới giảm hơn một nửa chỉ còn 3,7% so với năm 1994, năm 1997 là 6,3% năm 1996 song FDI trên toàn thế giới vẫn gia tăng và đạt mức kỷ lục, bất chấp tình trạng suy giảm kinh tế trên thế giới. Theo đánh giá của tổ chức thương mại và phát triển của tổ chức Liên hiệp quốc (UNCTAD), năm 1998 FDI trên toàn thế giới đạt khoảng 410 tỷ tăng 10% so với mức 400 tỷ năm 1997. Năm 1999, tăng trưởng khoảng 20%, đạt gần 800 tỷ USD,năm 2000 đạt mức kỷ lục 1.140 tỷ USD, gấp ba lần năm 1997. Bốn quốc gia đứng đầu thế giới về thu hút FDI là Mỹ, Anh, Đức, Trung Quốc, FDI vào Châu á vẫn chiếm khoảng 1/3 tổng vốn FDI trên toàn thế giới. Tình hình trên đây, cho phép khẳng định rằng FDI đang trở thành xu hướng phát triển quan hệ kinh tế quốc tế. Ngoài những vai trò trên FDI còn có một số vai trò sau: - Đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế, phí tiền thuê đất... của các đơn vị đầu tư nước ngoài. Bởi vì, hầu hết các dự án FDI là sản xuất ra các sản phẩm hướng vào xuất khẩu. - Cùng với việc tăng khả năng sản xuất, nhập khẩu hàng hoá, FDI còn giúp mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước. Đa số các dự án FDI đều có phương án bao tiêu sản phẩm. Đây là hiện tượng đa chiều đang trở thành khá phổ biến ở các nước đang phát triển hiện nay. - Về mặt xã hội, FDI đã tạo ra nhiều công ăn việc làm mới, thu hút được một khối lượng đáng kể ở các nước nhận đầu tư vào các đơn vị đầu tư nước ngoài, nâng cao thu nhập cho người lao động, đồng thời góp phần đào tạo một đội ngũ công nhân có trình độ kỹ thuật cao. Điều này góp phần vào việc làm giảm bớt nạn thất nghiệp vốn là tình trạng nan giải ở nhiều quốc gia. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam nơi có lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng được, thì FDI được coi là chiếc chìa khoá quan trọng để giải quyết vấn để này. Bởi vì, FDI tạo nên điều kiện vốn và kỹ thuật cho phép khai thác và sử dụng tiềm năng của nền kinh tế trong đó có tiềm năng về lao động. II. Hiệu quả của FDI. 1. Khái niệm. Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế quan trọng biểu hiện quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế mà xã hội đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó. Trong đầu tư trực tiếp nước ngoài thì hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư biều hiện quan hệ so sánh giữa kết quả đầu tư mà cá nhân hay xã hội đạt được hiệu quả đó. Kết quả được đem

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc814.doc
Tài liệu liên quan