Chuyên đề Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển hợp tác xã nông nghiệp huyện Thủy Nguyên giai đoạn 2007-2015

Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế luôn được sự quan tâm của Đảng và nhà nước ta. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ : “tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể, khuyến khích phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú trọng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX, liên hiệp HTX cổ phần”. Nghị quyết lần thứ năm ban chấp hành Trung ương Đảng( khoá X) ngày 18/3/2002 cũng đã xác định: “kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, trong đó HTX là nòng cốt”, và “ kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.

Thể chế hóa Nghị quyết Trung ương 5,Thành uỷ Hải Phòng đã ban hành Nghị quyết 8( khóa XII) ngày 21/5/ 2002 “tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”. Trong lĩnh vực nông nghiệp,Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với các cấp, các ngành trên địa bàn thành phố triển khai thực hiện Nghị quyết. Sở đã tham mưu đề xuất kịp thời với Uỷ ban nhân dân thành phố các cơ chế chính sách, các biện pháp để khuyến khích phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp. Tuy nhiên hiện nay, kinh tế tập thể mà nòng cốt là các HTX nông nghiệp trên địa bàn Hải Phòng còn nhiều yếu kém, bất cập, năng lực hạn chế, môi trường hoạt động dịch vụ sản xuất kinh doanh dần bị thu hẹp, doanh thu thấp Kinh tế HTX chiếm tỷ lệ thấp trong tổng sản phẩm xã hội, chưa đủ sức đảm nhiệm tốt vai trò cùng kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, những nơi chưa có HTX nông nghiệp, chính quyền thôn phải quản lí điều hành cả dịch vụ nông nghiệp, bởi tính đặc thù trong nông nghiệp mà các thành phần kinh tế khác chưa làm được và nếu có làm thì cũng sẽ không có hiệu quả. Những hạn chế, yếu kém đó tồn tại do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan đã tác động tới sự phát triển của các HTX.

 

docx74 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển hợp tác xã nông nghiệp huyện Thủy Nguyên giai đoạn 2007-2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế luôn được sự quan tâm của Đảng và nhà nước ta. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ : “tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể, khuyến khích phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú trọng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX, liên hiệp HTX cổ phần”. Nghị quyết lần thứ năm ban chấp hành Trung ương Đảng( khoá X) ngày 18/3/2002 cũng đã xác định: “kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, trong đó HTX là nòng cốt”, và “ kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Thể chế hóa Nghị quyết Trung ương 5,Thành uỷ Hải Phòng đã ban hành Nghị quyết 8( khóa XII) ngày 21/5/ 2002 “tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”. Trong lĩnh vực nông nghiệp,Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với các cấp, các ngành trên địa bàn thành phố triển khai thực hiện Nghị quyết. Sở đã tham mưu đề xuất kịp thời với Uỷ ban nhân dân thành phố các cơ chế chính sách, các biện pháp để khuyến khích phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp. Tuy nhiên hiện nay, kinh tế tập thể mà nòng cốt là các HTX nông nghiệp trên địa bàn Hải Phòng còn nhiều yếu kém, bất cập, năng lực hạn chế, môi trường hoạt động dịch vụ sản xuất kinh doanh dần bị thu hẹp, doanh thu thấp…Kinh tế HTX chiếm tỷ lệ thấp trong tổng sản phẩm xã hội, chưa đủ sức đảm nhiệm tốt vai trò cùng kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, những nơi chưa có HTX nông nghiệp, chính quyền thôn phải quản lí điều hành cả dịch vụ nông nghiệp, bởi tính đặc thù trong nông nghiệp mà các thành phần kinh tế khác chưa làm được và nếu có làm thì cũng sẽ không có hiệu quả. Những hạn chế, yếu kém đó tồn tại do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan đã tác động tới sự phát triển của các HTX. Với mong muốn đưa ra một số giải pháp để khắc phục những hạn chế, yếu kém nói trên, góp phần thúc đầy sự phát triển của HTX nông nghiệp trên địa bàn Hải Phòng, cụ thể là các HTX nông nghiệp ở huyện Thuỷ Nguyên, em đã chọn nghiên cứu đề tài làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp, là: phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên đến năm 2015. Trong quá trình thực hiện chuyên đề này, em đã được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của cô Võ Hoà Loan và phòng chính sách nông nghiệp và nông thôn thuộc Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Hải Phòng. Đây là một thuận lợi rất lớn đối với em. Em xin chân thành cảm ơn. 2. Mục đích nghiên cứu - Nêu lên cơ sở lí luận về kinh tế tập thể và HTX như: bản chất, vai trò, đặc trưng… - Đánh giá khái quát thực trạng phát triển HTX nông nghiệp trên cả nước. - Tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng phát triển các HTX nông ngiệp trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên. - Trên cơ sở phân tích trên, thấy rõ được các khó khăn, vướng mắc, rồi từ đó đưa ra phương hướng, các giải pháp nhằm phát triển HTX nông nghiệp ở Thuỷ Nguyên. 3. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp duy vật biện chứng - Phương pháp thống kê - Phương pháp phân tích và tổng hợp - Phương pháp ước lượng - Phương pháp so sánh Ngoài ra còn một số phương pháp khác 4. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng: các HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên. - Phạm vi: + thời gian: từ khi có Luật HTX cũ đến nay, chủ yếu là từ 2004 đến nay. Phương hướng , mục tiêu và giải pháp đến 2015. + không gian: các huyện trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên Chương 1. Một số vấn đề lí luận 1.1. Một số vấn đề về HTX 1.1.1. Khái niệm - Theo liên minh quốc tế ( international cooperative alliance- ICA): “ HTX là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lí dân chủ”. Năm 1995, định nghĩa này được bổ sung: “ HTX dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của những người sáng lập ra HTX, các xã viên HTX tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức, về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc người khác”. - Ngày 20/3/1996, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật HTX. Tại điều 1, Luật khẳng định: “ HTX là một tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra để phát huy sức mạnh tập thể, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước”. - Tại điều 1 Luật HTX sửa đổi được thông qua tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI vào tháng 11 năm 2003 quy định: “ HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung , tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật”. 1.1.2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp: Theo điều 2- các Nghị định của Chính phủ về HTX ,quy định: 1.1.2.1 Tự nguyện a, Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân, cán bộ, công chức Nhà nước có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 10 Nghị định này, tán thành Điều lệ HTX và có đơn xin gia nhập hoặc xin ra HTX. Đối với xã viên của các HTX đã đăng ký và hoạt động theo Luật HTX năm 1996 được miễn trừ đơn xin ra nhập HTX, nhưng nếu xin ra HTX thì phải có đơn. b, Việc HTX tham gia liên hiệp HTX phải được Đại hội xã viên biểu quyết thông qua. 1.1.2.2. Dân chủ, bình đẳng và công khai: a, Tất cả xã viên cùng tham gia quản lý HTX thông qua biểu quyết, quyết định các vấn đề của HTX. Biểu quyết của xã viên có giá trị như nhau; b, Xã viên có quyền đề đạt và yêu cầu Ban quản trị, Ban kiểm soát giải thích và trả lời về những vấn đề xã viên quan tâm. Trường hợp không được trả lời, xã viên có quyền đưa ra Đại hội xã viên để giải quyết; c, HTX công khai tới xã viên trong Đại hội xã viên hoặc thông báo bằng văn bản định kỳ trực tiếp tới từng xã viên, nhóm xã viên cùng sinh sống theo địa bàn hoặc thông tin trên bản tin hàng ngày tại trụ sở HTX về: kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh; việc trích lập các quỹ; chia lãi theo vốn góp,theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX; các đóng góp xã hội; các quyền lợi, nghĩa vụ của từng xã viên, trừ những vấn đề thuộc về bí mật kinh doanh, bí quyết công nghệ sản xuất do Đại hội xã viên quy định. 1.1.2.3. Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: a, HTX tự quyết định: lựa chọn phương án sản xuất, kinh doanh; phân phối kết quả sản xuất, kinh doanh; lập và mức trích lập các quỹ; mức tiền công, tiền lương đối với những người làm việc cho HTX; b, HTX tự lựa chọn và quyết định: hình thức, thời điểm huy động vốn; chủ động sử dụng vốn và tài sản của mình; chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng; tổ chức thực hiện hợp đồng và chịu trách nhiệm theo pháp luật về hợp đồng đã ký kết. c, HTX tự chịu trách nhiệm về những rủi ro trong quá trình hoạt động. Mỗi xã viên trong HTX cùng chịu trách nhiệm về những rủi ro của HTX trong phạm vi vốn góp của mình, cùng nhau quyết định những giải pháp khắc phục rủi ro; d, Các xã viên HTX cùng hưởng lợi theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 18 Luật HTX năm 2003. 1.1.2.4. Hợp tác và phát triển cộng đồng: a, Xã viên HTX phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong HTX, trong cộng đồng xã hội; b, Các HTX cùng hợp tác với nhau trong sản xuất, kinh doanh và trong xây dựng, phát triển phong trào HTX . 1.1.3. Điều lệ HTX . 1.1.3.1. Mỗi HTX có Điều lệ riêng, Điều lệ HTX phải phù hợp với các quy định của Luật HTX và các quy định khác của pháp luật. 1.1.3.2. Điều lệ HTX có các nội dung chủ yếu sau đây: a, Tên HTX, biểu tượng của HTX( nếu có); b, Địa chỉ trụ sở chính của HTX; c, Ngành, nghề, sản xuất kinh doanh; d, Các quy định về đối tượng , điều kiện, thủ tục gia nhập HTX và ra HTX của xã viên; đ, Các quy định về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của xã viên; e, Nguyên tắc và đối tượng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. g, Vốn điều lệ của HTX; h, Vốn góp tối thiểu: mức góp, hình thức góp, thời hạn góp và điều kiện trả lại vốn góp của xã viên; i, Thẩm quyền và phương thức huy động vốn; k, Nguyên tắc trả công, xử lý các khoản lỗ; chia lãi theo vốn góp, theo công sức đóng góp của xã viên và theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX; trích lập, quản lý và sử dụng các quỹ của HTX; l, Thể thức quản lý, sử dụng, bảo toàn và xử lý phần tài sản chung, vốn tích luỹ của HTX khi HTX đang hoạt động và khi HTX giải thể; m, Cơ cấu tổ chức quản lý HTX; chức năng, quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm của Ban quản trị, Trưởng Ban quản trị, Chủ nhiệm HTX, Ban kiểm soát, Trưởng Ban kiểm soát và các bộ phận giúp việc cho HTX. n, Người đại diện theo pháp luật của HTX; o, Thể thức tiến hành đại hội và thông qua quyết định của Đại hội xã viên; p, Chế độ xử lý vi phạm Điều lệ HTX và nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ; q, Thể thức sửa đổi Điều lệ HTX; r, Các quy định khác do Đại hội xã viên tự quyết định nhưng không trái với các quy định của pháp luật. 1.1.3.3. Khi sửa đổi Điều lệ HTX, HTX phải gửi Điều lệ có sửa đổi kèm theo biên bản của Đại hội xã viên đến cơ quan đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho HTX. 1.1.3.4. Chính phủ ban hành Mẫu hướng dẫn xây dựng Điều lệ HTX nông nghiệp, quỹ tín dụng nhân dân và HTX phi nông nghiệp 1.1.4. Các loại hình HTX 1.1.4.1. HTX dịch vụ: bao gồm ba loại: - HTX dịch vụ từng khâu: có nội dung hoạt động tập trung ở từng lĩnh vực trong quá trình sản xuất hoặc từng khâu công việc như: đầu vào, đầu ra, phòng trừ sâu bệnh… - HTX dịch vụ tổng hợp đa chức năng: có nội dung hoạt động đa dạng, gồm nhiều khâu dịch vụ cho sản xuất như: cung ứng vật tư đầu vào, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ giống, phòng trừ sâu bệnh, tưới tiêu… - HTX dịch vụ chuyên ngành: HTX này được hình thành từ nhu cầu của các hộ thành viên cùng sản xuất, kinh doanh một loại hàng hóa đặc trưng, hoặc cùng làm một nghề giống nhau( HTX trồng rừng, HTX trồng mía…) HTX thực hiện các khâu dịch vụ của kinh tế hộ như chọn giống, cung ứng vật tư, trao đổi hướng dẫn kỹ thuật, dịch vụ vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, đại diện các hộ thành viên quan hệ với các cơ sở chế biến, tổ chức tín dụng… 1.1.4.2. HTX sản xuất kết hợp dịch vụ: Các HTX loại này thường dưới dạng các HTX chuyên môn hóa theo sản phẩm. Đó là các HTX gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ, trong đó trực tiếp sản xuất là các hộ nông dân, HTX hợp đồng bao tiêu chế biến và tiêu thụ sản phẩm như: các HTX sản xuất rau, HTX sản xuất sữa. HTX loại này có đặc điểm: nội dung sản xuất là chủ yếu, dịch vụ là kết hợp. Đây là hình thức HTX khá phổ biến ở nước ta. 1.1.4.3. HTX sản xuất- kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện: Mô hình HTX sản xuất- kinh doanh ở mức độ toàn diện, vừa trực tiếp tổ chức sản xuất kinh doanh tập trung như tổ chức các cơ sở chế biến của HTX để đảm bảo cung ứng đầu vào cho các xã viên (chế biến thức ăn gia súc, sản xuất cây giống…) hoặc đảm bảo tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho xã viên là chế biến và tiều thụ sản phẩm hoặc tổ chức phát triển ngành, nghề tiểu thủ công nghiệp để tạo việc làm, tăng thu nhập cho xã viên và người lao động tạo ra lợi nhuận để hỗ trợ các khâu dịch vụ cho xã viên phát triển kinh tế hộ tự chủ. Đây là mô hình tổ chức HTX có hiệu quả mà nhiều nước trên thế giới đã áp dụng như: HTX sản xuất rau quả của Đài Loan, HTX chế biến rượu nho ở CHLB Đức…Đồng thời nó cũng phù hợp với điều kiện ở nhiều vùng nước ta, trước hết là đối với các vùng sản xuất hàng hóa, kinh tế đã có bước phát triển. Xây dựng HTX theo mô hình loại này sẽ tạo điều kiện để cho quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn có điều kiện hiện đại hóa sản xuất tạo ra nhiều loại hàng hóa có sức cạnh tranh cao, vừa phát huy được vai trò vị trí tự chủ của kinh tế hộ xã viên trong quá trình chuyển sang sản xuất hàng hóa, không hạn chế tính năng động, sáng tạo của hộ xã viên. 1.2. HTX nông nghiệp 1.2.1. Khái niệm Theo giáo trình quản trị kinh doanh nông nghiệp- Đại học kinh tế quốc dân thì “ HTX nông nghiệp là một trong các hình thức cụ thể của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, là tổ chức kinh tế của những người nông dân có cùng nhu cầu và nguyện vọng, tự nguyện liên kết lại để phối hợp giúp đỡ nhau phát triển kinh tế hoặc đáp ứng tốt hơn nhu cầu về đời sống của mỗi thành viên, tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc pháp luật quy định, có tư cách pháp nhân”. Như vậy, HTX nông nghiệp là một loại hình HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nó mang đầy đủ các đặc trưng, loại hình, vai trò…của một HTX nói chung. Tuy nhiên, do hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nên nó cũng có những tính chất, đặc điểm riêng có. 1.2.2. Vai trò của HTX nông nghiệp - HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế tập thể của nông dân,vì vậy hoạt động của HTX nông nghiệp có tác động to lớn, tích cực đến hoạt động sản xuất của hộ nông dân. HTX cung cấp các yếu tố đầu vào và các dịch vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp được kịp thời, đầy đủ,và đảm bảo chất lượng làm cho hiệu quả sản xuất của hộ nông dân được tăng lên. - Thông qua hoạt động dịch vụ mà vai trò điều tiết của HTX nông nghiệp được thực hiện, sản xuất của hộ nông dân được thực hiện theo hướng tập trung, tạo điều kiện hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hóa như: dịch vụ làm đất, dịch vụ tưới nước…đòi hỏi sản xuất của hộ nông dân phải thực hiện thống nhất trên từng cánh đồng về chủng loại vốn, thời vụ gieo trồng và chăm sóc. - HTX còn là nơi tiếp nhận những sự trợ giúp của nhà nước tới hộ nông dân, vì vậy hoạt động của HTX nông nghiệp có vai trò cầu nối giữa nhà nước với hộ nông dân một cách có hiệu quả.Trong một số trường hợp, khi có nhiều tổ chức tham gia hoạt động dịch vụ cho hộ nông dân thì hoạt động của HTX là đối trọng buộc các đối tượng phải phục vụ tốt hơn cho nông dân. 1.2.3. Các đặc trưng của HTX nông nghiệp Một là, HTX nông nghiệp là tổ chức liên kết kinh tế tự nguyện của những nông hộ, trang trại có chung yêu cầu về những dịch vụ cho sản xuất kinh doanh và đời sống của mình mà bản thân từng nông hộ không làm được hoặc làm không có hiệu quả. Hai là, cơ sở thành lập của các HTX là dựa vào việc cùng góp vốn của các thành viên và quỳên làm chủ hoàn toàn bình đẳng giữa các xã viên theo nguyên tắc mỗi xã viên một phiếu biểu quyết không phân biệt lượng vốn góp ít hay nhiều. Ba là, mục đích kinh doanh của HTX trước hết là làm dịch vụ cho xã viên, đáp ứng đầy đủ và kịp thời về số lượng, chất lượng của dịch vụ, đồng thời cũng phải tuân theo nguyên tắc bảo toàn và tái sản xuất mở rộng vốn bằng cách thực hiện mức giá và lãi suất nội bộ thấp hơn giá thị trường. Bốn là, HTX thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Năm là, HTX là một tổ chức liên kết kinh tế chỉ liên kết những xã viên thực sự có nhu cầu, có mong muốn, không lệ thuộc vào nơi ở và cũng chỉ liên kết ở những dịch vụ cần thiết và đủ khả năn quản lí kinh doanh. Như vậy, trong mỗi thôn, mỗi xã có thể tồn tại nhiều loại hình HTX có nội dung kinh doanh khác nhau, có số lượng xã viên không như nhau, trong đó có một số nông hộ, trang trại đồng thời là lã viên của một số HTX. Sáu là, nông hộ trang trại xã viên vừa là đơn vị kinh tế tự chủ trong HTX, vừa là đơn vị kinh tế cơ sở hoạt động kinh doanh và hạch toán độc lập. Do vậy, quan hệ giữa HTX và xã viên vừa là quan hệ liên kết, giúp đỡ nội bộ vừa là quan hệ giữa hai đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân độc lập. Cơ chế liên kết của HTX cần phản ánh được mối quan hệ phức tạp đó. Từ những đặc trưng trên có thể rút ra đặc trưng bản chất của HTX là : HTX là tổ chức kinh tế liên kết cơ sở của các nông hộ và trang trại, mang tính chất vừa tương trợ giúp đỡ, vừa kinh doanh. 1.2.4. Các hình thức của HTX nông nghiệp 1.2.4.1. HTX nông nghiệp làm dịch vụ Về hình thức, đây là tổ chức kinh tế trong nông nghiệp tách ra làm dịch vụ cho nông nghiệp, bao gồm: dịch vụ các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp (các HTX cung ứng vật tư, giống…); dịch vu các khâu cho sản xuất nông nghiệp (HTX làm đất, tưới nước, bảo vệ thực vật…); dịch vụ quá trình tiếp theo của quá trình sản xuất nông nghiệp( HTX chế biến, tiêu thụ sản phẩm…). Về thực chất, các HTX trên được tổ chức với mục đích phục vụ cho khâu sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân là chủ yếu. Vì vậy, sự ra đời của các HTX nông nghiệp làm dịch vụ hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu khách quan của sản xuất nông nghiệp, trong đó, đặc điểm của ngành, trình độ sản xuất của các hộ nông dân chi phối một cách trực tiếp nhất. HTX dịch vụ nông nghiệp gồm: HTX dịch vụ chuyên khâu (là HTX chỉ thực hiện một chức năng dịch vụ một khâu cho sản xuất nông nghiệp như: HTX dịch vụ thuỷ nông, HTX dịch vụ điện nông thôn…) và HTX dịch vụ tổng hợp (là các HTX thực hiện các chức năng dịch vụ nhiều khâu cho sản xuất nông nghiệp, đôi khi cho cả đời sống). 1.2.4.2. HTX sản xuất kết hợp dịch vụ: Các HTX loại này thường dưới dạng các HTX chuyên môn hoá theo sản phẩm. Đó là các HTX gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ, trong đó trực tiếp sản xuất là hộ nông dân, HTX hợp đồng bao tiêu chế biến và tiêu thụ sản phẩm, nông dân tham gia vào HTX như những thành viên chính thức. Ví dụ: HTX sản xuất rau, HTX sản xuất sữa… 1.2.4.3. HTX sản xuất nông nghiệp: HTX loại này giống như các HTX sản xuất nông nghiệp ở nước ta trước khi đổi mới, nhưng mục đích nhằm tạo ra quy mô sản xuất thích hợp chống lại sự chèn ép của tư thương, tạo những ưu thế mới ở những ngành khó tách riêng, khai thác những ưu đãi của chính phủ đối với các doanh nghiệp lớn, khai thác những nguồn lực cần đầu tư lớn… 1.3. Tính tất yếu khách quan của kinh tế HTX 1.3.1. Tính tất yếu khách quan Trong mỗi chuyên ngành đều có thế mạnh riêng của nó đồng thời lại không thể phát huy thế mạnh riêng nếu không có sự liên kết với các chuyên ngành khác có liên quan hoặc liên kết ở phạm vi rộng. Bởi vậy, trong nông nghiệp, dưới bất kỳ phương thức sản xuất của một hình thái kinh tế xã hội nào, nông dân đều có nhu cầu hợp tác từ đơn ngành cho đến đa ngành, từ đơn giản cho đến hình thức cao, xuất phát từ lợi ích kinh tế của họ. Trình độ của lực lượng sản xuất càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng tăng lên và lập ra các HTX. Mọi thành viên trong HTX có quyền ngang nhau, được hưởng những thành quả trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng có trách nhiệm ngang nhau chia sẻ những rủi ro mất mát của HTX. Nội dung hoạt động của HTX rất phong phú và có quy mô thích hợp từ cấp cơ sở đến cấp khu vực, liên khu vực, cao hơn nữa là liên đoàn, tập đoàn trên phạm vi toàn quốc. Kinh tế hợp tác và HTX là sản phẩm tất yếu của sản xuất hàng hóa; sản xuất hàng hóa càng phát triển, sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường càng gay gắt thì những người lao động riêng lẻ, các hộ cá thể, các doanh nghiệp vừa và nhỏ càng có yêu cầu phải liên kết hợp tác với nhau, nếu không thì khó có thể tồn tại và phát triển. Phát triển kinh tế hợp tác và HTX là con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ, manh mún với sản xuất hàng hóa lớn, đáp ứng yêu cầu khách quan của quá trình công nghiệp hóa.. Ngày nay, nền kinh tế của hầu khắp các quốc gia đang hòa nhập vào nền kinh tế thị trường trên phạm vi toàn cầu. Với cơ chế này, bên cạnh những mặt tích cực thì mặt tiêu cực của nó đã làm tổn hại không nhỏ đến lợi ích của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nền kinh tế ở những nước này chủ yếu là nông nghiệp , gánh chịu những tổn hại đó chính là tầng lớp nông dân. Bởi vậy, sự hình thành và phát triển các HTX nông nghiệp ở những nước này là đương nhiên, đó là con đường tất yếu khách quan của kinh tế hộ nông dân. Phát triển kinh tế hợp tác và HTX là một nhu cầu tất yếu, luôn được Đảng và nhà nước quan tâm, đặc biệt là trong thời kì đổi mới hiện nay, nó càng có vai trò quan trọng. Nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất phát triển không đều, vì vậy cần phải phát triển nhiều thành phần để có quan hệ sản xuất phù hợp, trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể làm nòng cốt. Hơn n ữa, nước ta là một nước nông nghiệp, mà sản xuất nông nghiệp vốn có tính thời vụ rất lớn, phụ thuộc vào tự nhiên, thu nhập thấp…Vì vậy cần có sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau để giảm bớt những khó khăn đó. Kinh tế hợp tác và HTX là hình thức tổ chức kinh tế mang tính chất xã hội hóa, còn là nhân tố quan trọng để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giáo dục ý thức phát triển cộng đồng; là hình thức tổ chức kinh tế quan trọng để người lao động, hộ xã viên tiếp nhận sự hỗ trợ của nhà nước, liên kết với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; thực hiện liên minh công nông. Phát triển kinh tế hợp tác và HTX là phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. HTX giúp các xã viên phát triển sản xuất thông qua cung ứng các dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất, đảm bảo sản xuất đúng thời vụ. Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân, cải thiện đời sống, bảo vệ môi trường, giải quyết các vấn đề xã hội, sản xuất ra các sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm… Chương 2. Thực trạng phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện Thủy Nguyên (giai đoạn 2002- 2006). 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế -xã hội của huyện Thủy Nguyên 2.1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên Thủy Nguyên là một huyện lớn nằm bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Phía Bắc, Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh; phía Tây Nam giáp huyện An Dương và nội thành Hải Phòng; phía Đông Nam là cửa biển Nam Triệu; Địa hình Thủy Nguyên khá đa dạng, dốc từ phía Tây Bắc xuống Đông Nam, vừa có núi đất, núi đá vôi, vừa có đồng bằng và hệ thống sông ngòi dày đặc. Đây chính là những điều kiện tự nhiên thuận lợi để huyện Thủy Nguyên phát triển một nền kinh tế đa dạng về ngành nghề bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thủy sản và du lịch. - Vị trí địa lí: nằm ở cửa ngõ phía Bắc thành phố Hải Phòng - Diện tích tự nhiên: 242km2 - Dân số: 29 vạn người -Đơn vị hành chính: 34 xã, 2 thị trấn, trong đó có 6 xã miền núi - Khí hậu:huyện Thủy Nguyên nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa châu Á, sát biển Đông nên chịu ảnh hưởng của gió mùa. 2.1.3. Điều kiện kinh tế- xã hội - Kinh tế: Trở về Thủy Nguyên, không chỉ với những con người xa quê lâu ngày mà ngay cả chính những người dân nơi đây cũng cảm thấy ngỡ ngàng trước sự đổi thay, phát triển nhanh chóng của vùng đất này. Nhiều công trình dân dụng mọc lên san sát, đường xá được nâng cấp, mở rộng, đời sống nhân dân ngày một cải thiện. Một chiếc áo với những gam màu mới đang khoác lên mình huyện Thủy Nguyên, mở ra một hướng phát triển mới, một diện mạo mới với vị thế của một trong những trung tâm đô thị của thành phố Cảng trong tương lai không xa theo quy hoạch điều chỉnh của thành phố Hải Phòng đến năm 2020. Tận dụng tối đa các thế mạnh của một vùng đất giàu tiềm năng kinh tế, đa dạng về ngành nghề, Thủy Nguyên đã nắm bắt thời cơ, khai thác tối đa những tiềm năng sẵn có. Trên cơ sở đó, nhanh chóng xác định ngành kinh tế mũi nhọn để đầu tư phát triển, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa bước đầu đã thu được những thành quả tốt đẹp. Trong giai đoạn 2001-2005, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 49% xuống 40%, công nghiệp xây dựng tăng từ 15% lên 30%, ngành dịch vụ cũng được điều chỉnh hợp lí hơn. Nhờ đó, năm 2005, tổng giá trị các ngành sản xuất và dịch vụ đạt 701,1 tỷ đồng, tăng 15,6% so với năm 2004, trong đó ngành nông nghiệp tăng 5,1%, ngành công nghiệp- xây dựng tăng 27%, ngành dịch vụ tăng 23%. Trong nông nghiệp, diện tích cây lúa năng suất thấp giảm dần, một phần chuyển sang nuôi trồng thủy sản, thay đổi cơ cấu trà lúa theo hướng tăng diện tích cây lúa xuân muộn, mùa trung từ 28% lên 33%, đạt năng suất lúa 45,5 tạ/ha/vụ, đảm bảo diện tích trên 2000 ha rau màu, trong đó diện tích rau đạt 1.320 ha với sản lượng 22.586 tấn. Công tác chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp bước đầu có những kết quả đáng ghi nhận. Mặc dù, diện tích sản xuất nông nghiệp giảm dần, nhưng do tích cực đưa giống cây trồng,vật nuôi có năng suất,chất lượng cao vào sản xuất, giá trị sản xuất ngành trồng trọt năm 2005 tăng 24% so với năm 2002. Chăn nuôi gia súc, gia cầm được chú trọng, đàn lợn gia cầm tăng theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển mạnh về số lượng và quy mô. Trong

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNNo05.docx
Tài liệu liên quan