Chuyên đề Thực tập - Tình hình tỷ giá hối đoái ở Việt Nam

 

Tỷ giá hối đoái là một biến số kinh tế quan trọng có tác động tới nhiều mặt của hoạt động kinh tế. Nó ra đời từ hoạt động ngoại thương và quay trở lại tác động lên hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân thương mại , cán cân xuất nhập khẩu của một quốc gia. Xây dựng thành công chính sách điều hành tỷ giá thích hợp là một vấn đề vô cùng khó khăn phức tạp, nghin cứu vấn đề này là một đề tài cấp thiết trong thời gian gần đây.

 

doc28 trang | Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1061 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Thực tập - Tình hình tỷ giá hối đoái ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường ĐH. Kỹ Thuật Công Nghệ TP. Hồ Chí Minh ˜&™ ĐỀ TÀI : GV: Trần thị Trang Nhóm : 6 Vũ Thị Nga ( nhóm trưởng) Trần Thị Thuỳ Ngân Lê Thị Thuỷ Tiên Hoàng vĩnh Khang Huỳnh Trung Nhân NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN MỞ ĐẦU Tỷ giá hối đoái là một biến số kinh tế quan trọng có tác động tới nhiều mặt của hoạt động kinh tế. Nó ra đời từ hoạt động ngoại thương và quay trở lại tác động lên hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân thương mại , cán cân xuất nhập khẩu của một quốc gia. Xây dựng thành công chính sách điều hành tỷ giá thích hợp là một vấn đề vô cùng khó khăn phức tạp, nghin cứu vấn đề này là một đề tài cấp thiết trong thời gian gần đây. Góp phần vào những nghin cứu ,phân tích , trong đề tài này nhóm em cũng xin được trình bày những suy nghĩ của mình về một vấn đề đa dạng, phức tạp và vô cùng quan trọng trong đề tài “ tình hình tỷ giá hối đoái tại Việt Nam hiện nay”. Thực trạng điều hành tỷ giá ở Việt Nam thời gian qua là một nội dung quan trọng. Khái quát các chế độ tỷ giá hối đoái tại Việt Nam trong thời gian qua và làm sang tỏ những ưu nhược điểm từ đó có những điều chỉnh thích hợp. Với những kiến thức còn thiếu sót, cơ sỡ số liệu thống kê không đầy đủ và tính púc tạp của đề tài nên trong bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết mong được sự góp ý của cố và các bạn. PHỤ LỤC I - VAI TRÒ VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 1 . Vai trò 1 . Nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái 2 Cung cầu ngoại tệ 2 Cán cân thương mại: 3 Đầu tư nước ngoài : 3 Lạm phát 4 Tâm lý 4 II - THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM: 5 1 . Gai đoạn trước năm 1988 5 2 . Giai đoạn từ 1989-1992 7 3. Giai đoạn từ 92 đến khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á (tháng 7 năm 1997) 9 4. Giai đoạn từ tháng 7 /1997 đến ngày 26/2/1999 15 5. giai đoạn từ sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực đến trước khi Việt Nam gia nhập WTO (1999-2006) 18 6. Thời kỳ từ tháng 11/2006 – nay (Từ khi gia nhập WTO ) .18 III – ĐÁNH GIÁ: 21 IV – KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP 22 1. Kiến nghị : 22 2 . Giải pháp 22 V – KẾT LUẬN : 23 Biểu đồ 1: Tỷ lệ lạm phát từ 1980 đến 1987(nguồn : 7 Biểu đồ 2 : thống kê tỷ giá hối đoái từ 1989 – 1992 của Ngân hang Ngoại Thương Việt Nam 8 Biểu đồ 3 : tình hình lạm phát từ 1989 đến 1992 9 Biểu đồ 4: tỷ giá danh nghĩa qua các năm (1992-1996) – số liệu : ngân hang nhà nước Việt Nam 11 Biểu đồ 5 : tỷ lệ lạm phát từ 1993 đến 1997 12 Biểu đồ 6: tỷ giá từ 13/10/1997 đến 15/1/1999 ( số liệu – ngân hàng nhà nước Việt Nam) 14 Biểu đồ 7 : tỷ lệ tiền gửi USD / tổng tiền gửi 15 Biểu đồ 8 : tỷ lệ các khoản vay ngoại tệ / trên tổng dư nợ 16 Biểu đồ 9 : tỷ lệ lạm phát từ 1997 đến 2006 17 Biểu đồ 10 : tỷ giá VND/ USD bình quan trên thị trường liên ngân hàng từ 26/12/2006 đến 4/1/2007 19 Biểu đồ 11: Tỷ giá VND/USD do ngân hàng thương mại (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam) 19 Bảng 1 : Tỷ giá hối đoái các tháng từ 12/2009 đến 4/2010 (ngân hàng Công Thương Việt Nam 20 VAI TRÒ VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Vai trò : Tỷ giá có vai trò quan trọng trong việc xóa bỏ biên giới QG về tiền tệ, góp phần thúc đẩy giao lưu KT giữa các nước Tỷ giá có vai trò trong điều chỉnh kinh tế vĩ mô Điều chỉnh các hoạt động kinh tế vĩ mô của nhà nước Tăng cường sức cạnh tranh cho hàng hóa, trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tham gia vào các thị trường vốn, tiền tệ quốc tế của quốc gia Tỷ giá hối đoái phản ánh quan hệ cung cầu ngoại tệ của một quốc gia. Tỷ giá hối đoái đóng vai trò chính trong thương mại quốc tế, nó cho phép chúng ta so sánh giá cả của các hàng hóa và dịch vụ sản xuất trên các nước khác nhau. Giá hàng xuất khẩu của một nước sẽ được tính theo giá của nước nhập khẩu nếu biết tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của hai nước. “Khi đồng tiền của một nước mất giá, người nước ngoài nhận ra rằng, giá hàng xuất khẩu của nước này rẻ đi, và người dân trong nước nhận thấy hàng nhập từ nước ngoài đắt lên. Sự lên giá có hiệu quả ngược lại: người nước ngoài sẽ phải trả nhiều hơn cho sản phẩm của nước này, và người dân trong nước phải trả ít hơn cho hàng hóa của nước ngoài”. Chính vì điều này mà tỷ giá hối đoái được sử dụng để điều tiết chính sách khuyến khích xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hóa của một nước. Tỷ giá hối đoái là giá của đồng tiền nước này được biểu hiện qua đồng tiền của nước khác. Đồng tiền ổn định và tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong chính sách tiền tệ, nó là mục tiêu của chính sách tiền tệ mà mọi quốc gia đều hướng tới. Đồng tiền ổn định và tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ tạo điều kiện cho việc duy trì, mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế trong nước và quốc tê, giúp cho nền kinh tế trong nước có điều kiện hội nhập khu vực và thế giới ngày càng mạnh mẽ hơn. Tỷ giá hối đoái chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó hai nhân tố quan trọng nhất là sức mua của đồng tiền và tương quan cung cầu ngoại tệ. Khi lạm phát tăng, sức mua đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ, làm cho tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ so với nội tệ tăng (hay tỷ giá đồng nội tệ so với ngoại tệ giảm) và ngược lại. Nếu đồng nội tệ giảm, tỷ giá hối đoái cao có tác dụng: - Kích thích các hoạt động xuất khẩu, hạ chế nhập khẩu, góp phần tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán. - Với tỷ giá hối đoái cao sẽ khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối, hạn chế các hoạt động chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, kết quả là làm cho sức mua của đồng nội tệ tăng lên. Nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái: a. Cung cầu ngoại tệ : Tỷ giá hối đoái, tức tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền cao hay thấp đựơc quyết định bởi các lực lượng thị trường, cung và cầu. Cung ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà thị trường muốn bán ra để thu về nội tệ. Cầu ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà thị trường muốn mua vào bằng các đồng nội tệ. Giá cả ngoại tệ, tỷ giá hối đoái cũng được xác định theo quy luật cung cầu như đối với các hàng hoá thông thường. Khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ sẽ làm cho giá ngoại tệ giảm, tức tỷ giá hối đoái tăng. Ngược lại, khi cầu ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ giá ngoại tệ sẽ tăng, tức tỷ giá giảm. ở vị trí cung ngoại tệ bằng cầu ngoại tệ xác định trạng thái cân bằng, không có áp lực làm cho tỷ giá thay đổi. Ta có thể hình dung cơ chế hình thành tỷ giá được hiểu thị từ khi có sự khác nhau về cung và cầu ngoại tệ. Khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, lượng ngoại tệ mà thị trường cần bán ra nhiều hơn lượng ngoại tệ cần mua vào, khi đó có một số người không bán được sẽ sẵn sàng bán với mức giá thấp hơn và làm cho giá ngoại tệ trên thị trường giảm. Tư duy tương tự, khi cầu lớn hơn cung, một số người không mua được ngoại tệ sẵn sàng trả giá cao hơn và gây sức ép làm giá ngoại tệ trên thị trường tăng. Khi cung ngoại tệ bằng cầu ngoại tệ, lượng ngoại tệ mà thị trường cần mua đúng bằng lượng ngoại tệ cần bán làm cho giá ngoại tệ không đổi, thị trường cân bằng. Chúng ta có thể thấy, tỷ giá hối đoái trên thị trường luôn thay đổi b. Cán cân thương mại: Cán cân thương mại ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Cấn cân thương mại của một nước là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu. Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ. Để tiếp tục công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua hàng hoá dịch vụ trong nước xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường cung ngoại tệ sẽ tăng, làm tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị trường. Hành động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tác động của hai hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái cuối cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu của các nhân tố, đó chính là cán cân thương mại. Nếu một nước có thặng dư thương mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ giảm, đồng nội tệ lên giá. Khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ giảm giá. c. Đầu tư nước ngoài : Đầu tư ra nước ngoài, có ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái cư dân trong nước dùng tiền mua tài sản ở nước ngoài, có thể là đầu tư trực tiếp (xây dựng nhà máy, thành lập các doang nghiệp...) hay đầu tư gián tiếp (mua cổ phiếu, trái phiếu...). Những nhà đầu tư này muốn thực hiện hoạt động kinh doanh trên cần phải có ngoại tệ. Họ mua ngoại tệ trên thị trường, luồng vốn ngoại tệ chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái sẽ tăng. Ngược lại một nước nhận đầu tư từ nước ngoài, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước, làm cho cung ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái giảm. Đầu tư ra nước ngoài ròng là hiệu số giữa luồng vốn chảy ra và luồng vốn chảy vào một nước. Khi đầu tư ra nước ngoài ròng dương, luồng vốn chảy vào trong nước nhỏ hơn dòng vốn chảy ra nước ngoài,tỷ giá hối đoái tăng. Tỷ giá hối đoái sẽ giảm trong trường hợp ngược lại, đầu tư ra nước ngoài ròng âm. Theo quy luật tối ưu hoá, luồng vốn sẽ chảy đến nơi nào có lợi nhất, tức là hiệu suất sinh lời cao nhất. Một nền kinh tế sẽ thu hút được các luồng vốn đến đầu tư nhiều hơn khi nó có môi trường đầu tư thuận lợi, nền chính trị ổn định, các đầu vào sẵn có với giá rẻ, nguồn lao động dồi dào có tay nghề, thị trường tiêu thụ rộng lớn, lãi suất cao và sự thông thoáng trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Chính phủ. d. Lạm phát : Lạm phát ảnh hưỏng đến tỷ giá hối đoái. Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái không đổi, hàng hoá dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nứơc ngoài trong khi hàng hoá dịch vụ nước ngoài rẻ hơn trên thị trường trong nứơc. Theo quy luật cung cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút, cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái tăng. Như vậy lạm phát ảnh hưởng đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị trưòng tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Trong trường hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối đoái tăng. e. Tâm lý : Nhân tố cuối cùng và cũng là nhân tố quan trọng nhất tác động đến tỷ giá hối đoái đó là tâm lý số đông. Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại tệ là các tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. Hoạt động mua bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động đó lại bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Điều này giải thích tại sao, giá ngoại tệ hiện tại lại phản ánh các kỳ vọng của dân chúng trong tương lai. Nếu mọi ngưòi kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai, mọi người đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay trong hiện tại; Mặt khác, giá ngoại tệ rất nhậy cảm với thông tin cũng như các chính sách của chính phủ. Nếu có tin đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt thương mại, mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ giảm nhanh chóng. Trong thực tế, tỷ giá hối đoái bị chi phối đồng thời bởi tất cả các yếu tố trên với mức độ mạnh yếu khác nhau của từng nhân tố, tuỳ vào thời gian và hoàn cảnh nhất định. Việc tách rời và lượng hoá ảnh hưởng của từng nhân tố là việc làm không thể. Các nhân tố trên không tách rời mà tác động tổng hợp, có thể tăng cường hay át chế lẫn nhau, đến tỷ giá hối đoái làm cho tỷ giá hối đoái luôn biến động không ngừng . THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM: Gai đoạn trước năm 1988. Trước năm 1986 nền kinh tế nước ta trong tình trạng kế hoạch hoá tập trung cao độ mọi vấn đề sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai hoàn toàn là do ý muốn chủ quan của các nhà hoạch định chính sách. Nền kinh tế lâm vào khủng hoảng trì trệ, đòi hỏi một sự đổi mới kịp thời và toàn diện. trong thời kỳ này quan hệ ngoại thương của nước ta chỉ bó hẹp với những nước XHCN, ngoài đồng Rup chuyển nhượng là chính dự trữ ngoại hối của chúng ta rất ít các đống tiền tự do chuyển đổi khác. Ngoài ra ,trên thị trường, quan hệ cung cầu, các yếu tố ảnh hưởng đến nền kinh tế không được xem xét. Trong giai đoạn này Việt Nam áp dụng chính sách tỷ giá cố định và đa tỷ giá Đây là một khó khăn rất lớn của chúng ta trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Thời kỳ này, đất nước bị đặt trong tình trạng rất nhiều thử thách , lạm phát phi mã, cán cân thanh toán bị mất cân bằng nghiêm trọng. Yêu cầu của nền kinh tế lúc này là cần nhanh chóng có một đường lối đổi mới đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoãng và suy thoái kéo dài. Năm 1986 , bắt đầu công cuộc đổi mới kinh tế toàn diện. Cơ chế quan lưu bao cấp bị xoá bỏ, bắt đầu định hướng nền kinh tế thị trường. Toàn bộ các tổ chức kinh tế được “cưởi trói” hoàn toàn tự chủ về tài chính và sản xuất, tạo ra một sinh khí mới cho nền kinh tế quốc gia. Tỷ lệ lạm phát từ năm 1980 đến 1987 Năm Lạm phát, giá tiêu dùng trung bình Thay đổi phần trăm 1980 25.156 1981 69.6 176.67 % 1982 95.401 37.07 % 1983 49.487 -48.13 % 1984 64.897 31.14 % 1985 91.602 41.15 % 1986 453.538 395.12 % 1987 360.357 -20.55 % 1988 374.354 3.88 % Biểu đồ 1: Tỷ lệ lạm phát từ 1980 đến 1987 (nguồn: 2. Giai đoạn từ 1989-1992. Giai đoạn này có thể được coi là cái mốc quan trọng trong phát triển TGHĐ ở nước ta khi quan hệ ngoại thương được bao cấp với các thị trường truyền thống Đông Âu và Liên Xô(cũ) bị gián đoạn , khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng dola Mỹ. trong giai đoạn này nền kinh tế chịu tác động của chính sách thả nổi tỷ giá. Tỷ giá hối đoái VND/USD biến động mạnh theo xu hướng giá trị đồng dola Mỹ tăng liên tục kèm theo các cơn “sốt”, các đột biến với biên độ rất lớn ( Từ cuối năm 1990 trở đi ). Tình trạng leo thang của giá đồng dola đã kích thích tâm lý nắm giữ đồng dola , nhằm đầu cơ ăn chênh lệch giá.Dẫn đến Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại trở nên khan hiếm hơn. Trong giai đoạn này Ngân hàng không kiểm soát được lưu thông tiền tệ , mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại hiệu quả. Trong các năm 1991-1992 do ảnh hưởng của sự đổ vỡ các mối quan hệ ngoại thương với Liên Xô và Đông Âu , nhập khẩu giảm sút một cách nghiêm trọng (năm 1991 là 357.0 triệu USD đến năm 1992 chỉ còn 91,1 triệu USD). Các doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu theo hình thức trả chậm và phải chịu một lãi suất cao do thiếu dola , dola đã thiếu lại càng thiếu dẫn đến các cơn sốt dola theo chu kỳ vào giai đoạn này. Đến đầu năm 1992 Chính phủ đã có một số cải cách trong việc điều chỉnh tỷ giá ( như buộc các doanh nghiệp có dola phải gửi vào ngân hàng , bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá theo nhóm hàng..) làm cho giá dola bắt đầu giảm ( cuối năm 1991 tỷ giá VND/USD có lúc lên tới 14500 đến tháng 3/1992chỉ còn 11550 VND/USD và tiếp tục giảm cho đến cuối năm 1992. Thời gian Tỷ giá chính thức Tỷ giá tự do Chênh lệch Giá trị 1988 3000 5000 2000 1989 3900 4100 200 1990 6500 700 500 1991 14194 14420 226 1992 10407 10520 50 Biểu đồ 2 : thống kê tỷ giá hối đoái từ 1989 – 1992 của Ngân hang Ngoại Thương Việt Nam Tỷ lệ làm phát cũng giảm dần Năm Lạm phát, giá tiêu dùng trung bình Thay đổi phần trăm 1989 95.77 -74.42 % 1990 36.031 -62.38 % 1991 81.817 127.07 % 1992 37.705 -53.92 % Biểu đồ 3 : tình hình lạm phát từ 1989 đến 1992 3. Giai đoạn từ 1992 đến khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á (tháng 7 năm 1997). Trước những tồn tại của việc”thả nổi” mất kiểm soát tỷ giá dẫn đến Việt Nam nhập siêu liên tục do nhu cầu phát triển trong nước nhập khẩu trang thiết bị…đó là lý do cho chính phủ quyết định chuyển sang chế độ tỷ giá hối đoái cố định, chính phủ đã thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá với những nội dung cụ thể sau: - Quy định biên độ giao động của tỷ giá với tỷ giá chính thức được công bố bởi Ngân hàng nhà nước (công bố tỷ giá chính thức mỗi ngày và xác định rõ biên độ giao động); Tăng cường sức mạnh của các biện pháp hành chính mà cụ thể là buộc các đơn vị kinh tế (trước hết là đơn vị kinh tế quốc doanh) có ngoại tệ phải bán cho Ngân hàng theo tỷ giá nhất định. - Bãi bỏ hoàn toàn hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa ngân sách với các đơn vị kinh tế tham gia vào hoạt động ngoại thương. Thay vào đó là việc áp dụng tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước công bố. Chính phủ đã tăng cường công tác thông tin,cho công khai hóa một cách nhanh chóng và chính xác chỉ số kinh tế quan trọng như tỷ giá chính thức, tỷ giá thị trường, chỉ số giá, sự biến động giá vàng…Nhờ vậy hạn chế được hoạt động đầu cơ, giải tâm lý hoang mang…Chính phủ cũng chú trọng tăng cường thực lực kinh tế cho hoạt động can thiệp vào tỷ giá bằng cách gia tăng mạnh mẽ dự trữ ngoại tệ,lập quỹ bình ổn giá. Đẩy mạnh hoạt động của trung tâm giao dịch ngoại tệ ( trung tâm giao dịch ngoại tệ tại trực tiếp Hồ Chí Minh được mở cửa từ tháng 8 năm 1991 ) để cho các đơn vị kinh tế và các tổ chức tín dụng trao đổi , mua bán ngoại tệ với nhau theo giá tự thoả thuận, tạo ra môi trường điều kiện để cung cầu thực sự gặp nhau . Sau đó,tiến dần tới việc thành lập thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng tháng 9 năm 1994 thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thành lập nhằm mục đích hình thành thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các Ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ. Thông qua thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, Nhà nước sử dụng quỹ điều hòa ngoại tệ với tư cách là người mua, người bán cuối cùng để can thiệp thị trường một cách có hiệu quả nhằm thực hiện chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá của Nhà nước. 12/1992 12/1993 12/1994 12/1995 12/1996 Tỷ giá hối đoái danh nghĩa 10720 10841 11004 11021 11040 Biểu đồ 4: tỷ giá danh nghĩa qua các năm (1992-1996) – số liệu : ngân hang nhà nước Việt Nam Tính đến cuối năm 1992, đầu năm 1993, những biện pháp can thiệp đã đem lại một kết quả như mong đợi, nạn đầu cơ ngoại tệ về cơ bản đã được giải toả, những đồng ngoại tệ đã được hướng mạnh và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tình hình cung - cầu ngoại tệ đã được cải thiện với cùng kỳ trong những năm trước đó, Dola có xu hướng giảm giá. Mức tỷ giá trên thị trường chợ đen chỉ giao động trong phạm vi từ 10200 đến 10400 đồng Việt Nam ăn 1 Đôla Mỹ. Thậm chí có lúc tỷ giá tụt xuống ở mức USD = 9750 VND. Mức tỷ giá trên thị trường chính thức cũng không có sự chênh lệnh nhiều so với tỷ giá trên thị trường chợ đen, là minh chứng cho thấy, mặc dù có sự can thiệp mạnh trở lại của nhà nước, nhưng tỷ giá vấn được xác định tương đối phù hợp với quy luật của thị trường. Chính việc đồng VNĐ bị đánh giá cao đã gây tổn hại đến năng lực cạnh tranh trong thương mại quốc tế của hàng hóa - dịch vụ Việt Nam, làm kìm hãm xuất khẩu và đẩy mạnh nhập khẩu, tạo sức ép lớn với các ngành sản xuất trong nước. Tỷ lệ lạm phát giảm khá nhiều : Năm Lạm phát, giá tiêu dùng trung bình Thay đổi phần trăm 1993 8.379 -77.78 % 1994 9.483 13.18 % 1995 16.926 78.49 % 1996 5.593 -66.96 % 1997 3.095 -44.66 % Biểu đồ 5 : tỷ lệ lạm phát từ 1993 đến 1997 Nói chung tình hính cung cầu ngoại tệ và TGHĐ luôn được ổn định trong suốt thời gian dài từ năm 1993 đến đầu năm 1997. 4. Giai đoạn từ tháng 7 /1997 đến ngày 26/2/1999 Ngày 2/7/1997 Thái lan phải "thả nổi" TGHĐ kết thúc gần 14 năm duy trì một chế độ cố định và cũng là ngày đánh dấu làm nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông nam á với một ảnh hưởng rộng khắp trên phạm vi toàn thế giới. Việt Nam cũng không thể tránh khỏi cuộc khủng hoảng. Một loạt các đồng tiền của các nước bạn hàng bị mất giá so với USD. Trong chính sách tỷ giá cố định ở thời kỳ trước đồng VNĐ đang bị định giá cao thì nay lại càng tăng giá hơn. Xét trên góc độ vĩ mô, sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông nam á đối với nền kinh tế Việt Nam tạo nên một cơn sốc rộng khắp trên các mặt của nền kinh tế chẳng hạn như: Thứ nhất, đối với lĩnh vực tài chính Ngân hàng - Tạo sức ép giảm giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại tệ - Tác động xấu đến hoạt động giai dịch ngoại tệ - Tăng gánh nặng nợ cho các doanh nghiệp - Gây sức ép đối với lãi suất đồng tiền Việt Nam và đe doạ sự mất ổn định của hệ thống Ngân hàng. -Tác động đến xuất khẩu: tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực châu á - Thái Bình Dương chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch, riêng các nước ASIAN chiếm 23% tổng kim ngạch trước khi sảy ra cuộc khủng hoảng nên cuộc khủng hoảng tất yếu sẽ làm giảm xuất khẩu của Việt Nam. - Tác động đến nhập khẩu: Sự mất giá của đồng tiền trong khu vực đã kích thích gia tăng nhập khẩu, trước hết là nhập khẩu tiểu ngạch từ Thái lan và hàng trung chuyển từ Campuchia, Lào và Việt Nam. Thứ hai , đối với lĩnh vực đầu tư: Do tỷ giá tăng, lãi suất tăng, thị trường hàng hoá diễn biến phức tạp cùng với dự đoán không tốt trong tương lai tất yếu sẽ là các doanh nghiệp hạn chế đầu tư và Ngân hàng cũng rất dè dặt khi cho vay. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có xu hướng giảm ngay từ trước khi nổ ra cuộc khủng hoảng, sau khi cuộc khủng hoảng, nhiều dự án đầu tư dở dang bị đình lại, nhiều phương án đầu tư mới tạm hoãn và điều này cũng thật rễ hiểu khi mà các quốc gia bị khủng hoảng nặng nề lại là những quốc gia đang dẫn đầu danh sách những quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam. Thứ ba, đối với thu chi ngân sách nhà nước. Gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên liệu tăng lên cùng với sụt giảm của thị trường tiêu dùng lẫn thị trường xuất khẩu đã làm nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ từ đó sẽ ảnh hưởng xấu đến nguồn thu ngân sách. Bên cạnh đó, sự xa sụt của nền kinh tế tất yếu đòi hỏi phải ra tăng một số khoản chi. Báo cáo của Ngân hàng nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng Ngân hàng trong 6 tháng đầu năm 1998 đã chỉ rõ " Thu ngân sách 6 tháng thực hiện đạt 30% so với kế hoạch năm. Chi ngân sách khó khăn hơn mức bội thu bội chi có xu hướng gia tăng". Thứ tư , Tăng trưởng kinh tế dự trữ quốc gia và nợ nước ngoài. Khủng hoảng khu vực đã gián tiếp ảnh hưởng đến cán cân vãng lai, đến đầu tư của nước ngoài.Từ đó, gây ra khó khăn cho sự phát triển kinh tế nói chung (tốc độ tăng trưởng 5,8% trong năm 1998 là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 1989). Nề kinh tế khó khăn sẽ tác động suy giảm đến tổng cầu, giảm thu nhập và tiêu dùng của cư dân. thị trường suy yếu một phần sẽ tác động ngay lập tức đến các Ngân hàng thương mại. Dự trữ quốc gia tất yếu sẽ phải chịu sức ép suy giảm một phần do nguồn cung ngoại tệ giảm bớt, một phần do đáp ứng nhu cầu ngoại tệ thiết yêú cho nền kinh tế và hỗc trọ cho đồng Việt Nam vào những lúc cao điểm. Trong bối cảnh đó chính sách TGHĐ nước ta đã có nhiều thay đổi nhằm hạn chế những tác động của cuộc khủng hoảng với các mốc chính như sau: Ngày 13/10/1997 thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định mở rộng biên độ giao dịch nên mức 10%. Ngày 16/2/1998 Ngân hàng nhà nước quyết định nâng tỷ giá chính thức từ 1USD = 11175VND lên mức 1USD = 11800VND, tăng 5,6%, ngày 7/8/1998, Ngân hàng nhà nước quyết định thu hẹp biên độ giao dịch xuống còn 7% đồng thời nâng tỷ giá chính thức lên 1USD = 12998 là 1USD = 12992 VND, ngày 6/11/1998 là 1USD = 12989VND,ngày 26/11/98 là1USD = 12987VND… cho đến ngày 15/1/1999 thì tỷ giá chính thức chỉ còn ở mức 1USD = 12980VND. Biểu đồ 6: tỷ giá từ 13/10/1997 đến 15/1/1999 ( số liệu – ngân hàng nhà nước Việt Nam) 5. giai đoạn từ sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực đến trước khi Việt Nam gia nhập WTO (1999-2006) Trong giai đoạn này, kết quả tích cực do việc điều chỉnh tỷ giá mang lại là nó đã hạn chế được phần nào nhập khẩu và giảm nhập siêu một cách rõ rệt. Nhưng đồng thời,việc điều chỉnh tỷ giá đã làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài. Tính đến tháng 10/1998,so với mức nợ nước ngoài 22 tỷ USD, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái đã làm cho nó tăng thêm 42,86 triệu USD, cộng với 17,86 triệu USD tiền lãi, tổng cộng là 60,72 triệu USD đã gây khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp có vốn vay nước ngoài, thậm chí đẩy thêm nhiều doanh nghiệp vào tình trạng thua lỗ. Đây chính là cái giá phải trả khi duy trì lựa chọn chính sách tỷ giá thiên về cố định bằng cách duy trì ổn định tỷ giá quá lâu. Và một khi thời gian duy trì cố định càng dài thì sự đánh đổi càng lớn cho các nhà hoạch định chính sách. Do bị tác động bởi khủng khoảng tài chính của khu vực Đông Á, khi đó Việt Nam buộc phải phá giá VND để hạn chế những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam. Đồng thời, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lãi suất VND có xu hướng giảm, cộng thêm lãi suất trên thị trường quốc tế có xu hướng tăng nên xảy ra hiện tượng chuyển dịch từ VND sang USD, tỷ lệ tiền gửi USD / tổng tiền gửi tăng từ mức 33% năm 1997 lên mức 36,6% năm 2000 và 41% năm 2001. Biểu đồ 7 : tỷ lệ tiền gửi USD / tổng tiền gửi Ngược lại thì các khoản vay bằng ngoại tệ/ trên tổng dư nợ lại có xu hướng giảm từ mức năm 1997: 31,3%, năm 1998: 25,4,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctinh_hinh_ty_gia_hoi_doai.doc
Tài liệu liên quan