Cơ sở ngôn ngữ học - Chương VII: Cơ sở ngữ pháp học

1. Khái niệm ngữ pháp.

Thuật ngữ ngữ pháp(tiếng Anh: grammar; tiếng Pháp: grammaire; tiếng Đức: grammatik; tiếng Nga:

; tiếng Tây Ban Nha: grammática) xuất hiện rất sớm trong ngôn ngữ học thế giới. Thông thường, khái niệm

ngữ phápthường được hiểu theo ba nghĩa sau đây:

1) Toàn bộ quy tắc biến hóa từ, cấu tạo từ, quy tắc liên kết các từ thành những đơn vị ngôn ngữ bậc

cao như cụm từ và câu.

2) Cơ cấu ngữ pháp của một ngôn ngữ. Với ý nghĩa này ngữ pháp được quan niệm như là bộ phận cấu

thành nên một ngôn ngữ.

3) Chỉ một phân ngành trong ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu về các hình thức biến hóa từ, cấu trúc

từ, cấu tạo của cụm từ và câu. Theo cách hiểu này, đó chính là ngữ pháp học. Trong giáo trình này, ngữ pháp

được hiểu theo nghĩa thứ nhất, tức là cách hiểu hẹp, là đối tượng nghiên cứu của ngữ pháp học.

pdf63 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 633 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Cơ sở ngôn ngữ học - Chương VII: Cơ sở ngữ pháp học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dùng khi một thực thể được quy chiếu là động vật hay bất động vật). Nhiều ngôn ngữ African khác phân biệt các danh từ giống đực với các danh từ giống cái, hoặc giữa những danh từ giống đực, giống cái với giống trung. a. Nhóm Niger-Congo. Các ngôn ngữ trong nhóm Niger-Congo có khoảng 300 triệu người nói. Nhóm này có bảy tiểu nhóm chính. Sáu tiểu nhóm trong số đó bao phủ hầu hết vùng Tây Phi và nước Cộng hòa Trung Phi. Tiếng Bantu, một nhánh đơn của tiểu nhóm thứ bảy, được nói hầu hết ở nửa miền Nam châu Phi. Những tiểu nhóm của nhóm Niger-Congo này là tiểu nhóm Benue-Congo (bao gồm tiếng Bantu), tiểu nhóm Atlantic Tây, tiểu nhóm Mande, tiểu nhóm Voltaic, tiểu nhóm Kwa, tiểu nhóm Adamawa Tây và tiểu nhóm Kordofanian. Nhóm Niger-Congo thừa kế từ một ngôn ngữ tiền thân có niên đại 5000 năm trước. Tiểu nhóm Benue-Congo là nhánh lớn nhất của nhóm Niger-Congo. Các ngôn ngữ Bantu, một trong những nhánh của nó, có hơn 90 triệu người nói. Một số nhà ngôn ngữ học lịch sử và nhà khảo cổ học đã nêu giả thuyết rằng sự mở rộng nhanh chóng của những ngôn ngữ Bantu từ quê hương tiền Bantu (proto - Bantu) ở Cameroon và miền Đông Nigeria đã tạo thành ba làn sóng chính của sự di trú, từ 3000 năm đến 4000 năm trước đây. Nghiên cứu của họ chỉ định rằng làn sóng đầu tiên của sự mở rộng này tạo ra tiếng Bantu Bắc. Làn sóng thứ hai và thứ ba của sự mở rộng đã phát triển thành tiếng Bantu Tây và tiếng Bantu Đông. Tiếng Swahili, ngôn ngữ được nói rộng rãi nhất ở châu Phi với gần 50 triệu người, bắt nguồn từ tiếng Bantu Đông. Các ngôn ngữ Bantu khác, bao gồm tiếng Shona, tiếng Tswana, tiếng Zulu và tiếng Xhosa, được nói ở miền Nam châu Phi; tiếng Kikuyu, tiếng Kisukuma và tiếng Luo được nói ở miền Đông châu Phi; còn tiếng Kikongo, tiếng Kinyarwanda và tiếng Kirundi được nói ở miền Trung châu Phi. Các ngôn ngữ trong tiểu nhóm Atlantic Tây được nói ở vùng gần bờ biển Atlantic của châu Phi, từ Senegal đến Chad. Ngôn ngữ nổi trội của nhóm này, tiếng Fulfulde, có hơn 13 triệu người nói ở Senegal, Cameroon và Chad. Các ngôn ngữ khác trong tiểu nhóm này bao gồm tiếng Wolof ở Senegal và tiếng Temne Cơ sở ngôn ngữ học - 120 – Dương Hữu Biên Khoa Ngữ Văn ở Guinea. Các ngôn ngữ trong tiểu nhóm Mande được nói ở Senegal, Mali, Guinea, Liberia và Sierra Leone. Tiếng Bambara, được nói ở Mali, là ngôn ngữ chủ yếu trong tiểu nhóm này. Các ngôn ngữ Mande khác bao gồm tiếng Mende được nói ở Sierra Leone và tiếng Kpelle được nói ở Liberia và Guinea. Tiểu nhóm ngôn ngữ Voltaic, cũng được quy chiếu như là nhóm Gur, có nhiều người nói ở Mali, Côte d'Ivoire, Ghana, Togo, Dahomey, Nigeria và Burkina Faso. Các ngôn ngữ Kwa bao gồm tiếng Twi và tiếng Yoruba được nói ở Ghana và Nigeria tương ứng từng cái một. Tiếng Yoruba có số lượng người nói lớn nhất trong nhóm này, với hơn 22 triệu người. Các ngôn ngữ Kwa khác được nói ở Liberia, Côte d'Ivoire, Togo và Dahomey. Các ngôn ngữ của tiểu nhóm Adamawa Tây được nói ở Cameroon, Cộng hòa Dân chủ Congo (trước đây là Zaire) và Cộng hòa Trung Phi. Tiểu nhóm Kordofanian có chưa đầy 500.000 người nói ở những dãy núi Nuba của Sudan. Tiếng Moro, ngôn ngữ trong tiểu nhóm này có lượng người nói lớn nhất, khoảng 23.000 người. Đa số các ngôn ngữ trong nhóm Niger - Congo, với ngoại lệ là tiếng Swahili và tiếng Fulfulde, đều là những ngôn ngữ có tính thanh điệu. Trong các ngôn ngữ thanh điệu, ý nghĩa của cùng tập hợp các chữ cái có thể thay đổi cùng với cao độ (pitch) mà người nói phát âm chúng. Ví dụ, trong tiếng Yoruba, từ bi có nghĩa “cứu một đứa trẻ” nếu được phát âm bằng một giọng điệu trung hòa. Nhưng nếu được phát âm với một giọng điệu thấp thì nó có nghĩa là “tung lên”, và nếu được phát âm với một giọng điệu cao thì có nghĩa là “yêu cầu”. Trong tiếng Bambara, từ ba có nghĩa “dòng sông” khi được phát âm với một giọng điệu cao, và có nghĩa “con dê” khi được phát âm với một giọng điệu thấp. Các ngôn ngữ Bantu và những ngôn ngữ khác trong tiểu nhóm Benue - Congo cấu tạo các động từ bằng việc thêm những tiền tố và những hậu tố vào thân từ của một động từ. Những tiền tố được thêm vào trước thân từ của động từ chỉ định ai (chủ thể), khi nào (giai đoạn thời gian) và cái gì (đối tượng); những hậu tố được nối kết vào sau thân từ của động biểu thị các giới ngữ, các mối quan hệ nguyên nhân và dạng bị động. Ví dụ, câu tiếng Việt “Cậu ấy đang nấu ăn cho tôi” có thể được biểu thị bằng một từ đơn ananipikia trong tiếng Swahili. Trong tiếng Shona, một ngôn ngữ Bantu khác, ari kundibikira biểu thị câu tiếng Việt vừa dẫn. Thân từ động từ pik trong tiếng Swahili và bik trong tiếng Shona là cùng nguồn gốc và có thể được lưu lại dấu vết trong ngôn ngữ tiền Bantu (proto-Bantu language). Các từ khác cũng có thể để lại vết tích trong tiền ngôn ngữ Niger - Congo (Niger - Congo protolanguage). Ví dụ, từ “hôm qua” là jana trong tiếng Swahili (tiều nhóm Bantu) và ana trong tiếng Yoruba (tiểu nhóm Kwa); từ “ba” (số từ) là tatu ở tiếng Swahili, eeta trong tiếng Yoruba và ati trong ngôn ngữ Fulfulde (tiểu nhóm Atlantic Tây). Một đặc trưng quan trọng khác của các ngôn ngữ trong tiểu nhóm Benue - Congo là hệ thống phân lớp danh từ, trong đó những tiền tố và những hậu tố được nối vào thân từ của danh từ. Trong các ngôn ngữ Bantu, các danh từ thường bao gồm một tiền tố được theo sau bởi một thân từ của danh từ. Tiền tố này có thể chỉ định số, tương đương one person và people trong tiếng Anh. Trong tiếng Swahili m- đứng trước một danh từ định một (số ít), và wa- chỉ định lớn hơn một (số nhiều), chẳng hạn: mtu có nghĩa “một người” và watu “nhiều người”. Trong tiếng Zulu, sự luân chuyển số ít/số nhiều là umu/aba, và umuntu và abantu chỉ định “một người” và “nhiều người”. Trong tiếng Shona, sự luân chuyển này là mu/va, và munhu/vanhu biểu thị hoặc một hoặc hơn một. Watu của tiếng Swahili, abantu của tiếng Zulu và vanhu của Shona là những từ giống nhau và đều lưu lại vết tích trong ngôn ngữ tiền Bantu. Trong các ngôn ngữ Bantu, danh từ và những từ loại khác - chẳng hạn như các đại từ chỉ định (demonstratives) (“đây” và “đó”), các động từ và tính từ - đều trải qua những sự thay đổi về sự phù ứng (agreement), như được chỉ rõ qua các ví dụ sau đây. Câu tiếng Anh “This good chair is broken” được diễn đạt trong tiếng Swahili là kiti hiki kizuri kimevunjika; hình thái số nhiều “These good chairs are broken” trở thành viti hivi vizuri vimevunjika. Các tiền tố ki- và vi- của kiti / viki (chair/chairs) phù ứng với các đại từ chỉ định hiki / hivi (this/these), các tính từ kizuri / vizuri (good) và các động từ kimevunjika / vimevunjika (broken). Kiểu phù ứng này xuất hiện trong tất cả các ngôn ngữ Bantu. Cơ sở ngôn ngữ học - 121 – Dương Hữu Biên Khoa Ngữ Văn b. Nhóm Afro-Asiatic. Các ngôn ngữ Afro-Asiatic, trước đây được biết như là những ngôn ngữ Hamito-Semitic, là ngữ hệ cơ bản của vùng Bắc Phi và Trung Đông, gồm có khoảng 250 ngôn ngữ. Ngữ hệ Afro-Asiatic có năm nhánh, hoặc những tiểu ngữ hệ: tiểu ngữ hệ Semitic, tiểu ngữ hệ Berber, tiểu ngữ hệ Ai Cập, tiểu ngữ hệ Cushitic và tiểu ngữ hệ Chadic. Những ngôn ngữ Semitic bao gồm tiếng Ả Rập, tiếng Do Thái, tiếng Amharic (ngôn ngữ chính thức của Ethiopia), cũng như các ngôn ngữ cổ xưa như tiếng Assyro-Babylonian, hoặc tiếng Akkadian, tiếng Aramaic và tiếng Phoenician. Nhánh Ai Cập của các ngôn ngữ Afro-Asiatic gồm có tiếng Ai Cập cổ đại, kể cả pha cuối cùng của nó, tiếng Cóptic, sống sót cho đến khoảng thế kỷ thứ 14. Nhánh Berber của ngữ hệ Afro-Asiatic bao gồm tiếng Tuareg và những ngôn ngữ khác của vùng Bắc và Tây bắc châu Phi. Nhiều người nói tiếng Berber cũng nói tiếng Ả Rập, và nhiều ngôn ngữ Berber được viết theo hệ thống chữ viết tiếng Ả Rập. Các ngôn ngữ Cushitic được nói phần lớn ở Ethiopia, Somalia và Kenya. Chúng bao gồm tiếng Orominga (được nói ở Kenya và miền Nam Ethiopia), chúng được viết theo hệ thống chữ Ethiopic, còn tiếng Somali được viết theo hệ thống chữ cái La-tinh. Các ngôn ngữ Chadic được nói ở miền Tây và miền Trung châu Phi. Ngôn ngữ quan trọng nhất trong những ngôn ngữ này là tiếng Hausa, ngôn ngữ dân tộc của khu vực Bắc Nigeria và những vùng lân cận, và nó còn được dùng như là một ngôn ngữ lingua franca khu vực cho hàng triệu người nói không có ngôn ngữ dân tộc. Về mặt truyền thống, nó được viết theo hệ thống chữ viết tiếng Ả Rập, tiếng Hausa bắt đầu để được viết theo bảng chữ cái La-tinh trong suốt thế kỷ thứ 20. Các ngôn ngữ Afro-Asiatic có khoảng 200 triệu người nói ở miền Bắc châu Phi, Somalia, Ethiopia, Eritrea và khu vực xung quanh Lake Chad ở Trung Phi. Vốn từ vựng cơ bản được chia sẻ bởi các ngôn ngữ Afro-Asiatic phản chiếu một cuộc sống đồng quê, qui tụ thức ăn, vật nuôi và cây trồng. Nhóm ngôn ngữ Afro- Asiatic được chia thành năm tiểu nhóm với tổng số hơn 350 ngôn ngữ. Những tiểu nhóm này là tiếng Chadic, tiếng Berber, tiếng Semitic, tiếng Cushitic và tiếng Ai Cập. Ngôn ngữ tiền thân của nhóm này, bắt đầu tách ly thành những nhánh riêng biệt khoảng 6000 năm trước đây, được biết như là ngôn ngữ Semitic tổ tiên (ancestral Semitic). Nó cũng là tiền ngôn ngữ của những ngôn ngữ Semitic khác, như tiếng Do Thái và tiếng Ả Rập. Tiểu nhóm ngôn ngữ Chadic, bao gồm khoảng 100 ngôn ngữ với hơn 30 triệu người nói, là tiểu nhóm lớn nhất trong nhóm Afro-Asiatic. Tiếng Hausa, ngôn ngữ thiết yếu của nó, cũng là ngôn ngữ quan trọng nhất trong nhóm Afro-Asiatic. Khoảng 22 triệu người nói tiếng Hausa như một ngôn ngữ thứ nhất hoặc thành thạo như một ngôn ngữ thứ hai, và hầu hết họ đều sống ở miền Nam Nigeria và miền Bắc Niger. Tiếng Hausa cũng được dùng như là ngôn ngữ lingua franca - một ngôn ngữ dành cho thương mại và truyền thông - ở Tây Phi, đặc biệt là ở Senegal, Côte d'Ivoire và ở nhiều vùng của Libya. Tiếng Hausa đã mượn nhiều từ của những ngôn ngữ láng giềng, như tiếng Yoruba và tiếng Tuareg. Nó cũng vay mượn một số lớn các từ của tiếng Ả Rập. Các ngôn ngữ Berber có xấp xỉ 11 triệu người nói ở Bắc Phi. Ngôn ngữ nổi trội của tiểu nhóm này, tiếng Tuareg, được nói ở Morocco. Những ngôn ngữ Semitic bao gồm tiếng Amharic và tiếng Tigrinya; các nhà ngôn ngữ học đã tìm thấy vết tích chúng trong tiếng Ge'ez, một ngôn ngữ được nói ở Bắc Ethiopia từ 1000 đến 2000 năm trước đây. Tiếng Beja và tiếng Oromo chiếm được địa vị với tư cách là những ngôn ngữ thiết yếu của tiểu nhóm Cushitic, với tiếng Beja được nói ở Sudan và Eritrea, còn tiếng Oromo ở Ethiopia. Tiểu nhóm Ai Cập có niên đại ít nhất 5000 năm, nhưng tiếng Ai Cập được nói chưa tới khoảng 600 năm. Nhánh cuối cùng của nó, được biết như là tiếng Coptic, còn sống sót với tư cách là ngôn ngữ nghi thức của Nhà thờ Ai Cập (liturgical language of the Coptic Church). Những ngôn ngữ trong nhóm Afr -Asiatic chia sẻ nhiều đặc tính. Một đặc tính chung là dùng phụ âm nhấn mạnh (emphatic consonant), bằng cách gia giảm độ mạnh mà người nói đặt trên một phụ âm để thay đổi ý nghĩa của những từ nhất định. Ví dụ, từ mana trong tiếng Hausa có nghĩa là “đối với chúng ta”, nhưng khi phát âm nhấn mạnh phụ âm /n/ trong mana, nó có nghĩa là “buộc phải chống lại”. Tương tự, từ hama có nghĩa Cơ sở ngôn ngữ học - 122 – Dương Hữu Biên Khoa Ngữ Văn là “đập mạnh”, nhưng nếu phát âm với việc nhấn mạnh /m/ trong hamma, nó có nghĩa là “ngáp”. Những ngôn ngữ trong nhóm này cũng phân biệt danh từ giống đực với danh từ giống cái. Những danh từ giống cái có một cách đặc trưng phụ âm một /t/ ở cuối. Ví dụ, trong tiếng Amharic, từ dành cho người đàn ông là sew và cho người đàn bà là set; giống như vậy, ligu có nghĩa là “chàng trai” và ligitu là “cô gái”. c. Nhóm Nilo - Saharan. Nhóm ngôn ngữ Nilo-Saharan bao trùm hầu hết miền Đông Sahara, thượng nguồn thung lũng sông Nile (Nile Valley), những vùng xung quanh Lake Victoria ở miền Trung Đông châu Phi và nước Cộng hòa Dân chủ Congo. Những ngôn ngữ trong nhóm này được nói bởi khoảng 11 triệu người. Nhóm ngôn ngữ Nilo - Saharan chia thành sáu tiểu nhóm: tiểu nhóm Nilotic (hoặc Chari - Nile), tiểu nhóm Songhai, tiểu nhóm Saharan, tiểu nhóm Maban, tiểu nhóm Koman và tiểu nhóm Fur. Ngôn ngữ tổ tiên được nói hàng nghìn năm trước đây ở Sahara giữa Chad và Nile. c ngôn ngữ trong tiểu nhóm này bao gồm tiếng Luo được nói ở Kenya, tiếng Masai (hoặc Maasai) được nói ở Kenya và Tanzania, và tiếng Nubian được nói dọc theo thung lũng sông Nile ở Sudan và Ai Cập. Những ngôn ngữ khác trong tiểu nhóm này được nói ở Chad, Ethiopia, Uganda, nước Cộng hòa Dân chủ Congo và nước Cộng hòa Trung Phi. Tiếng Songhai được nói dọc theo dòng sông Niger ở Mali và Niger. Tiểu mhóm Saharan gồm có tiếng Kanuri được nói ở Nigeria; tiếng Teda được nói ở miền Trung Sahara và tiếng Zaghawa được nói ở Chad lẫn Sudan. Tiếng Maban được nói ở Chad, Koman và dọc theo một phần viền giữa Ethiopia và Sudan. Tiếng Fur là tiểu nhóm nhỏ khác được nói ở tỉnh Darfur của Sudan. Các ngôn ngữ Nilo - Saharan là những ngôn ngữ thanh điệu, giống như đa số các ngôn ngữ ở nhóm Niger-Congo. Một số ngôn ngữ Nilo - Saharan thêm cả những tiền tố lẫn những hậu tố vào các động từ; các ngôn ngữ khác chỉ thêm các hậu tố. Tuy nhiên, các ngôn ngữ Nilo-Saharan không có một hệ thống phân lớp phù ứng danh từ (noun class agreement system) như những ngôn ngữ Bantu của nhóm Niger-Congo. d. Nhóm Khoisan. Nhóm các ngôn ngữ Khoisan có khoảng 12 ngôn ngữ được phân thành hai tiểu nhóm: tiểu nhóm Khoisan Nam Phi và tiểu nhóm Khoisan Đông Phi. Khoảng 78.000 người nói những ngôn ngữ này. Các ngôn ngữ của nhóm Khoisan Nam Phi bao gồm tiếng Nama và tiếng Naron, được nói ở và bao quanh Kalahari Desert của miền Bắc Bắc Phi, miền Tây Nam Botswana và Namibia. Các ngôn ngữ của nhóm Khoisan Đông Phi bao gồm tiếng Sandawe và tiếng Hadza, cả hai đều được nói ở Tanzania. Các ngôn ngữ trong nhóm này chia phần nét thuộc tính chung về các âm chắt lưỡi (clicks), được những người nói tạo ra bằng việc bập vào không khí. Một âm chắt lưỡi được tạo ra bằng cách mím chặt đôi môi rồi sau đó thả ra bằng cách bập vào không khí. Kết quả tiếng lách cách này giống như âm thanh của một nụ hôn. 2. Hệ thống chữ viết châu Phi. Ba hệ thống chữ viết mang tính chất bản địa đối với châu Phi bao gồm: hệ thống chữ viết của Nhà thờ Ai Cập cổ đại (Coptic script of ancient Egypt), hệ thống chữ viết Ge'ez của Ethiopia và hệ thống chữ viết Vai của Tây Phi. Hệ thống chữ viết của Nhà thờ Ai Cập cổ đại là hệ thống chữ viết dựa vào bảng chữ cái tiếng Hy Lạp, thay thế cho hệ thống chữ viết tượng hình hieroglyphs của người Ai Cập cổ xưa vào khoảng thế kỷ thứ ba sau Công nguyên. Hệ thống chữ viết Ge'ez, có niên đại khoảng năm 300 sau Công nguyên, được sử dụng trong tiếng Amharic, ngôn ngữ hành chính của Ethiopia. Trong hệ thống chữ viết ghi âm tiết (syllabic writing system) này, mỗi ký tự đại diện cho một âm tiết hơn là cho một âm tố đơn lẻ. Hệ thống chữ viết Vai, cũng là hệ thống chữ viết ghi âm tiết, được sử dụng ở Liberia và Sierra Leone. Nhiều ngôn ngữ African, kể cả tiếng Hausa, tiếng Swahili và tiếng Bambara, đều mượn hệ thống chữ viết Ả Rập để viết. Tuy nhiên, hệ thống chữ viết Ả Rập lại không phù hợp một cách hoàn hảo đối với việc Cơ sở ngôn ngữ học - 123 – Dương Hữu Biên Khoa Ngữ Văn viết lách trong các ngôn ngữ African. Tiếng Ả Rập chỉ có ba nguyên âm, được biểu thị về mặt ngữ âm học bằng các con chữ a, i và u, trong khi tiếng Swahili lại có năm nguyên âm: a, e, i, o và u. Ngoài ra, những phụ âm tiếng Swahili p, g, ch và v không tồn tại trong tiếng Ả Rập. Hệ thống chữ viết Ả Rập phần lớn được thay thế bằng bảng chữ cái La Mã (được sử dụng cho tiếng Anh và nhiều ngôn ngữ châu Âu), được những người truyền giáo Tín đồ Cơ đốc và những kẻ thực dân châu Âu mang tới châu Phi. 3. Nghệ thuật của giao tiếp khẩu ngữ. Truyền thống giao tiếp khẩu ngữ là một nét phổ quát trong số các ngôn ngữ African, làm dễ dàng sự truyền bá kiến thức từ nền sảm xuất này tới nền sản xuất kế tiếp. Chẳng hạn, kiến thức về việc đúc và luyện sắt, về canh tác và về qui tụ động vật... đã được chuyển tải về phương diện khẩu ngữ. Ngoài ra, những lời chào, những lời khen ngợi (eulogies), những bài thơ về sự ngợi ca (poems of praise), các câu chuyện kể, những câu tục ngữ... đã góp phần làm giàu thêm truyền thống khẩu ngữ của người dân châu Phi. Trong tất cả các nền văn hóa châu Phi, một lời chào khi gặp mặt là cả một nghệ thuật về giao tiếp khẩu ngữ. Những lời chào quay lại hay tách khỏi lượt lời đều có quan yếu cao, và luôn luôn chỉ định cương vị - tuổi tác của những người tham gia. Những hình thức chào hỏi và những cử chỉ đặc biệt đã trở thành nghệ thuật khi những người tham gia có cương vị - tuổi tác cao. Ví dụ, trong tiếng Swahili, một người thanh niên chào một người trung niên bằng từ shikamoo, có nghĩa là “Tôi giữ chân của anh”. Người thanh niên thông thường hơi cúi đầu trong khi nói shikamoo. Trong tiếng Yoruba, một người trẻ hơn cần phải sử dụng đại từ tôn vinh (honorific pronoun) E khi chào hỏi một người già hơn. Nếu người trẻ hơn này là một phụ nữ trẻ, thì cô ấy phải quỳ xuống; còn nếu là một chàng trai, anh ta phải cúi gập người. III. CÁC NGÔN NGỮ AUSTRONESIAN. 1. Giới thiệu. Các ngôn ngữ Austronesian, trước đây được gọi là các ngôn ngữ Malayo-Polynesian, là một trong những ngữ hệ lớn nhất thế giới, cả trên cơ sở của số lượng ngôn ngữ - hơn 700 - và cả trên sự lan truyền địa lý - bao phủ các quần đảo và nhiều vùng đất liền từ Madagascar ở phía Tây đến đảo Easter Island và Hawaii ở phía Đông. Tuy nhiên, các ngôn ngữ của Australia và hầu hết của New Guinea không phải là bộ phận của ngữ hệ này. 2. Phân loại. Các ngôn ngữ Austronesian được chia thành hai nhánh: nhánh Formosan gồm những ngôn ngữ được bởi khoảng 200.000 người ở Đài Loan; và nhánh Malayo-Polynesian gồm phần còn lại của những ngôn ngữ trong ngữ hệ Austronesian. Các ngôn ngữ Malayo-Polynesian Đông gồm có các ngôn ngữ của Micronesia, một số ngôn ngữ của Melanesia, và những ngôn ngữ có quan hệ gần gũi của Polynesia, chẳng hạn như tiếng Tahitian, tiếng Hawaiian, và Maori, được nói ở New Zealand. Các ngôn ngữ Malayo-Polynesian Tây bao gồm tiếng Malaysia; tiếng Java; tiếng Balinese, được nói ở Malaysia và Indonesia; tiếng Malagasy được nói ở Madagascar; các ngôn ngữ Chamic được nói ở Việt Nam và Căm-pu-chia; và tiếng Tagalog, được dựa vào tiếng Filipino, là ngôn ngữ quốc gia của Philippines. 3. Các đặc trưng. Nhìn chung, các ngôn ngữ Austronesian sử dụng nhiều phụ ngữ (các hậu tố, các trung tố, các tiền tố) ghép vào các từ cơ sở để bổ sung ý nghĩa hoặc chỉ định chức năng của trong câu. Các từ cơ sở thường có hai âm tiết. Hiện tương láy cũng được sử dụng để chỉ định số số nhiều và những sự thay đổi khác về ý nghĩa. Chẳng hạn, trong tiếng Malaysia, rumah có nghĩa là ngôi nhà, và rumah-rumah có nghĩa là những cái nhà. Các hệ thống danh từ và động từ thường phức tạp. Tiếng Java và một số ngôn ngữ khác có những hình thái lời nói cho những tình trạng xã hội đặc biệt (chẳng hạn như không hình thức hoặc kính trọng). Các ngôn ngữ Cơ sở ngôn ngữ học - 124 – Dương Hữu Biên Khoa Ngữ Văn Austronesian cũng được viết hoặc theo bảng chữ cái La Mã hoặc theo những bảng chữ cái dựa trên hệ thống chữ viết tiếng Ả Rập và tiếng Ấn Độ. Các từ tiếng Anh có gốc gác Austronesian bao gồm taboo (điều cấm kỵ), tattoo (hình xăm trên da) và ukelele (một loại đàn) (từ tiếng Polynesian); amok (lung tung), gingham (vải sọc trắng) và kapok (bông gạo) (từ tiếng Malaysia); batik (cách in vải, vải in) và junk (rác thải) (từ tiếng Java); và boondocks (từ tiếng Tagalog, hoặc tiếng Philipino, bundok, nghĩa là “núi”). IV. CÁC NGÔN NGỮ ASTRO-ASIATIC. Các ngôn ngữ Austro-Asiatic là ngữ hệ quan trọng có ba tiểu ngữ hệ: tiểu ngữ hệ Munda, được nói bởi vài triệu người ở Đông Ấn Độ; tiểu ngữ hệ Nicobarese, với một vài nghìn người nói ở quần đảo Nicobar; và tiểu ngữ hệ Mon-Khmer, được chia thành 12 nhánh với gần 100 ngôn ngữ được nói bởi khoảng 35 tới 45 triệu người ở Đông Nam Á. Trong số các ngôn ngữ Mon-Khmer là tiếng Khmer, ngôn ngữ quốc gia của Căm- pu-chia; tiếng Mon, một ngôn ngữ có quan hệ gần gũi được nói bên ở các phần của Myanmar (trước đây được biết như là Burma) và Thailand; và tiếng Việt. Các ngôn ngữ Munda là những ngôn ngữ đa âm và khác với các ngôn ngữ Austro-Asiatic khác về cấu tạo từ và cấu trúc câu của chúng. Trong tiểu ngữ hệ Mon - Khme, tiếng Mon và tiếng Khmer đã vay mượn nhiều từ từ những ngôn ngữ Sanskrit và tiếng Pali Ấn Độ. Trong nhánh Việt-Mường của tiểu ngữ hệ Mon- Khmer, tiếng Việt chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tiếng Trung Quốc; nó là ngôn ngữ đơn âm và có một hệ thống thanh điệu phức tạp (6 thanh), như từng xảy ra với các ngôn ngữ Việt – Mường khác. Một vài ngôn ngữ Mon- Khmer khác có hệ thống thanh điệu đơn giản; tuy nhiên, nhiều nét khác nhau chung hơn là những sự phân biệt về phẩm chất nguyên âm - breathy (giọng thở), creaky (giọng thé), hoặc trung hòa. Các hậu tố không tìm thấy trong các ngôn ngữ Mon-Khmer, nhưng các tiền tố và các trung tố thì phổ biến. Trong nhiều câu, các tiểu từ kết thúc có thể chỉ định thái độ của người nói, và những bổ nghĩa tố (modifiers) đặc biệt được gọi là các yếu tố biểu cảm (expressives) chuyển tải những hình ảnh về màu sắc, âm thanh hay sự cảm nhận. Một số ngôn ngữ thiếu vắng các phụ âm tắc hữu thanh (voiceled stops) chẳng hạn như g, d, và b. Các từ có thể kết thúc bằng những phụ âm bị ngạc hóa (palatized) chẳng hạn như . Các âm tố khu biệt khác bao gồm các âm nổ vào (imploded) d và b, được tạo ra bằng cách hút hơi thở. Các ngôn ngữ của ngữ hệ Austro - Asiatic, được nói ở Nam Á, bao gồm ba nhóm: nhóm Mon-Khmer, nhóm Nicobarese và nhóm Munda. Các ngôn ngữ được nói một cách rộng rãi nhất trong ngữ hệ này là tiếng Khmer, tiếng Mon và tiếng Việt. Một số ngôn ngữ của ngư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhxhvh0019_p2_4549.pdf