Đánh giá đặc tính tương đồng giữa giải phẫu thần kinh và trầm cảm sau đột quỵ nhồi máu não cấp

Mở đầu: Trầm cảm là một trong những hậu quả quan trọng và thường gặp nhất sau đột quỵ nhồi máu não.

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về trầm cảm sau đột quỵ được báo cáo, nhưng mối liên hệ giữa trầm cảm sau đột

quỵ nhồi máu não và vị trí tổn thương vẫn chưa được sáng tỏ.

Mục tiêu: Xác định tần suất trầm cảm sau đột quỵ, mối liên quan giữa trầm cảm sau đột quỵ nhồi máu não

cấp và vị trí tổn thương.

Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, với 92 bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não, nhập viện liên tiếp

nhau, đươc đánh giá trầm cảm sau khởi phát đột quỵ 2 tuần dựa trên tiêu chuẩn DSM‐IV và thang điểm Beck.

Vị trí san thương được phát hiện trên CT scan hoặc MRI.

pdf6 trang | Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 485 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đánh giá đặc tính tương đồng giữa giải phẫu thần kinh và trầm cảm sau đột quỵ nhồi máu não cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 488 ĐÁNH GIÁ ĐẶC TÍNH TƯƠNG ĐỒNG GIỮA GIẢI PHẪU   THẦN KINH VÀ TRẦM CẢM SAU ĐỘT QUỴ NHỒI MÁU NÃO CẤP  Lê Văn Tuấn*, Lê Cao Thái**  TÓM TẮT  Mở đầu: Trầm cảm là một trong những hậu quả quan trọng và thường gặp nhất sau đột quỵ nhồi máu não.  Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về trầm cảm sau đột quỵ được báo cáo, nhưng mối liên hệ giữa trầm cảm sau đột  quỵ nhồi máu não và vị trí tổn thương vẫn chưa được sáng tỏ.  Mục tiêu: Xác định tần suất trầm cảm sau đột quỵ, mối liên quan giữa trầm cảm sau đột quỵ nhồi máu não  cấp và vị trí tổn thương.   Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, với 92 bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não, nhập viện liên tiếp  nhau, đươc đánh giá trầm cảm sau khởi phát đột quỵ 2 tuần dựa trên tiêu chuẩn DSM‐IV và thang điểm Beck.  Vị trí san thương được phát hiện trên CT scan hoặc MRI.  Kết quả: 34 bệnh nhân trầm cảm theo tiêu chuẩn DSM‐IV, trong đó có 21 bệnh nhân mức độ nhẹ (61,8%),  8 bệnh nhân mức độ trung bình (23,5%), 5 bệnh nhân mức độ nặng (14,7%). Tất cả bệnh nhân dưới 45 tuổi đều  bị trầm cảm. Không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa vị trí tổn thương não và trầm cảm sau đột quỵ  nhồi máu não.  Kết luận: Những bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não, đặc biệt là dưới 45 tuổi nên đánh giá đầy đủ để phát  hiện và điều trị sớm những triệu chứng trầm cảm nhằm cải thiện dự hậu sau đột quỵ.  Từ khóa: Trầm cảm‐ Đột quỵ thiếu máu não‐Vị trí tổn thương‐ Hình ảnh học thần kinh.  ABSTRACT  TO ASSESS SIMILAR CHARACTERISTICS BETWEEN NEUROANATOMICAl   AND DEPRESSION AFTER ACUTE ISCHEMIC STROKE  Le Van Tuan, Le Cao Thai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 488 ‐ 493  Background:  Poststroke  depression  is  one  of  the most  frequent  and  important  consequences  of  stroke.  Although many studies of depression after stroke have been reported, clinical association between the depression  after ischemic stroke and the lesion location remains unclear.  Objective:  The  purpose  of  the  present  study  is  to  determine  the  frequency  and  relative  between  the  depression after ischemic stroke and the lesion location.  Methods:  Base  on  a  cross‐sectional  research  design,  92  consecutive  patients with  ischemic  stroke were  followed  up  to  determine  whether  depression  was  present  2  weeks  after  ischemic  stroke  onset.  Depressive  symptoms were assessed with DSM‐IV interview for depression and Beck Depression Scale. The lesion location  was determined on magnetic resonance or computed tomography images.  Results: Thirty‐four patients (37%) had depression on DSM‐IV, with 21 (61.8%) having minor depression,  8 (23.5%) moderate depression, 5 (14.7%) severe depression. Depression occurs all in those with under 45 year  old. We found no significant differences in the relationship between the  location of brain  lesion and depression  after ischemic stroke.   Conclusion: Patients with ischemic stroke, particularly in under <45 year old, should be carefully evaluated  for early detection and treatment of depressive symptoms, which may greatly influence outcome.  Keywords: Depressive ‐Ischemic stroke‐Lesion location‐ Neuroimaging.  * Bộ môn Thần Kinh, ĐH Y Dược TP.HCM ** Bệnh viện Bà Rịa Tác giả liên lạc: BS. Lê Cao Thái ĐT: 0913775878 Email: lecaothai67@yahoo.com.vn  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Thần Kinh  489 ĐẶT VẤN ĐỀ  Đột quỵ  là nguyên nhân gây  tử vong đứng  hàng  thứ ba  sau  các bệnh  lý  tim mạch và ung  thư, đồng thời cũng là nguyên nhân gây khuyết  tật hàng  đầu  trên  toàn  thế giới. Trong  thập kỷ  qua có nhiều thành tựu của y học đã được kiểm  chứng, nhiều phương thức điều trị mới đối với  đột quỵ. Bên  cạnh  đó, những kỹ  thuật mới về  hình  ảnh  học  là một  bước  đột  phá mạnh mẽ  giúp việc chẩn đoán sớm, cũng như để đánh giá,  theo dõi  điều  trị và ngừa  các biến  chứng,  làm  tăng  tỉ  lệ  sống  còn  cho bệnh nhân bị  đột quỵ,  đây là một bước tiến mang lại lợi ít thực sự cho  người bệnh. Tuy vậy,  đến nay  đột  quỵ  vẫn  là  nguyên nhân gây khuyết tật hàng đầu trên toàn  thế giới. Mặc dù đây là bệnh lý của não, nhưng  có  thể  ảnh hưởng  đến  toàn bộ  cơ  thể, gây  tàn  phế về mặc chức năng vận động, cảm giác, cũng  như những hậu quả về sức khỏe tâm thần, trong  đó  trầm  cảm  là phổ biến,  thường xảy  ra  trong  vòng  vài  tháng  đầu  sau  khi  bị  đột  quỵ(5). Một  trong  những  công  trình  nghiên  cứu  đầu  tiên  trước đây gợi ý  rằng  trầm cảm sau đột quỵ có  thể đi kèm với một vị trí đặc biệt và liên quan tới  một  rối  loạn  khu  trú  đường  dẫn  truyền  thần  kinh  của  các  amin  sinh  học(14).  Tuy  nhiên  qua  hơn ba  thập niên, nguyên nhân  của  trầm  cảm  sau  đột  quỵ  vẫn  chưa  được  làm  sáng  tỏ,  giả  thuyết có thể do đa yếu tố hay không, đến nay  vẫn chưa thống nhất. Về những yếu tố nguy cơ  cũng như sự tương quan giữa vị trí tổn thương  và trầm cảm sau đột quỵ nhồi máu não cấp vẫn  chưa được đồng thuận(10). Xuất phát từ thực tiển  đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá đặc  tính  tương  đồng  giữa  giải  phẫu  thần  kinh  và  trầm cảm sau đột quỵ nhồi máu não cấp. Với các  mục tiêu cụ thể sau: Khảo sát tần suất trầm cảm  và  sự  liên  quan  giữa  trầm  cảm  với  các  yếu  tố  dân  số học, hình  ảnh học  thần kinh  trên bệnh  nhân đột quỵ nhồi máu não cấp.  ĐỐI TƯỢNG‐PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Dân số chọn mẫu  Chọn mẫu không xác xuất,  được  chọn  liên  tiếp  tất cả bệnh nhân bị đột quỵ nhồi máu não  cấp lần đầu nhập viện, được điều trị nội trú tại  khoa nội  tổng hợp‐ Bệnh viện Bà Rịa, Tỉnh Bà  Rịa‐Vũng Tàu. Từ tháng 11 năm 2012 đến tháng  04 năm 2013.  Tiêu chuẩn chọn bệnh  >18 tuổi, nhập viện trong vòng 3 ngày sau  khởi phát đột quỵ nhồi máu não lần đầu. Chẩn  đoán lâm sàng đột quỵ theo tiêu chuẩn WHO.  Có hình ảnh tổn thương nhồi máu não trên kết  quả  cộng hưởng  từ hoặc  chụp  cắt  lớp vi  tính  não và chỉ có một  tổn  thương duy nhất. Bệnh  nhân  có  thể hợp  tác  thực hiện  đánh giá  trầm  cảm ở thời điểm 2 tuần sau đột quỵ.Tiêu chuẩn  loại trừ: suy giảm ý thức hoặc sa sút trí tuệ, có  bệnh  cơ  thể nặng khác kèm  theo,  có  tiền  căn  trầm cảm.   Thiết kế nghiên cứu  Nghiên cứu mô tả cắt ngang.  Cở mẫu  Thiết  kế  nghiên  cứu  với  hy  vọng  độ  nhạy  80% và độ tin cậy thống kê đạt 95% (α = 0,05), 2  chỉ số này dao động khoảng 5%. Theo ước lượng  tần  suất  trầm  cảm  sau  đột  quỵ NMN  khoảng  20%, cở mẫu cần  thiết để ước  tính độ đặc hiệu  nghiên  cứu  là  91.  Số  liệu  được  thu  thập  qua  bảng  thu  thập số  liệu chi  tiết phù hợp với mục  tiêu nghiên  cứu: khai  thác bệnh  sử, khám  lâm  sàng  và  hình  ảnh  học  trong  vòng  3  ngày  sau  khởi phát NMN,  tiến hành  đánh giá  trầm  cảm  sau 2 tuần nằm viện.   Các bước tiến hành  Bệnh nhân nhập khoa Nội‐Bệnh viện Bà Rịa  với chẩn đoán NMN cấp theo định nghĩa WHO,  đáp ứng các tiêu chẩn chọn bệnh và tiêu chuẩn  loại  trừ  được  đưa  vào mẫu  nghiên  cứu.  Bệnh  nhân  được  khám  tổng  quát,  khám  thần  kinh,  thực hiện các xét nghiệm LS và chụp MRI hoặc  CT  để  xác  định  tổn  thương  trong  48  giờ  sau  nhập  viện.  Sau  02  tuần  bệnh nhân  được  đánh  giá  trầm  cảm  theo DSM‐IV,  đánh  giá mức  độ  trầm cảm bằng thang Beck rút gọn, dùng thang  điểm Rankin sửa đổi đánh giá chức năng.  Các  số  liệu  thu  thập  được  xử  lý  trên phần  mềm  thống kê  SPSS phiên bản  16.0. Khởi  đầu  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 490 mô tả đặc điểm các biến; các biến số định lượng  được được mô tả bằng giá trị trung bình và độ  lệch chuẩn, được so sánh bằng phép kiểm χ2, các  biến định  tính được mô  tả bằng  tần số và  tỷ  lệ  phần  trăm,  được  so  sánh  bằng  kiểm  định  t‐ student  độc  lập. Tiếp  theo  tiến hành phân  tích  đơn biến để đánh giá độ mạnh của mối  liên hệ  giữa các yếu tố liên quan với trầm cảm sau nhồi  máu não. Sau đó chúng tôi thực hiện phân tích  hồi quy đa biến logistic, các biến có mức ý nghĩa  p <0,05 được đưa vào phân tích hồi quy đa biến  logistic  tìm  ra các biến có giá  trị  tiên  đoán  độc  lập với trầm cảm sau NMN cấp, loại trừ các biến  gây nhiễu nhằm xác định mối liên hệ giửa vị trí  tổn thương và trầm cảm sau NMN cấp để đánh  giá đặc tính tương đồng này.   KẾT QUẢ   Mẫu khảo sát có 34 bị trầm cảm trên 92 bệnh  nhân, chiếm tỷ lệ 37% vào thời điểm 2 tuần sau  khởi phát  đột quỵ nhồi máu não  cấp. Số bệnh  nhân  trầm  cảm  nam  và  nữ  bằng  nhau  là  17  trường  hợp,  trong  đó  trầm  cảm mức  độ  nhẹ  chiếm 61,8%, trung bình chiếm 23,5% và mức độ  nặng  là  14,7%.  Bệnh  nhân  trầm  cảm  sau  nhồi  máu não ở các nhóm tuổi <45 tuổi chiếm 14,7%,  nhóm  từ  45‐54  chiếm  26,5%,  nhóm  từ  55‐64  chiếm  32,4%,  và  nhóm  ≥65  tuổi  chiếm  26,5%.  Tuổi trung bình là 56,03 ± 11,39. Tỷ lệ bệnh nhân  bị  trầm  cảm  sống  ở  nông  thôn  là  44,1%  và  ở  thành  thị  là  55,9%,  đa  số  có mức  sống  không  thấp, chiếm 97,1% và học vấn không thấp chiếm  85,3%. Các  yếu  tố  tiền  căn  như  tăng  huyết  áp  chiếm 64,7%, đái tháo đường chiếm 17,6% và rối  loạn Lipid máu  chiếm  29,4%  ở  các bệnh nhân.  Xác định được mối  liên quan có ý nghĩa  thống  kê giữa trầm cảm sau đột quỵ nhồi máu não cấp  với các yếu tố như: trình độ học vấn trên cấp II,  có tiền căn tăng huyết áp và rối loạn Lipid máu  thì có tỷ lệ trầm cảm sau nhồi máu não cao hơn.  Đặc biệt độ tuổi là yếu tố quan trọng có ý nghĩa  dự đoán độc lập với trầm cảm sau đột quỵ nhồi  máu não cấp, với bệnh nhân tuổi càng nhỏ thì tỷ  lệ  trầm cảm càng  tăng, nhất  là  tuổi dưới 45  thì  tất  cả  các  trường  hợp  đều  trầm  cảm. Kết  quả  hình ảnh học thần kinh trên các bệnh nhân trầm  cảm  ghi  nhận  tổn  thương  bán  cầu  trái  có  16  trường  hợp  (47%),  bán  cầu  phải  có  11  trường  hợp  (32,3%),  vùng  hạch  nền‐bao  trong  có  5  trường  hợp  (14,7%),  đồi  thị  có  3  trường  hợp  (8,8%), vùng dưới vỏ và hố sau cùng có 4 trường  hợp (11,8%) bị trầm cảm.  Bảng 1: Liên quan giữa trầm cảm và yếu tố dân số học:  Dân số học Trầm cảm (n=34) Không trầm cảm (n=58) p Tuổi <45 5 (14,7%) 0 <0,001 45 - 54 9 (26,5%) 5 (8,6%) 55 - 64 11 (32,4%) 5 (8,6%) >65 9 (26,5%) 48 (82,8%) Giới Nam 17 (50%) 39 (67,2%) 0,102 Nữ 17 (50%) 19 (32,8%) Mức sống Thấp 1 (2,9%) 5 (8,6%) 0,287 Không thấp 33 (97,1%) 53 (91,4%) Nơi sống Thành thị 19 (55,9%) 26 (44,8) 0,306 Nông thôn 15 (44,1% 32 (55,2%) Học vấn Hết cấp II 29 (85,3%) 28 (48,3%) <0,001 Dưới cấp II 5 (14,7%) 30 (51,7%) Bảng 2: Liên quan giữa trầm cảm và vị trí tổn thương  Vị trí tổn thương Trầm cảm (n=34) Không trầm cảm (n=58) Bên trái (n=21) Bên phải (n=13) Bên trái (n=32) Bên phải (n=26) Thùy trán 3 (14,3%) 1(7,7%) 11 (34,4%) 4 (15,4%) Thùy đỉnh 4 (19,0%) 1 (7,7%) 4 (12,5%) 3 (11,5%) Thùy chẩm 0 0 0 1 (3,8%) Thùy thái dương 4 (19,0%) 4 (30,8%) 9 (28,1%) 11 (42,3%) Vùng dưới vỏ 2 (9,5%) 3 (23,1%) 2 (6,3%) 4 (15,4%) Hạch nền-bao trong 3 (14,3%) 2 (15,4%) 3 (9,4%) 0 Đồi thị 3 (14,3%) 0 2 (6,3%) 0 Thân não 1 (4,8%) 1 (7,7%) 1 (3,1%) 0 Tiểu não 1 (4,8%) 1 (7,7%) 0 3 (11,5%) p 0,712 0,087 Nhóm  BN  trầm  cảm  sau  NMN  thùy  thái  dương  trái và phải  là 4 BN,  tổn  thương NMN  vùng  đồi  thị  trái  và  thùy  chẩm  02  bên  không  phát hiện bệnh nhân bị trầm cảm. Không có mối  liên quan có ý nghĩa thống kê giửa các vị trí tổn  thương  và  trầm  cảm  sau NMN  (p>0,05).Chưa  tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa  trầm cảm với NMN vị trí bán cầu não cũng như  với tổn thương mạch dưới vỏ‐ trán trước và quai  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Thần Kinh  491 viền (p>0,05).Sau khi phân tích đơn biến trên các  biến độc lập trong mối liên hệ với các biến phụ  thuộc, chúng tôi đã tìm ra những biến mà sự liên  hệ có ý nghĩa thống kê với trầm cảm sau NMN.  Các biến trên gồm: nhóm tuổi, trình độ học vấn,  tiền sử THA và tiền sử rối loạn Lipid máu.   Bảng 3: Các biến liên quan có ý nghĩa thống kê với  trầm cảm sau NMN  Các biến độc lập Tỉ số chênh OR Khoảng tin cậy 95% Mức ý nghĩa Tuổi <45 tuổi 1 - - 45-54 tuổi 0,53 0,26 – 1,09 0,024 55-64 tuổi 0,11 0,03 – 0,38 0,001 ≥65 tuổi 0,08 0,02 – 0,31 <0,001 Trình độ học vấn 6,21 2,11 – 18,30 <0,001 Tc. THA 2,62 0,98 – 6,97 0,049 Tc. RL Lipid máu 3,04 1,03 – 8,95 0,039 Tất cả 4 biến này được đưa vào phân tích hồi  quy đa biến logistic để tìm ra những biến thực có  giá trị độc lập tiên đoán trầm cảm sau NMN.  Phân tích hồi quy đa biến   Bảng 4: Kết quả phân tích hồi quy logistic đa biến  tìm tương quan các yếu tố và trầm cảm sau NMN.   Biến Mức ý nghĩa Tỉ số chênh OR Khoảng tin cậy 95% Dưới Trên Nhóm tuổi 0,007 8,58 3,03 24,26 Trình độ học vấn 0,898 0,91 0,21 3,99 Tiền căn THA 0,897 0,92 0,25 3,34 Rối loạn lipid máu 0,327 2,05 0,49 8,65 Phân  tích hồi quy đa biến được  thực hiện  trên những biến  có mối  liên quan  có ý nghĩa  thống kê trên phân tích đơn biến. Theo kết quả  bảng 4, sau khi hiệu đỉnh 4 yếu tố trên, chỉ còn  1 yếu tố được giử lại trong mô hình cuối cùng  này,  đó  là  nhóm  tuổi  bệnh  nhân  bị  đột  quỵ  NMN. Như vậy, yếu  tố nhóm  tuổi có ý nghĩa  dự đoán độc lập đưa đến phát triển trầm cảm  trên  bệnh  nhân  đột  quỵ NMN  cấp  với  OR=  8,58 (KTC 95%: 3,03 – 24,26; p=0,007).   BÀN LUẬN   Tần suất trầm cảm   Nghiên  cứu  của  William  AL,  theo  dõi  trong  6  tháng  nhận  thấy  có  tới  1/3  số  bệnh  nhân  bị  trầm  cảm  sau  NMN  nhưng  trong  tháng đầu tiên chỉ chiếm 19,3%(17). Kết quả của  chúng  tôi  thấp  hơn  nhiều  so  với  kết  quả  nghiên  cứu  của  tác  giả  Lara  Caeiro  và  CS  (2006)  ở  những  bệnh  nhân  NMN  giai  đoạn  cấp. Theo  các  tác giả này  có  tới  49%  số bệnh  nhân  bị  trầm  cảm  sau NMN  giai  đoạn  cấp(2).  Trong  những  nghiên  cứu  trước  đây, Nghiên  cứu  của  Nishiyama  và  cs  (2010)  cho  kết  quả  cũng  gần  tương  tự,  tỷ  lệ  trầm  cảm một  tháng  sau  đột  quỵ  ở  134  bệnh  nhân  nhóm  này  là  34,3%(11).  Theo  Jessica  LJ  (2006)  thì  tỷ  lệ  trầm  cảm sau NMN dao động từ 5%‐ 60%, tùy theo  tiêu  chuẩn  chọn  lựa  mẫu  nghiên  cứu  như:  bệnh nhân sau NMN đang sống ở cộng đồng  hoặc  đang  điều  trị  tại  cơ  sở  phục  hồi  chức  năng  hoặc  đang  nằm  viện,  cách  đánh  giá  và  tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  cũng như  là  thời  điểm  đánh  giá  sau NMN(7). Kết  quả  của  chúng  tôi  thấp hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu của  tác giả Lara Caeiro và CS (2006) ở những bệnh  nhân NMN giai đoạn cấp. Theo các tác giả này  có tới 49% số bệnh nhân bị trầm cảm sau NMN  giai đoạn cấp(2).   Những yếu tố liên quan với trầm cảm sau  đột quỵ nhồi máu não cấp  Yếu tố dân số học   ‐ Bệnh nhân trầm cảm sau NMN trong mẫu  nghiên cứu chúng tôi có tuổi trung bình là 56,03  ± 11,39 tuổi, sự khác biệt giữa các nhóm tuổi và  trầm cảm có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả  này phù hợp so với y văn có tuổi trung bình  là  58  ±  14  tuổi,  gần  tương  đương  với  tác  giả  Nguyễn Thanh Long là 57± 8,4 tuổi, trong đó số  bệnh  nhân  trầm  cảm  này  nhiều  nhất  ở  nhóm  tuổi từ 55‐ 64 tuổi  là 20 bệnh nhân (chiếm tỷ  lệ  58,9%) so với 74,7% của cùng tác giả này thì có  trị số thấp hơn(9). Điều khác biệt khá thú vị trong  mẫu nghiên  cứu  của  chúng  tôi  là  sự khác biệt  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Nội Khoa 492 giữa nhóm tuổi và trầm cảm có ý nghĩa thống kê  (p<0,001), nhóm tuổi càng nhỏ thì tỷ lệ trầm cảm  càng tăng. Kết quả của Carota và cs (2005) cũng  tương tự là tuổi nhỏ hơn thì liên quan có ý nghĩa  với sự tăng nguy cơ trầm cảm(3).  ‐ Về  sự  khác  biệt  liên  quan  đến  giới  tính,  thấy một điều khá trùng hợp là mẫu nghiên cứu  của chúng tôi tỷ lệ trầm cảm ở nhóm người bệnh  nhân NMN nam giới bằng với tỷ lệ trầm cảm ở  nhóm bệnh nhân NMN  là nữ giới  (cùng chiếm  18,5%),  mối  liên  quan  này  không  có  ý  nghĩa  thống kê  (p>0,05). Theo Brittany Poynter và CS  (2009), tổng kết từ 35 nghiên cứu khác nhau về  trầm cảm sau NMN và giới tính các tác giả đều  nhận  thấy  tỷ  lệ  trầm  cảm gặp nhiều hơn  ở nữ  giới(1,12).  Nghiên  cứu  trong  nước  gần  đây  Nguyễn  Thành  Long  (2011)  cho  thấy  không  chênh lệch đáng kể, tỷ lệ trầm cảm ở nữ sau đột  quỵ  là  52,8% nhiều hơn nam giới  là  47,2%,  sự  khác biệt không có ý nghĩa thống kê(9).   ‐Theo Nguyễn Thành Long nghiên cứu trên  110 bệnh nhân sau đột quỵ 14 ngày, báo cáo tần  suất trầm cảm theo tiêu chuẩn DSM‐IV là 32,7%,  trong  đó  có  30,5%  là  trầm  cảm  nhẹ,  69,5%  là  trầm cảm vừa và không có  trường hợp có mức  trầm  cảm  nặng(9).  Theo  Liang‐Po  Hsieh  và  cs  (2005) báo cáo sau nghiên cứu 207 bệnh nhân bị  đột quỵ NMN lần đầu, CT hoặc MRI được thực  hiện trong giai đoạn cấp, có tần suất trầm cảm là  34,3%,  trong  đó  trầm  cảm  nặng  chiếm  23,5%,  trầm  cảm  trung  bình  45,1%(9).  Theo  kết  quả  nghiên cứu của chúng tôi thì tổn thương NMN  bên trái chiếm tỷ lệ cao hơn bên phải (57,6% so  với 42,4%), nhưng không  có mối  liên quan với  trầm cảm.   Vị trí tổn thương   Báo cáo gần đây cho thấy các yếu tố nguy cơ  tâm lý xã hội bao gồm tuổi, giới tính, suy giảm  chức năng hoặc  tiền  sử  rối  loạn  tâm  thần  góp  phần lớn vào sự tiến triển của trầm cảm hơn là  vị  trí  tổn  thương(3,11). Qua ba  thập kỷ vẫn chưa  đạt  được  sự  đồng  thuận  về  tương  quan  giải  phẫu thần kinh của PSD, dù một số ý kiến cho là  vị trí NMN ở thùy trán hoặc tại hạch nền có thể  tạo  ra  nguy  cơ  cao  nhất(6,13).  Gần  đây  tác  giả  Dương Minh Tâm(3) cũng cho kết quả  tương  tự  nghiên  cứu  chúng  tôi  là  không  thấy mối  liên  quan giữa PSD và tổn thương bán cầu não. Tang  và  cs  (2010)(19)  chứng minh  rằng những  ổ nhồi  máu  lỗ khuyết  trong hạch nền,  đồi  thị và  chất  trắng sâu liên quan đến trầm cảm. Theo kết quả  của chúng tôi thì tổn thương bên trái chiếm tỷ lệ  cao hơn bên phải  (57,6%  so với  42,4%), nhưng  không  có  mối  liên  quan  với  trầm  cảm.  Theo  Zanetti và cs (2009), hai quai, mạch đóng vai trò  quan  trọng  trong sự hình  thành cảm xúc, nhận  thức và kiểm soát hành vi(18), cũng đã được khảo  sát trong nhiều nghiên cứu về bệnh lý trầm cảm  chủ yếu và  trầm cảm sau đột quỵ. Vataja và cs  báo  cáo  rằng  các  tổn  thương  ảnh  hưởng  đến  mạch dưới vỏ‐trán  trước  bên  trái  có  liên  quan  chặt chẽ với sự phát triển trầm cảm sau đột quỵ  NMN cấp(17).  Theo  Tongzang  báo  cáo  rằng  NMN  vị  trí  cánh tay sau, gối bao trong và khu vực dưới vỏ‐ thái dương  là những yếu  tố  tiên  lượng độc  lập  đối với PSD, những phát hiện này hỗ  trợ quan  điểm cho rằng tổn thương tại một số vị trí nhất  định  trong  hệ  thần  kinh  trung  ương  làm  tăng  nguy cơ đối với PSD(19). Nhưng kết quả nghiên  cứu của chúng tôi hoàn toàn trái ngược là không  tìm ra mối liên quan giửa tổn thương của 2 quai,  mạch thần kinh và trầm cảm sau nhồi máu não.  KẾT LUẬN  Chưa thấy mối liên hệ giữa trầm cảm và vị trí  tổn  thương nhồi máu não cấp. Các kết  luận sinh  bệnh học trầm cảm sau nhồi máu não còn chưa rõ  ràng. Qua kết quả nghiên cứu không thấy đặc tính  tương đồng giữa giải phẫu thần kinh và trầm cảm  sau đột quỵ nhồi máu não cấp.   TÀI LIỆU THAM KHẢO   1. Bùi Quang Huy (2008). Trầm cảm. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.  2. Caeiro L, Ferro JM, Santos CO, Figueira ML (2006). “Depression  in acute  stroke”,  Journal of Psychiatry & Neuroscience  :  JPN.  Ottawa, Vol. 31, Iss. 6, pp. 377‐384.  3. Carota A, Berney A, Aybek  S,  et  al  (2005).  “A prospective  study of predictors of post‐stroke depression”, Neurology, 64,  pp.428‐433.  4. Dương Minh Tâm  (2011). “Đặc điểm  lâm  sàng  của  trầm  cảm  sau nhồi máu não”. Tạp chí Y Học Thực Hành, Số 9 (783): 50‐53  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Thần Kinh  493 5. Hackett ML,  Yapa  C,  Parag  V,  et  al  (2005).  “  Frequency  of  depression  after  stroke:  a  systematic  review  of  observational  studies”, Stroke, 36, pp. 1330‐40.   6. Herrmann M, Bartels C  (1995).  “Poststroke depression:  Is  the  pathoanalomic correlate for depression in the postacute stage of  stroke?” Stroke, 26, pp.850‐856.  7. Johnson  JL, Minarik PA, Nyström KV, Bautista C, Gorman MJ  (2006). “Poststroke Depression  Incidence and Risk Factors: An  Integrative  Literature  Review”,  Journal  of  Neuroscience  Nursing. Park Ridge, Vol 38, Iss. 4, pp. 316‐328.  8. Liang‐Po  et  al,  (2005).  “Depression  Symptoms  Follwing  Ischemic Stroke: A Study of 207 Patients”, Acta Neurol Taiwan,  14,pp. 187‐190.  9. Nguyễn Thành Long (2011). “Khảo sát tỷ  lệ và các yếu tố  liên  quan  đến  trầm  cảm  sau  tai  biến  mạch  máu  não”.  Luận  án  Chuyên khoa II, đã bảo vệ. Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh.  10. Niloufar H, Diane J, Ruth L (2009). “Poststroke depression and  functional outcome: a critical review of  literature”, Heart Lung,  38, pp. 151–162.  11. Nishiyama  Y,  Komaba  Y,  Ueda  M,  et  al  (2010).  “Early  depressive symptoms after ischemic stroke are associated with  a left lenticulocapsular area lesion”, J Stroke Cerebrovasc Dis, 19,  pp. 184‐189.  12. Poynter  B, Shuman  M, Diaz‐Granados  N, Kapral  M, Grace  SL, Stewart DE  (2009).  “Sex Differences  in  the  Prevalence  of  Post‐Stroke  Depression:  A  Systematic  Review”,  Psychosomatics, Washington, Vol: 50, Iss: 6, pp.563‐567.   13. Robinson  RG,  Kubos  KL,  Starr  LB,  et  ap  (1984).  “Mood  disorders  in stroke patients.  Importance of  location of  lesion”,  Brain, 107, pp. 81–93.  14. Schubert  DS,  Taylor  C,  Lee  S,  et  al  (1992).  “Detection  of  depression  in  the  stroke  patient”,  Psychosomatics, 33,  pp.  290‐ 294.  15. Tang WK, Lu JY, Chen YK, et al (2011). “Association of frontal  subcortical circuits infarcts in poststroke depression: a magnetic  resonance imaging study of 591 Chinese patients with ischemic  stroke”, Ungvari GS, China.  16. Vataja R, et al (2001). “Magnetic resonance imaging correlates of  depression after  ischemic  stroke”, Arch. Gen. Psychiatry, 58,pp.  925–931.  17. William Alwyn Lishman  (1987), “Cerebrovascular Disorders”.  Organic  psychiatry.  The  psychological  Consequences  of  cerebral  Disorders–2nd,  Blackwell  Scientific  Publications  Oxford  London  Edinburgh, pp: 319 –369.  18. Zanetti  MV,  Jackowski  MP,  Versace  A,  et  al  (2009).  “State‐ dependent microstructural white matter  changes  in  bipolar  I  depression”, Eur. Arch. Psychiatry Clin. Neurosci, 259 (6),pp. 316– 328.  19. Zhang  T, Jing  X, Zhao  X, Wang  C, Liu  Z, Zhou  Y, Wang  Y, Wang  Y  (2012).  “A  prospective  cohort  study  of  lesion  location  and  its  relation  to  post‐stroke  depression  among  Chinese patients”, Journal of Affective Disorders, 136,pp. 83–87.   Ngày nhận bài báo: 01/11/2013  Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013  Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf488_1884.pdf
Tài liệu liên quan