Đề án Chính sách tiền tệ và tình hình thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1986 đến 2000

Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, phát triển và tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu quốc gia. Trong khi nền kinh tế phát triển thấp, tích luỹ từ nội bộ không nhiều, các nguồn lực của nền kinh tế chưa có điều kiện khai thác thì việc hỗ trợ của dòng vốn từ bên ngoài là rất cần thiết và đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, để có thể thu hút dòng vốn từ bên ngoài đòi hỏi chúng ta phải thực thi hàng loạt chính sách kinh tế có liên quan, nhằm tạo môi trường cho dòng vốn được lưu chuyển dưới tác động của cung cầu tiền tệ trên thị trường.

Bởi vì tiền tệ là vấn đề rất nhạy cảm, việc thực thi chính sách tiền tệ không những tác động đến tình trạng của nền kinh tế quốc gia mà còn ảnh hưởng đến các nước khác do xu thế toàn cầu hoá, khu vực hóa nền kinh tế thế giới. Mặt khác, việc thực thi chính sách tiền tệ rất đa dạng, phần lớn tuỳ vào quan điểm của các nhà lãnh đạo, tuy nhiên, cho dù thế nào đi nữa thì những gì đúc kết từ thực tiễn điều hành chính sách vẫn là cơ sở quan trọng cho việc định hướng, hoàn thiện về sau. Trên tinh thần đó, việc nghiên cứu, tổng kết việc thực thi chính sách tiền tệ trong thời gian qua là điều đáng quan tâm.

Bước vào thế kỉ 21, Việt Nam xác định mục tiêu tăng trưởng KT &công bằng XH, vì vậy việc lựa chọn giaỉ pháp nào để xây dựng &điêù hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn là 1 vấn đề khó khăn,phức tạp.

Qua quá trình học tập &rèn luyện môn Lý thuyết tài chính tiền tệ, được sự hướng dẫn của các thầy cô giáo khoa Ngân hàng tài chính, em xin mạnh dạn trình bày Đề án môn học lý thuyết tài chính tiền tệ với đề tài “Chính sách tiền tệ và tình hình thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1986 đến 2000”.

Đề án này bao gồm các phần:

Phần I :Chính sách tiền tệ

Phần II : Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ 1986-2000.

PhầnIII:Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.

 

doc43 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề án Chính sách tiền tệ và tình hình thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1986 đến 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, phát triển và tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu quốc gia. Trong khi nền kinh tế phát triển thấp, tích luỹ từ nội bộ không nhiều, các nguồn lực của nền kinh tế chưa có điều kiện khai thác thì việc hỗ trợ của dòng vốn từ bên ngoài là rất cần thiết và đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, để có thể thu hút dòng vốn từ bên ngoài đòi hỏi chúng ta phải thực thi hàng loạt chính sách kinh tế có liên quan, nhằm tạo môi trường cho dòng vốn được lưu chuyển dưới tác động của cung cầu tiền tệ trên thị trường. Bởi vì tiền tệ là vấn đề rất nhạy cảm, việc thực thi chính sách tiền tệ không những tác động đến tình trạng của nền kinh tế quốc gia mà còn ảnh hưởng đến các nước khác do xu thế toàn cầu hoá, khu vực hóa nền kinh tế thế giới. Mặt khác, việc thực thi chính sách tiền tệ rất đa dạng, phần lớn tuỳ vào quan điểm của các nhà lãnh đạo, tuy nhiên, cho dù thế nào đi nữa thì những gì đúc kết từ thực tiễn điều hành chính sách vẫn là cơ sở quan trọng cho việc định hướng, hoàn thiện về sau. Trên tinh thần đó, việc nghiên cứu, tổng kết việc thực thi chính sách tiền tệ trong thời gian qua là điều đáng quan tâm. Bước vào thế kỉ 21, Việt Nam xác định mục tiêu tăng trưởng KT &công bằng XH, vì vậy việc lựa chọn giaỉ pháp nào để xây dựng &điêù hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn là 1 vấn đề khó khăn,phức tạp. Qua quá trình học tập &rèn luyện môn Lý thuyết tài chính tiền tệ, được sự hướng dẫn của các thầy cô giáo khoa Ngân hàng tài chính, em xin mạnh dạn trình bày Đề án môn học lý thuyết tài chính tiền tệ với đề tài “Chính sách tiền tệ và tình hình thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1986 đến 2000”. Đề án này bao gồm các phần: Phần I :Chính sách tiền tệ Phần II : Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ 1986-2000. PhầnIII:Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. Phần I: chính sách tiền tệ I. Mục tiêu của chính sách tiền tệ I.1. Khái niệm và vai trò của chính sách tiền tệ. Cũng như chính sách tài chính, chính sách tiền tệ là một trong hai công cụ quan trọng chủ yếu trong hệ thống các công cụ chính sách kinh tế của nhà nước để điều hành vĩ mô đối với nền kinh tế. Theo điều 2 của luật Ngân hàng nhà nước Việt nam (10-1997) thì: “ Chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế – tài chính của nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân”. Với chính sách này, Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động của Ngân hàng, động viên các nguồn lực trong nước, đồng thời tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, giữ vững chủ quyền quốc gia, mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Tại mỗi một quốc gia, với tư cách là thiết chế đầu não của toàn bộ hệ thống tài chính& ngân hàng, NHTW là cơ quan chủ chốt, thiết kế và quyết định chính sách tiền tệ. Dù với tên gọi khác nhau (NHTW, NHNN, Hệ thống dự trữ lên bang...), nhưng tất cả chúng đều có chung một tính chất là cơ quan trong bộ máy quản lý Nhà nước, độc quyền phát hành tiền, thực hiện nhiệm vụ cơ bản là ổn định giá trị tiền tệ, thiết lập trật tự, bảo dảm sự hoạt động an toàn và ổn định và hiệu quả của toàn bộ hệ thống ngân hàng nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của mỗi đất nước. Hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là nhiệm vụ trung tâm, của NHNW trong lĩnh vực tiền tệ. Điều hành chính sách tiền tệ của NHTW trong nền kinh tế thị trường mang tính chất điều tiết vĩ mô, hướng các tổ chức tín dụng vào thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ, đồng thời vẫn đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. NHTW thường không can thiệp và không ra lệnh trực tiếp vào các quyết địng tác nghiệp của các tổ chức tín dụng mà chủ yếu sử dụng các biện pháp tác động gián tiếp để điều chỉnh môi trường và các điều kiện kinh doanh của các tổ chức tín dụng như: khả năng thanh toán, lãi suất chiết khấu, dự trữ, khối lượng tiền cung ứng, tỷ giá... để thông qua đó đạt tối mục tiêu của chính sách tiền tệ. Để điều hành chính sách tiền tệ, NHTW phải hình thành và sử dụng hệ thống công cụ của nó. Đặc điểm của các công cụ chính sách tiền tệ là tạo cho NHTW khả năng tác động có hiệu lực đến các yếu tố tiền đề buộc các tổ chức tín dụng phải tự điều chỉnh hoạt động của mình theo hướng chỉ đạo của NHTW nhưng vẫn phải đảm bảo quyền tự chủ trong kinh doanh cũng như sự bình đẳng trong môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng. I.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ Bất kỳ một chính sách kinh tế- xã hội nào cũng có những mục tiêu của nó, chính sách tiền tệ không nằm ngoài quy luật đó. Đối với chính sách tiền tệ có 6 mục tiêu cơ bản thường xuyên được nhắc đến, đó là: - Giải quyết việc làm - Tăng trưởng kinh tế - ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát. - ổn định lãi suất. - ổn định thị trường tài chính - ổn định thị trường ngoại hối Trong từng hoàn cảnh cụ thể, đồi với từng quốc gia thì việc đề ra chính sách tiền tệ cũng có những điểm khác biệt. I.2.1. Công ăn việc làm cao. Việc làm cao là một mục tiêu có giá trị bởi 2 lý do chính: -Trường hợp ngược lại, thất nghiệp cao gây ra gánh nặng tài chính cho gia đình và toàn thể XH. -Khi thất nghiệp cao, nền KT không những có nhiều lao động ngồi không mà còn có những nguồn tài nguyên để không,gây lãng phí& không làm tăng được sản lượng tiềm năng của quốc gia. Mục tiêu của việc làm cao do đó không phai là một con số không thất nghiệp mà là một mức trên số không phù hợp với việc làm đầyđủ mà tại đó cầu lao động bằng với cung lao động.Người ta gọi đó là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm phụ thuộc chủ yếu vào tình hình tăng trưởng KT.Tuỳ theo tình hình đó mà NHTW phảivận dụng các công cụ của mình góp phần tăng cường mở rộng đằu tư sản xuất kinh doanh,đồng thời tham gia tích cực vào sự tăng trưởng liên tục và ổn định,khống chế tỷ lệ thất nghiệp không tăng quá mức tự nhiên. I.2.2. Tăng trưởng KT. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế quan hệ chặt chẽ với mục tiêu việc làm cao.Các chính sách có thể tập trung vào kích thích đầu tư vào sx kinh doanh. Tăng trưởng KT là mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất của chính sách tiền tệ. Với tư cách là trung tâm tiền tệ tín dụng& thanh toán trong nền kinh tế quốc dân, NHTW có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này. NHNN Việt Nam cần bằng mọi phương thức để có thể huy dộng được hầu hết các nguồn vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước để phục vụ cho mục tiêu này.Mục tiêu từ năm 2000 trở đi tốc độ tăng trưởng hàng năm phải đạt từ 9-!0%. Đó là mức tăng trưởng cao đòi hỏi sự gia tăng đầu tư hàng năm hàng chục tỷ USD. I.2.3. Về ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát. Khi giá cả ổn định, lạm phát ở mức thấp thu nhập thực tế của người dân được nâng cao, đời sống nhân dân được cải thiện, đầu tư cho nền KT cũng được đảm bảo, tăng trưởng KT thực dương. Ngược lại, khi lạm phát ở mức cao,thu nhập của người dân bấp bênh, nguy cơ khủng hoảng KT cao. Chính vì vậy mà mục tiêu này được xem là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong CSTT. Mục tiêu tăng trưởng KT luôn luôn gắn liền với mục tiêu ổn định giá cả kiềm chế lạm phát. I.2.4. Mục tiêu ổn định lãi suất: Tất cả các quốc gia đều mong muốn một sự ổ định về lãi suất.Vì lãi suất có ảnh hưởng lớn đến đầu tư và tăng trưởng,ảnh hưởng đến các luồng vốn,ngoại tệ..Chính vì thế, ổn định lãi suất tạo ra thế ổn định cho các lĩnh vực như tín dụng, đầu tư, sự di chuyển vốn..dẫn đến ổn định chung cho nền KT. Lãi suất chính là một trong những công cụ quan trọng nhất của CSTT. Để cho nền KT được ổn định đòi hỏi CSTT phải đưa ra một hệ thống lãi suất mềm dẻo đúng đắn,phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường. I.2.5.Về ổn định thị trường tài chính: Việc tạo ra một nền tảng tài chính ổn định để hệ thống NH& các tổ chức tín dụng có thể hoạt động một cách có hiệu quả và hỗ trợ một cách tốt nhất cho tăng trưởng KT cao,lạm phát thấp, cũng như hạn chế những khuyết tật của hệ thống tài chính là mục tiêu chủ đạo của chính sách tiền tệ. NHTW phải điều hoà hoạt động của hệ thống TC trong nước một cách gián tiếp,tăng cường hiệu quả cho nó. Bản thân hệ thống TC cũng có những mục tiêu riêng của nó và nhiều khi những mục tiêu này lại đối chọi với các mục tiêu chung của nền KT. Do đó vai trò của CSTT là làm hài hoà một cách tối ưu giữa các mục tiêu trên,để phục vụ tốt nhất cho lợi ích chung của nền KT mà không làm tổn hại hay hạn chế sự phát triển của hệ thống TC. I.2.6. Mục tiêu ổn định thị trường ngoại hối: Nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia,NHTW thực hiện cấ nhiệm vụ giao dịch về TC và Tiền tệ đối ngoại bằng các phương diện: quản lý ngoại hối,lập và theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện các nghiệp vụ hối đoái. Tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái trong nước, xây dựng và thống nhất quản lý dự trữ ngoại hối của đất nước,tiến hành kinh doanh ngoại hối trên thị trường ngoại hối quốc tế.Cần thiết lập mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm tìm kiếm các nguồn vốn có thể huy động được(viện trợ,vay nợ,vay ưu đãi,thu hút đầu tư,thu hút kiều hối..). Chính sách tiền tệ góp phần nhiều vào việc thực hiện các mục tiêu trên lại mâu thuẫn nhau. cụ thể chỉ có thể đạt được một mục tiêu khi chấp nhận sự cắt giảm nhất định đối với mục tiêu khác. Chẳng hạn muốn kiềm chế lạm phát thì sẽ phải chấp nhận nạn thất nghiệp tăng lên... Vì vậy tuỳ theo việc hướng vào mục tiêu nào là chính mà người ta có thể coi chính sách tiền tệ là chính sách ổn định giá cả, chính sách tạo việc làm, chính sách cân bằng cán cân thanh toán hay chính sách tăng trưởng kinh tế. Để đạt được những mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ NHTW phải xác định các mục tiêu trung gian. Bởi lẽ NHTW sử dụng các mục tiêu trung gian để có thể xét đoán nhanh chóng được tình hình hoạt đoọng của mình phục vụ cho các mục tiêu cuối cùng, hơn là chờ cho đến khi thấy được kết quả cuối cùng của các mục tiêu đó. Mục tiêu trung gian là điều tiết cung tiền thông qua chi phối dòng tiền chu chuyển và khối lượng tiền.Tuỳ theo đIều kiện cụ thể của từng nước mà các khối tiền tệ có thể là M1, M2, M3. I.1.7. Quan hệ giữa các mục tiêu. Mặc dù đều là các mục tiêu của các chính sách tiền tệ nhưng không phải lúc nào các mục tiêu trên cũng nhất trí với nhau, đặc biệt là trong dài hạn. . Trước hết, việc giảm tỷ lệ lạm phát đồng nghĩa với việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất tăng lên làm giảm các nhân tố cấu thành tổng cầu và do đó đến tổng cầu của nền kinh tế. Thất nghiệp vì thế có xu hướng tăng lên. Mặt khác, việc duy trì một tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn thường kéo theo chính sách tiền tệ mở rộng và sự tăng giá. Thứ hai, mục tiêu công ăn việc làm mâu thuẫn với mục tiêu ổn định giá cả còn thể hiện thông qua sự phản ứng của Ngân hàng trung ương đối với các cú shock cung nhăm đảm bảo mức cầu tiền thực tế, kết quả là giá tăng lên. Thứ ba, mâu thuẫn này còn được thể hiện thông qua định hướng điều chỉnh tỷgiá: bằng việc hạ giá đồng bản tệ các ngành công nghiệp xuất khẩu có khả năng mở rộng. Tỷ lệ thất nghiệp vì thế giảm thấp kèm theo sự tăng lên của mức giá chung. Như vậy, việc duy trì một mức tỷ giá ổn định và thích hợp sẽ làm giảm tỷ lệ việc làm, trong khi một mức tỷ giá cao hơn sẽ góp phần làm tăng tỷ lệ đó. I.3. Nội dung của chính sách tiền tệ. Xét cho cùng NHTW có thể thực thi hai loại chính sách tiền tệ phù hợp với tình hình thực tiễn của nền kinh tế: - Chính sách mở rộng tiền tệ: là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuát tạo công ăn việc làm. Chính sách này được đưa ra trong trường hợp nền KT trì trệ,tăng trưởng thấp.Nó tạo ra không khí tiêu dùng mạnh mẽ kích thích đầu tư và tăng trưởng KT. - Chính sách thắt chặt tiền tệ: là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế nhằm khuyến khích đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế và kiềm chế lạm phát. Chính sách này được đưa ra nhằm ngăn trặn tình trạng phát triển quá nóng của nền KT. Nó tạo ra sự khan hiếm về tiền, sự đắt đỏ về chi phí, làm giảm tốc độ tăng trưởng quá nhanh, tạo ra một sự phát triển bền vững. Trong nền KT thị trường, CSTT bao gồm 3 thành phần cơ bản gắn liền với 3 kênh dẩn nhập tiền vào lưu thông. Đó là: +Chính sách tín dụng +Chính sách ngoại hối +Chính sách đối với ngân sách nhà nước a. Chính sách tín dụng: Thực chất CSTD là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân, thông qua các nghiệp vụ ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền gửi của XH và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường. b. Chính sách ngoại hối: Nhằm đảm bảo việc sử dụng co hiệu quả các tài sản có giá trị thanh toán đối ngoạiphục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng KT bền vững và gia tăng việc làm trong xã hội,đảm bảo chủ quyền tiềntệ của đất nước. c. Chính sách đối với ngân sách nhà nước: Nhằm đảm bảo phương tiện thanh toán cho chính phủ trong trường hợp Ngân sách nhà nước bị thiếu hụt. Phương thức tối ưu là NHTW cho ngân sách nhà nước vay theokỳ hạn nhất định, Dần dần tiến tới loạI bỏ hoàn toàn phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách. Ngân sách nhà nước có thể ở ba trạng thái,đó là thâm hụt ngân sách, cân bằng ngân sách & thặng dư ngân sách. - Trong trường hợp NSNN bị thiếu hụt, chênh lệch giữa thu và chi ngân sách sẽ có những tác dụng khác nhau đến nền KT, tuỳ theo các tác động đó mà có các cách thức để giảm bớt sự thiếu hụt: Một làvay dân cư ; Hai là vay từ hệ thống tín dụng và thị trường TC trong nước; Ba là vay NHNN; Bốn là vay nước ngoài; Việc vay của NHTW& vay nước ngoài sẽ làm tăng mạnh khối tiền tệ gây ra các áp lực tiềm tàng về sau. Vay của dân cư& của các NHTM trong nước sẽ làm cho các nguy cơ trên giảm đi. Hiện nay, áp lực lạm phát tại các nước đang& kém phát triển cao hơn so với các nước phát triển do họ bù đắp thâm hụt ngân sách chủ yếu bằng các biện pháp phát hành tiền& vay nợ nước ngoài. - Trong trường hợp NSNN cân bằng, khi chính phủ thu thuế tức là đã lấy ra khỏi lưu thông một lượng tiền và chi tiêu trở lại số tiền đó vào bộ may kinh tế.khối lượng tiền không thay đổi vì nó được tăng giảm một lượng như nhau.Tuy nhiên, nó có thể làm thay đổi kết cấu giữa tiêu dùng và tiết kiệm, chẳng hạn nếu tầng lớp chịu thuế không giảm tiêu thụ mà giảm tiết kiệm, trong khi đó CP phải dùng số thuế thu được trợ cấp cho những người có thu nhập thấp thì số tiêu thụ chung lạI gia tăng, số đầu tư giảm và kết quả là làm tăng khả năng tăng vật giá. Nêú Nhà nước dùng số chi ngân sách để đầu tư của nhà nước tăng lên, đầu tư chung không đổi, lưu ý hai trường hợp: Thứ nhất, nếu CSTT chống lạm phát,ngân sách thăng bằng vãn có thể tác dụng ngược với CSTT chống suy thoái. Thứ hai, Trường hợp CSTT nhằm chống suy thoái, Ngân sách cân bằng vẫn có thể chuyển dịch thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tiêu thụ. - Trường hợp NS thặng dư: Đây là trường hợp rất có lợi vì nó rút bớt khối tiền tệ dư thừa, tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu. Để thực hiện tốt các mục tiêu và nội dung như đã nêu ở trên, bản thân CSTT phải sử dụng một cách có hiệu quả nhất các công cụ mà nó có được. Các công cụ đó bao gồm cả các ưu và nhược đIúm.Vì vậy trong khi sử dụng cần hết sức lưu ý,tránh tình trạng quá đà không kiểm soát nổi để chúng gây phản tác dụng, gây ra những hậu quả khó lường đối với nền KT. II. Các công cụ của chính sách tiền tệ Công cụ chính sách tiền tệ là các hoạt động được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất, từ đó mà đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. II.1. Các công cụ trực tiếp. Các công cụ sau được gọi là các công cụ trực tiếp bởi vì thông qua chúng, NHNN có thể tác động trực tiếp tới khối lượng tiền trong lưu thông mà không cần phải thông qua các công cụ khác.Công cụ trực tiếp được áp dụng phổ biến ở các nước trong thời kỳ hoạt động tài chính được điều tiết chặt chẽ là hạ mức tín dụng. II.1.1 Hạn mức tín dụng Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng trung ương buộc các tổ chức tín dụng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ được quy định cho từng Ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của nó ( cơ cấu khách hàng, mức rủi ro), định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể, nhu cầu tài trợ các đối tượng chính sách và nó phải nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Công cụ này thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Trong trường hợp các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lãi suất hay Ngân hàng trung ương không có khả năng không chế và kiểm soát được sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại thì hạn mức tín dụng là cứu cánh của Ngân hàng trung ương trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu tính linh hoạt và đôi khi đi ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng do đó đẩy lãi suất lên cao hoặc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại. II.1.2. Lãi suất tiền gửi và cho vay. Lãi suất là con át chủ bài tác động đến đầu tư và tiêu dùng là hành lang mà từ đó những sự thay đổi trong cung ứng tiền dẫn đến sự thay đổi trong kinh tế vĩ mô. NHTW có thể qui định khung lãi suất tiền gửi và cho vay trên thị trường nhưng thông qua cơ chế điều chỉnh cung cầu tiền tệ. Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm tăng nguồn vốn vay, ngược lại sẽ làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Khi muốn tăng khối lương cho vay, NHTW giảm mức lãi suất cho vay để kich thích các nhá đầu tư vay vốn, khi cần hạn chế đầu tư NHTW sẽ ấn định mức lãi suất cao. Tuy nhiên, biện pháp này làm cho các NHTM mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở Ngân hàng, nhưng lại thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền để dự trữ vàng, ngoại tệ, bất động sản trong khi ngân hàng bị thiếu hụt về tiền mặt cũng như nguồn cho vay. Biện pháp này có ưu điểm là giúp Ngân hàng lựa chọn những dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loạI bỏ các dự án kém hiệu quả nhưng nó cũng làm cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm, các NHTM bị động trong kinh doanh. Ngày nay biện pháp này ít được sử dụng ở các nước theo cơ chế thị trường bởi trong cơ chế thị trường lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. II.1.3. Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và đầu tư, phát hành trái phiếu: Như đã xét ở trên, khi NSNN bị thiếu hụt thì một trong các biện pháp giải quyết đó là phát hành tiền. Rõ ràng là biện pháp này làm tăng lượng tiền trong lưu thông, trong khi lượng hàng hoá không tăng hoặc tăng không kịp dãn đến hậu quả tất yếu là lạm phát. Chính vì vậy mà công cụ nay hoàn toàn không nên sử dụng. Phát hành trực tiếp cho đầu tư có thể thông qua con đường NSNN hoặc là bằng con đường tín dụng ngân hàng.Biện pháp này còn được gọi là biện pháp ứng trước cho sản xuất,là một biện pháp tốt trong trường hợp nền KT suy thoái,dư thừa tiềm năng.Nó sẽ mang lại hiệu quả tích cực, khơi dậy các tiềm năng về tài nguyên và con người. Trong điều kiện các biện pháp khác không thuận lợi, Nhà nước muốn làm giảm lượng tiền trong lưu thông, có htể phát hành một lượng nhất định trái phiếu CP để thu hút khối lượng tiền trong lưu thông. Bên cạnh các công cụ trực tiếp trên, CSTT còn bao gồm các công cụ gián tiếp tác động đến cung cầu tiền tệ thông qua các tác động của thị trường tiền tệ. II.2. Các công cụ gián tiếp Đây là nhóm công cụ tác đông trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ, thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Thuộc về nhóm công cụ này bao gồm: II.2.1.Dự trữ bắt buộc II.2.1.1. Khái niệm và nội dung: Dự trữ bắt buộc là số tiền các ngân hàng thương mại buộc phải duy trì trên một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại Ngân hàng trung ương. Nó được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời gian nào đó. Mức dự trữ bắt buộc được quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt động của ngân hàng thương mại Cơ chế tác động của dự trữ bắt buộc: Việc thay đổi dự trữ bắt buộc và do đó mức dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng theo ba cách: Thứ nhất: giả sử Ngân hàng trung ương quyết định tăng tỷ lệ bắt buộc từ 10% đến 12%, bộ phận dự trữ dư thừa trước đây giờ trở thành bắt buộc, làm giảm khả năng cho vay của hệ thông Ngân hàng thương mại. Thứ hai: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một thành phần trong mẫu số của công thức tạo tiền. Vì thế sự tăng lên của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hệ số tạo tiền và do đó khả năng mở rộng tiền gửi của hệ thống Ngân hàng giảm. Thứ ba: tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên làm giảm mức cung vốn Ngân hàng trung ương trên thị trường liên Ngân hàng. Trong điều kiên nhu cầu vốn khả dụng không thay đổi, sự sút giảm này làm tăng lãi suất liên Ngân hàng, từ đó mà tác động đến các mức lãi suất dài hạn và khối lượng tiền cung ứng. Quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây lên những ảnh hưởng ngược lại. Thí dụ, bảng tổng kết tài sản của một ngân hàng trước khi có sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc như phần a trong bảng sau: a. tỷ lệ dự trữ bắt buộc: 10% Tài sản có Tài sản nợ Dự trữ: 100 Cho vay: 900 Tiền gửi: 1000 Với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% và tiền gửi là 1000, ngân hàng giữ 100 cho yêu cầu dự bắt buộc và có thể cho vay tối đa là 900. b.tỷ lệ bắt buộc: 5%. Tài sản có Tài sản nợ Dự trữ: 100 + Dự trữ bắt buộc: 50 + Dự trữ vượt mức: 50 Tiền gửi: 1000 Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm xuống 5% như phần b, ngân hàng vẫn có 100 dự trữ, nhưng trong đó phần dự trữ vượt mức là 50. Đây là bộ phận ngân hàng sẵn sàng cho vay, làm cho tổng số cho vay có thể lên đến 950. Điều này xảy ra ở tất cả các ngân hàng và sự tác động qua lại giữa các ngân hàng sẽ tạo lên sự thay đổi trong tổng số cho vay và tiền gửi của hệ thống ngân hàng bằng bội số của sự thay đổi dự trữ ban đầu. II.2.1.2. Ưu điểm và nhược điểm của dự trữ bắt buộc: Điểm lợi chính của công cụ này là nó tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và có tác dụng đâỳ quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên khi dự trữ bắt buộc không được trả lại, chúng tương đương với một khoản thuế và có thể dẫn đến hiện tượng phi trung gian hoá. Mặt khác bự trữ bắt buộc thiếu tính mềm dẻo bởi sẽ rất vất vả để thực hiện được những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi dự trữ bắt buộc. Một điểm bất lợi khác nữa của việc sử dụng dự trữ bắt buộc để kiểm soát việc cung ứng tiền tệ là việc tăng dự trữ bắt buộc cói thể gây ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh khoản của các NHTM, gây ra tình trạng không ổn định cho các ngân hành. Chính vì vậy công cụ dự trữ bắt buộc thường không được khuyến khích và ít được sử dụng. II. 2.2 Chính sách chiết khấu. II.2.2.1. Nội dung của chính sách chiết khấu: Chính sách chiết khấu là công cụ của chính sách tiền tệ, theo đó NHTW cho các NHTM vay dưới nhiều hình thức tái chiét khấu tức là hình thức NHTW tái cấp vốn cho các NHTM. Khi NHTW nâng lãi suất chiết khấu tức là hạn chế cho vay đối với các NHTM, khả năng cho vay của các ngân hàng giảm lượng tiền gửi giảm đồng nghĩa với việc lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại, khi lãi suất tái chiết khấu giảm, các ngân hàng kinh doanh sẽ có khả năng bành trướng tín dụng do được lợi trong việc vay vốn của NHTW, bởi vậy NHTM sẵn sàng hạ lãi suất khi cho các doanh nghiệp vay, kích thích đầu tư và sản lượng. II.2.2.2. Hoạt động của cửa sổ chiết khấu: Ngân hàng trung ương có thể tác động đến khối lượng vay chiết khấu bằng hai cách: bằng cách tác động đến giá cả của khoản vay( lãi suất chiết khấu) hoặc bằng cách tác động đến số lượng vay thông qua việc Ngân hàng trung ương quản lý cửa sổ chiết khấu. Thực tế cho thấy, lãi suất chiết khấu thường thấp hơn lãi suất thị trường, do vậy nên đã khuyến khích rất nhiều Ngân hàng vay của Ngân hàng trung ương với lãi suất thấp và dùng tiền vay đó cho vay lại hoặc mua chứng khoán với lãi suất cao hơn. Các Ngân hàng được coi là không được phép kiếm lợi từ các khoản vay chiết khấu và Ngân hàng trung ương cố gắng ngăn chặn tình hình này bằng cách quy định các thể lệ cho từng Ngân hàng một tỉ lệ đó giới hạn các ngân hàng này có thể được vay chiết khấu thường xuyên đến mức nào. Giới hạn đó gọi là cửa sổ chiết khấu. Nếu một ngân hàng thường vay đến cửa sổ chiết khấu quá nhiều, thì Ngân hàng trung ương sau này sẽ không cấp các khoản vay đó nữa. Việc các ngân hàng được đến các cửa sổ chiết khấu là một đặc ân chứ không phải là một quyền hạn. Ngân hàng phải chịu ba loại phí khi đến vay tại cửa sổ chiết khấu: - Phí l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72998.doc
Tài liệu liên quan