Đề án Lãi suất và vấn đề sử dụng các chính sách lãi suất trong việc điều tiết nền kinh tế ở Việt Nam

Trong nền kinh tế thị trường lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất bởi nó có quan hệ mật thiết đối với lợi ích kinh tế của từng người trong xã hội. Lãi suất tác động đến quyết định của mỗi cá nhân: chi tiêu hay tiết kiệm để đầu tư. Sự thay đổi của lãi suất có thể dẫn tới sự thay đổi quyết định của mỗi doanh nghiệp: vay để mở rộng sản xuất, hoặc đầu tư vào đâu có lợi nhất. Thông qua những quyết định của cá nhân, doanh nghiệp lãi suất ảnh hưởng đến mức độ phát triển cũng như cơ cấu của nền kinh tế đất nước.

Công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta trong hơn mười năm qua đã tạo cho đất nước bộ mặt mới, sức sống mới. Những thành tựu đạt được trên các mặt đã đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, từ đó tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới của đất nước - giai đoạn phát triển không chỉ theo chiều rộng mà còn hướng tới chiều sâu. Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, ý thức được lãi suất là công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, Chính phủ, Ngân hàng nhà nước đã có những bước cải cách quan trọng về lãi suất để tiến dần tới tự do hoá hoàn toàn lãi suất ở nước ta - đáp ứng đòi hỏi mang tính tất yếu của nền kinh tế thị trường. Lãi suất bước đầu đã điều chỉnh theo yêu cầu của thị trường, chế độ kiểm soát lãi suất cứng nhắc dần được nới lỏng, ngày càng trở nên linh hoạt. Tuy nhiên, hiện nay việc xây dựng và thực thi một chính sách lãi suất tiến tới tự do hoá trên cơ sở vừa đảm bảo được sự kiểm soát của nhà nước đối với thị trường nhằm phù hợp với mục tiêu và diễn biến của các biến kinh tế vĩ mô, với thực trạng thị trường tài chính trong nước đang là một bài toán khó đối với các nhà hoạch định chính sách.

Xuất phát từ những lý do trên, em đã lựa chọn đề tài: “Lãi suất và vấn đề sử dụng các chính sách lãi suất trong việc điều tiết nền kinh tế ở Việt Nam”. Đề án gồm ba chương:

Chương I: Lý thuyết chung về lãi suất.

Chương II: Những chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua.

Chương III: Giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất ở Việt Nam - Tự do hoá lãi suất.

Thông qua việc sử dụng các kênh thông tin thứ cấp: sách, báo, tạp chí. với phương pháp thống kê, phân tích kinh tế, tổng hợp, so sánh số liệu. Bằng cách kết hợp việc nghiờn cứu lý thuyết và thực tế, thực trạng của nền kinh tế, của chớnh sỏch lói suất ở Việt Nam. Mục đích của đề án là trình bày rõ lý luận về lãi suất trên phương diện chung, từ đó đi nghiên cứu các chính sách lãi suất đã sử dụng ở Việt Nam nhằm thấy rõ những ưu điểm và các mặt hạn chế của từng chính sách qua đó có thể rút ra những bài học để hoàn thiện chính sách lãi suất ở Việt Nam, giải pháp để tiến hành tự do hoá lãi suất.

 

doc33 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 960 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề án Lãi suất và vấn đề sử dụng các chính sách lãi suất trong việc điều tiết nền kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trong nền kinh tế thị trường lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất bởi nó có quan hệ mật thiết đối với lợi ích kinh tế của từng người trong xã hội. Lãi suất tác động đến quyết định của mỗi cá nhân: chi tiêu hay tiết kiệm để đầu tư. Sự thay đổi của lãi suất có thể dẫn tới sự thay đổi quyết định của mỗi doanh nghiệp: vay để mở rộng sản xuất, hoặc đầu tư vào đâu có lợi nhất. Thông qua những quyết định của cá nhân, doanh nghiệp lãi suất ảnh hưởng đến mức độ phát triển cũng như cơ cấu của nền kinh tế đất nước. Công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta trong hơn mười năm qua đã tạo cho đất nước bộ mặt mới, sức sống mới. Những thành tựu đạt được trên các mặt đã đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, từ đó tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới của đất nước - giai đoạn phát triển không chỉ theo chiều rộng mà còn hướng tới chiều sâu. Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, ý thức được lãi suất là công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, Chính phủ, Ngân hàng nhà nước đã có những bước cải cách quan trọng về lãi suất để tiến dần tới tự do hoá hoàn toàn lãi suất ở nước ta - đáp ứng đòi hỏi mang tính tất yếu của nền kinh tế thị trường. Lãi suất bước đầu đã điều chỉnh theo yêu cầu của thị trường, chế độ kiểm soát lãi suất cứng nhắc dần được nới lỏng, ngày càng trở nên linh hoạt. Tuy nhiên, hiện nay việc xây dựng và thực thi một chính sách lãi suất tiến tới tự do hoá trên cơ sở vừa đảm bảo được sự kiểm soát của nhà nước đối với thị trường nhằm phù hợp với mục tiêu và diễn biến của các biến kinh tế vĩ mô, với thực trạng thị trường tài chính trong nước đang là một bài toán khó đối với các nhà hoạch định chính sách. Xuất phát từ những lý do trên, em đã lựa chọn đề tài: “Lãi suất và vấn đề sử dụng các chính sách lãi suất trong việc điều tiết nền kinh tế ở Việt Nam”. Đề án gồm ba chương: Chương I: Lý thuyết chung về lãi suất. Chương II: Những chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua. Chương III: Giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất ở Việt Nam - Tự do hoá lãi suất. Thông qua việc sử dụng các kênh thông tin thứ cấp: sách, báo, tạp chí... với phương phỏp thống kờ, phõn tớch kinh tế, tổng hợp, so sỏnh số liệu. Bằng cách kết hợp việc nghiờn cứu lý thuyết và thực tế, thực trạng của nền kinh tế, của chớnh sỏch lói suất ở Việt Nam. Mục đích của đề án là trình bày rõ lý luận về lãi suất trên phương diện chung, từ đó đi nghiên cứu các chính sách lãi suất đã sử dụng ở Việt Nam nhằm thấy rõ những ưu điểm và các mặt hạn chế của từng chính sách qua đó có thể rút ra những bài học để hoàn thiện chính sách lãi suất ở Việt Nam, giải pháp để tiến hành tự do hoá lãi suất. Chương I. Lý thuyết chung về lãi suất 1. Khái niệm về lãi suất. Khái niêm về lãi suât. * Theo quan điểm của K.Marx: “Lãi suất là phần giá trị thặng dư được tạo ra do kết quả bóc lột lao động làm thuê bị tư bản - chủ ngân hàng chiếm đoạt”. Như vậy theo K.Marx lãi suất có nguồn gốc từ lợi nhuận, là một bộ phận của lợi nhuận. Từ quan điểm của K.Marx cho thấy nhìn chung lãi suất tỷ suất lợi nhuận bình quân. Tuy nhiên, ta thấy phạm vi đề cập của K.Marx chỉ ở phạm vi của quan hệ cho vay và đi vay do sự phát triển hạn chế của các quan hệ tài chính, tiền tệ ở thời kỳ đó. * Quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại cho rằng:“Lãi suất chính là sự trả công cho số tiền vay, là phần thưởng cho “sở thích chi tiêu tư bản”. lãi suất do đó còn được gọi là sự trả công cho sự chia lìa với của cải, tiền tệ.” (J.M. Keynes). Nói một cách khác lãi suất chính là chi phí cơ hội của việc giữ tiền, là kết quả của hoạt động tiền tệ. Quan điểm coi lãi suất là kết quả của hoạt động tiền tệ, là chi phí cơ hội của việc giữ tiền có thể nói là một bước tiến lớn trong việc xác định các hình thức biểu hiện và những nhân tố tác động tới lãi suất. Tóm lại, lãi suất được hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng-giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức tài sản khác nhau. Khi đến hạn, người đi vay sẽ phải trả cho người cho vay một khoản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn gọi là lãi suất (World Bank). 1.2. Các loại lãi suất cơ bản và phương pháp đo lường. 1.2.1. Lãi suất đơn. Vay đơn là cung cấp cho người vay một khoản tiền vốn, vốn này phải được hoàn trả người cho vay vào ngày mãn hạn cùng với một khoản tiền phụ được gọi là tiền lãi. Đối với những khoản tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay đơn, lãi suất được gọi là lãi suất đơn. Phương pháp tính lãi suất đơn: Tiền lãi Lãi suất đơn = –––––––––– Tổng số vốn Như vậy ta thấy việc tính toán lãi suất đơn rất đơn giản và thông thường được áp dụng trong các món vay thương mại có thời hạn ngắn hơn một năm hay là thời hạn cho vay trùng khít với chu kỳ tính lãi. 1.2.2. Lãi suất tích họp. Từ việc xem xét lãi suất đơn ta thấy nảy sinh vấn đề: nếu chúng ta tham gia vào một quan hệ tín dụng dài hạn hơn, 2 hoặc nhiều năm, trong đó chu kỳ tính lãi lại thường là một năm hoặc thậm chí ít hơn, tức là chu kỳ tính lãi nhỏ hơn thời gian tín dụng mà lại áp dụng cách tính toán trên đây thì, một là mặc nhiên đã có sự thừa nhận một mức lãi suất giống nhau giữa các thời kỳ khác nhau, và hai là chúng ta đã không tính toán đầy đủ giá trị của việc sử dụng số tiền vốn dĩ đã lớn hơn số tiền gốc ban đầu do khoản tiền lãi của chu kỳ tính lãi hoặc năm trước đó đem lại. Chính vì lẽ đó lãi suất tích họp được coi là công bằng và chính xác hơn trong việc đo lường lãi suất đối với các món vay dài hạn. Lãi suất tích họp là loại lãi suất tính cho các khoản vay mà thời gian tín dụng chia làm nhiều chu kỳ tính lãi, ở chu kỳ tính lãi đầu tiên lãi suất tích họp được tính toán dựa trên cơ sở lãi suất đơn, nhưng từ chu kỳ tính lãi thứ hai trong thời hạn tín dụng do số vốn tín dụng thực tế đã được tích luỹ thêm phần tiền lãi của chu kỳ trước nên lãi suất đơn tính cho các chu kỳ sau sẽ lớn hơn chu kỳ đầu và “tích họp” lại chúng ta sẽ có một mức lãi suất cho suốt thời kỳ khác so với mức lãi suất đơn ban đầu. Một cách đơn giản, chúng ta có thể hiểu lãi suất tích họp là lãi suất có tính đến yếu tố “lãi mẹ đẻ lãi con”. Phương thức đo lường lãi suất tích họp: it = (1+i)1/t -1 Trong đó: - it là lãi suất tích họp tại chu kỳ tính lãi bất kỳ (t) nào đó. - i là lãi suất đơn hàng năm. Ưu điểm: - Lãi suất tích họp đã giải quyết được nhược điểm của lãi đơn, nó phản ánh được mức lãi suất phụ thuộc vào độ dài thời gian của tín dụng và chu kỳ tính lãi: độ dài thời gian tín dụng càng lớn hơn chu kỳ tính lãi, lãi suất tích họp càng lớn. - Lãi suất tích họp cho phép tính toán chính xác hơn số tiền lãi trong các khoản vay ngắn hạn thậm chí theo số ngày. Chính điều này đã làm cho thị trường tiền tệ với những món vay mượn nóng ngày càng trở nên sôi động hơn. 1.2.3. Lãi suất hoàn vốn. Lãi suất hoàn vốn là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được từ một khoản tín dụng với giá trị hôm nay của khoản tín dụng đó. Lãi suất hoàn vốn thường được áp dụng đối với các khoản tín dụng mà việc trả vốn và lãi theo định kỳ hoặc trả một khoản cố định theo định kỳ, chẳng hạn vay cố định hoặc trái phiếu coupon. Phương pháp tính: - Trường hợp thời hạn tín dụng là n năm ta có PV(1+i)n =FVn hay PV=FVn/(1+i)n Trong đó - PV: giá trị hiện tại - FVn: giá trị tương lai sẽ được thanh toán của số tiền sau thời gian tín dụng. - Trường hợp những khoản tín dụng trả từng phần cố định vào thời điểm cuối mỗi năm trong suốt thời kỳ tín dụng thì ta có: PV=FP/(1+i)1+FP/(1+i)2+…+FP/(1+i)n  Trong đó FP: khoản thanh toán hàng năm đã biết. Để tính lãi suất hoàn vốn (i) ta phải giải các phương trình trên. - Đối với trái phiếu Coupon, người sở hữu trái phiếu Coupon sẽ được thanh toán số lợi nhuận ở dạng tiền Coupon cố định hàng năm và đến năm cuối cùng của kỳ hạn sẽ nhận nốt số Coupon cuối cùng và toàn bộ tiền vốn. Do đó ta có: PV = C/(1+i)1 + C/(1+i)2 + … + C/(1+i)n + F/(1+i)n Trong đó: - C là số tiền coupon cố định nhận được hàng năm. - F là số tiền vốn nhận được vào năm cuối cùng của kỳ hạn. Giải phương trình trên ta được lãi suất hoàn vốn (i) của trái phiếu Coupon. Việc giải các phương trình trên được thực nhờ các phần mềm tính toán của máy tính hoặc tra bảng. Nhằm làm đơn giản việc tính toán lãi suất hoàn vốn của các trái phiếu trên thương trường một cách nhanh chóng, ngay cả khi không có máy tính cá nhân và bảng số, hai hình thức vận dụng lãi suất hoàn vốn là lãi suất hoàn vốn hiện hành và lãi suất hoàn vốn trên cơ sở tính giảm. 1.2.3.1. Lãi suất hoàn vốn hiện hành. Phương pháp tính: bằng tỷ số giữa tiền thanh toán coupon hàng năm với giá của trái phiếu đó. ic = C/Pcb Trong đó: - ic là lãi suất hoàn vốn hiện hành của trái phiếu coupon. Pcb là giá của trái phiếu coupon. C là tiền coupon hàng năm. 1.2.3.2. Lãi suất hoàn vốn trên cơ sở tính giảm. Sử dụng cho các loại trái phiếu chiết khấu hay tính giảm, tức là để trả thu nhập cho người mua người ta bán trái phiếu với giá thấp hơn mệnh giá của nó. Để đơn giản người ta tính tỷ suất lợi nhuận của trái phiếu và coi tỷ suất đó như là lãi suất hoàn vốn: itg = {(F - Ptg)/F}(360/N) Trong đó: - itg là lãi suất hoàn vốn trên cơ sở tính giảm. F là mệnh giá của trái phiếu tính giảm. Ptg là giá bán trái phiếu. N số ngày tới khi đến hạn thanh toán của trái phiếu. 1.3. Một số phân biệt về lãi suất. 1.3.1. Lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa. Tỷ lệ lạm phát hay tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong một thời gian nhất định luôn làm cho giá trị thực trở nên nhỏ hơn giá trị danh nghĩa. Vì vậy, lãi suất thực luôn nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa bởi tỷ lệ lạm phát nói trên. - Trường hợp tỷ lệ lạm phát (ii) không lớn hơn 10% thì lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có liên hệ với nhau qua công thức: ir = in + ii Trong đó: - ir là lãi suất thực in là lãi suất danh nghĩa ii là tỷ lệ lạm phát - Trường hợp tỷ lệ lạm phát ii cao hơn 10% thì lãi suất thực phải tính theo công thức sau: in - ii ir = ––– ii + 1 Ta thấy tỷ lệ lạm phát càng cao, lãi suất thực càng thấp. 1.3.2. Lãi suất và tỷ suất lợi tức. Lãi suất là tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn cho vay. Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm của số thu nhập của người có vốn trên tổng số vốn anh ta đã đưa vào sử dụng (đầu tư hay cho vay). Ví dụ về lãi suất và tỷ suất lợi tức: Ông A mua một trái phiếu kho bạc có thời hạn là 1 năm, mệnh giá là 1.000.000 VND với lãi suất cố định là 6% năm. Nếu ông A giữ trái phiếu đó cho đến ngày đáo hạn và nhận khoản thu nhập bằng 6% mệnh giá trái phiếu và đúng bằng lãi suất của trái phiếu. Nhưng nếu lãi suất trên thị trường là 5%, ông A đem bán trái phiếu này và thu được 1.200.000 VND, thì lúc này khoản thu nhập của ông A là 200.000 VND và tỷ suất lợi tức là 20%. Như vậy, lãi suất không nhất thiết phải bằng với tỷ suất lợi tức. Trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, ngoài một tỷ lệ lãi nhất định các tổ chức này còn đòi hỏi người vay tiền phải trả thêm các khoản phí, và do đó, tổng thu nhập từ những khoản cho vay không chỉ là phần tiền lãi có được do lãi suất cho vay mang lại mà còn cộng thêm các khoản chi phí trên. Tỷ lệ % của tổng thu nhập (còn gọi là chi phí tài chính đối với người đi vay) trên số vốn cho vay chính là tỷ suất lợi tức hay lãi suất hiệu quả của tổ chức tín dụng. 1.3.3. Các lãi suất cơ bản của ngân hàng. Ba loại lãi suất cơ bản của ngân hàng thường được quan tâm hơn cả bao gồm lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất liên ngân hàng. - Lãi suất tiền gửi thông thường là lãi suất mà ngân hàng thương mại (NHTM) trả cho người gửi tiền trên số tiền ở tài khoản tiền tiết kiệm, lãi suất tiền gửi được xác định thông qua công thức: itg = icb + ii Trong đó: - itg là lãi suất tiền gửi. - icb là tỷ lệ lãi cơ bản của ngân hàng trả cho từng loại tiền gửi khác nhau. - Lãi suất cho vay là lãi suất mà ngân hàng cho các cá nhân, tổ chức vay vốn trong thời hạn nhất định, tuỳ theo tính chất của món vay và thời gian vay vốn mà lãi suất cho vay được xác định khác nhau, tuy vậy lãi suất cho vay thường được xác định dựa trên cơ sở của lãi suất tiền gửi: icv = itg + X Trong đó: - icv là lãi suất cho vay. - X là chi phí nghiệp vụ của ngân hàng. - Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay tiền tệ như lãi suất LIBOR hay PIBOR... tương ứng với lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng London hay Paris... 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. 2.1. Cung cầu của quỹ cho vay. Lãi suất là giá cả của cho vay chính vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của cung và cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ làm thay đổi mức lãi suất trên thị trường Từ đó cho thấy ta có thể điều chỉnh mức lãi suất trên thị trường bằng cách tác động vào cung cầu vốn trên thị trường mặt khác muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thì sự ổn định của thị trường vốn phải được đảm bảo vững chắc. 2.2. Lạm phát dự tính. Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng tăng lên (hiệu ứng Fisher). Nguyên nhân: - Xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa cho thấy để duy trì lãi suất thưc không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. - Công chúng dự đoán lạm phát tăng sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hoá hoặc những dạng thức tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh… chính điều này sẽ làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất của các ngân hàng cũng như trên thị trường. 2.3. Hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước vừa là nguồn cung tiền gửi vừa là nguồn cầu tiền vay đối với ngân hàng. Do đó, sự thay đổi giữa thu, chi ngân sách Nhà nước là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. Ngân sách bội chi hay thu không kịp tiến độ sẽ dẫn đến lãi suất tăng. Để bù đắp, chính phủ sẽ vay dân bằng cách phát hành trái phiếu. Như vậy lượng tiền trong dân chúng sẽ bị thu hẹp làm tăng lãi suất. Ngoài ra khi thâm hụt ngân sách đã trực tiếp làm cầu về quỹ cho vay trong các định chế tài chính tăng lên, trong khi cung lại giảm và nâng cao lãi suất hoặc người dân dự đoán lạm phát sẽ tăng cao do Nhà nước tăng khối lượng cung ứng tiền tệ, dẫn tới việc găm tiền lại để mua tài sản khác làm cung quỹ cho vay bị giảm một cách tương ứng và lãi suất tăng lên. 2.4. Thay đổi của thuế. Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty khi tăng lên có nghĩa là điều tiết đi một phần thu nhập của những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia kinh doanh chứng khoán. Mọi người đều quan tâm tới lợi nhuận sau thuế hay thu nhập thực tế hơn là thu nhập danh nghĩa do đó để đảm bảo mức lợi nhuận thực tế họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi của thuế. Vấn đề xác lập và điều chỉnh thuế cho phù hợp nhằm hạn chế những tác động ngoài ý muốn. 2.5. Tỷ giá. Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như cán cân thanh toán quốc tế, cung cầu ngoại tệ, lạm phát… trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay làm cho không một quốc gia nào, nếu muốn tồn tại và phát triển, lại không tham gia thực hiện phân công lao động và thương mại quốc tế. Thông qua quá trình trao đổi buôn bán giữa các nước, tỷ giá (tỷ giá được niêm yết theo phương pháp biểu hiện trực tiếp) của một nước tăng, xuất khẩu tăng lên nguồn thu ngoại tệ tăng lên. Điều đó làm tăng cung ngoại tệ, tương đương với việc tăng cầu nội tệ kết quả là làm lãi suất tăng lên. Bằng cách lập luận tương tự, chúng ta sẽ thu được một mức lãi suất nội tệ thấp hơn nếu tỷ giá giảm, đồng nội tệ có giá hơn. Tóm lại, khi mức giá của đồng tiền một nước so với các nước khác giảm xuống thì một ước đoán hợp lý là lãi suất trong nước sẽ tăng lên và ngược lại. 2.6. Những thay đổi trong đời sống xã hội. Ngoài những yếu tố ở trên, lãi suất còn rất nhạy cảm với những biến đổi của tình hình kinh tế, chính trị cũng như những biến động tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới... Từ cuối năm 2000, nền kinh tế Mỹ rơi vào tỡnh trạng suy thoỏi. Cỏc nền kinh tế lớn khỏc trờn thế giới : Tõy Âu, Nhật Bản,... cũng rơi vào tỡnh trạng trỡ trệ. Để cứu vón xu thế đú, từ ngày 4-1-2001, Cục dự trữ liờn bang Mỹ - FED (Ngõn hàng trung ương của nước này) đó 11 lần hạ lói suất chủ đạo của mỡnh, từ 6,5%/năm (trước thỏng 1-2001) lần lượt xuống cũn 1,75%/thỏng (từ 12-12-2001), thấp nhất trong vũng hơn 30 năm qua trong lịch sử nền kinh tế Mỹ. Ngõn hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) hạ lói suất của mỡnh xuống bằng 0. Ngõn hàng trung ương chõu Âu (ECB) cũng nhiều lần hạ lói suất của mỡnh... Tỏc động dõy chuyền của lói suất trờn cỏc thị trường chủ chốt của thế giới : Thị trường liờn ngõn hàng Luõn Đụn (LIBOR), Thị trường liờn ngõn hàng Xin-ga-po (SIBOR),... cũng liờn tục giảm. Ở Việt Nam, để hạn chế tỏc động tiờu cực của xu hướng suy giảm nền kinh tế toàn cầu từ đầu năm 2001 đến nay, ngân hàng nhà nước (NHNN) đó cắt giảm lói suất cơ bản đối với đồng Việt Nam (VND) tới 4 lần, từ mức 0,75%/thỏng, xuống cũn 0,725%, 0,65% và 0,60%/thỏng (từ 1-11-2001) ; đồng thời, 2 lần cắt giảm lói suất tỏi cấp vốn, từ mức 0,50% xuống 0,45%/thỏng rồi 0,40%, 2 lần cắt giảm lói suất tỏi chiết khấu từ 0,45%/thỏng xuống 0,40% rồi 0,35%. 3. ảnh hưởng của lãi suất trong nền kinh tế. 3.1. Lãi suất với quá trình huy động vốn. Đối với Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ và sử dụng vốn có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và các tổ chức kinh tế đảm bảo đúng định hướng vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng trong chiến lược CNH-HĐH nước ta hiện nay. Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất phải bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích luỹ cho cả người cho vay và người đi vay. Cụ thể: + Tỷ lệ lạm phát< lãi suất tiền gửi < lãi suất tiền vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân. + Lãi suất ngắn hạn < lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay) Lãi suất có khả năng điều tiết một cách tự nhiên lượng vốn lưu thông từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ người có vốn sang người cần vốn để đưa vốn vào sử dụng trong các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh có lợi cho nền kinh tế và xã hội. Mức lãi suất nhỏ hơn mức hợp lí sẽ khiến người vay đánh giá thấp giá trị sử dụng của đồng vốn dẫn đến đầu tư không hiệu quả, lãng phí nguồn vốn, gây thiệt hại cho bản thân người đi vay lẫn người cho vay và hơn nữa, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, mức lãi suất cao hơn mức hợp lí tức là đánh giá quá cao giá trị sử dụng của đồng vốn thì chỉ có tác dụng khuyến khích người cho vay, làm cho vốn trở nên dư thừa, ứ đọng, không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh, không sinh lãi, lúc đó đồng vốn trở thành “vốn chết” không còn tác dụng gì nữa. 3.2. Lãi suất với quá trình đầu tư. Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các hãng kinh doanh có điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư và ngược lại. Trong môi trường tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho việc đầu tư vào mở rộng sản xuất doanh nghiệp có thể mua chứng khoán hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suất của nó cao. Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị đình trệ, hàng hoá ứ đọng và xuống giá, có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì nguyên tắc cơ bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư. 3.3. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm. Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề hàng hoá lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó. Khi lãi suất thấp chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho việc tiêu dùng hàng hoá nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn, khi lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng. 3.4. Lãi suất với tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu. Như ta đã biết, tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như cán cân thanh toán quốc tế, cung cầu ngoại tệ, lạm phát…Lãi suất luôn là một công cụ tác động mạnh đến tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu. Trong điều kiện thị trường mở, nếu lãi suất (lãi suất thực tế) trong nước tăng sẽ thu hút một lượng vốn lớn từ bên ngoài vào làm cho cầu nội tệ tăng lên dẫn đến giảm tỷ giá, tỷ giá giảm sẽ khiến cho xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng và ngược lại. Như vậy, bằng việc tác động vào lãi suất có thể bình ổn được tỷ giá và điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu. Đây là một phương pháp điều chỉnh tỷ giá đơn giản tuy nhiên lại không dễ thực hiện do khi lãi suất trong nước thay đổi sẽ dễ dẫn đến một cuộc cạnh tranh về lãi suất giữa các nước nhằm đảm bảo lợi ích cho nước mình. Mặt khác lãi suất cũng là một công cụ quá mạnh có thể ảnh hưởng đến hàng loạt biến kinh tế vĩ mô khác do đó việc sử dụng chính sách lãi suất phải hết sức thận trọng. 3.5. Lãi suất với lạm phát. Lạm phát là tình trạng tăng liên tục mức giá chung của nền kinh tế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm, cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được kiềm chế. Như vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ lãi suất trong chống lạm phát không thể duy trì lâu dài vì lãi suất tăng sẽ làm giảm đầu tư, giảm tổng cầu và làm giảm sản lượng. Do vậy lãi suất phải được sử dụng kết hợp với các công cụ khác thì mới có thể kiểm soát được lạm phát, ổn định giá cả, ổn định đồng tiền. Một chính sách lãi suất phù hợp là sự cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. 4. Các chính sách lãi suất cơ bản. 4.1. Tự do hoá lãi suất. Tự do hoá lãi suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính, tức là lãi suất được tự do biến động để phản ứng theo các lực lượng cung-cầu vốn trên thị trường, loại bỏ những áp đặt mang tính hành chính lên sự hình thành của lãi suất. Nó cho phép các ngân hàng tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất kinh doanh của mình. Tự do hoá tài chính (đặc biệt là tự do hoá lãi suất) góp phần huy động nguồn lực thông qua hệ thống tài chính chính thức và nâng cao hiệu quả hệ thống tài chính, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tại sao mức độ thành công tự do hoá lãi suất của các quốc gia khác nhau lại không giống nhau, thậm chí gây hiệu quả tiêu cực? (úc, Nhật, New Zealand, Mỹ, Malaysia... có những thành công nhất định, trong khi Phillipines, Thổ Nhĩ Kỳ, Chi Lê, Achentina, Uruguay....lại thất bại). Câu trả lời nằm trong cách thức và tiến trình tự do hoá. Vấn đề ở đây chính là tiến hành những bước đi, cách thức trong quá trình tự do hoá lãi suất ở các quốc gia, nếu quốc gia nào trong quá trình tiến hành tự do hoá lãi suất mà có những chính sách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của quốc gia mình thì chúng ta thấy được rằng họ đã thành công, ngược lại những quốc gia tiến hành một cách máy móc không chú ý đến những điều kiện khách quan của đất nước mình thì cầm chắc thất bại. Như trường hợp Malaysia, từ năm 1981, đã cho phép các NHTM tự tính mức lãi suất cơ bản cho ngân hàng mình dựa trên cơ sở chi phí thực tế. Nhưng ngay sau đó, ngân hàng trung ương nhận thấy rằng trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa thực sự phát triển, việc cho phép các NHTM tự xác định mức lãi suất cơ bản như vậy theo nguyên tắc tự do hoá lãi suất sẽ dẫn đến cạnh tranh quá mức về lãi suất giữa các ngân hàng và khi đó vấn đề an toàn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM sẽ bị đe doạ. Chính vì vậy, để giải quyết kịp thời vấn đề nêu trên và nhất là sau thời kỳ suy thoái kinh tế (1985-1986), vào năm 1987, Malaysia chuyển sang điều hành lãi suất theo hướng vừa đảm bảo có sự phối hợp chỉ đạo của ngân hàng trung ương, vừa duy trì ở một mức độ nào đó quyền tự chủ của các NHTM. Nhờ đó mà lãi suất đã được quản lý linh hoạt theo diễn biến thay đổi của thị trường, và dựa trên cơ sở đảm bảo an toàn hệ thống. Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, để điều hành lãi suất, bên cạnh lãi suất có tính chất định hướng là lãi suất chiết khấu, họ cũng có áp dụng một số lãi suất có điều tiết mà được xây dựng dựa trên cơ sở lãi suất chiết khấu, thông thường theo cách này họ xác định được lãi suất cơ bản chính là sàn lãi suất cho vay nhằm đảm bảo an toàn hệ thống. Ngoài ra, lãi suấ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72208.doc
Tài liệu liên quan