Đề án Vai trò của Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta hiện nay

Định hướng cho sự phát triển của đất nước là một việc hết sức quan trọng: đi theo chủ nghĩa tư bản (CNTB), trở thành một nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) hay chỉ là một quốc gia trung lập ? Câu hỏi đó hiện nay đang làm đau đầu các nguyên thủ quốc gia, những người nắm trong tay vận mệnh của đất nước. Mặc dù hiện nay có rất nhiều nước quyết định đi theo CNTB nhưng Việt Nam chúng ta vẫn giữ vững quyết tâm trở thành một nước XHCN với mục tiêu: “ Xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằn dân chủ, văn minh”. Tuy nhiên, con đường xây dựng thành công CNXH ở nước ta vẫn còn rất nhiều vất vả, gian lao, hiện nay chúng ta vẫn đang ở thời kỳ qúa độ (TKQĐ), đang cố gắng xây dựng những điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất cho CNXH sau này. Có lẽ rằng, trong giai đoạn hiện nay việc có được một nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng trưởng hàng năm luôn ổn định ở mức cao là điều mà mọi người đều mong muốn. Để làm được điều đó bên cạnh việc tập trung mọi nguồn lực đề phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ chúng ta cũng không nên coi thường vai trò của kinh tế nông thôn. Bởi lẽ xuất phát điểm của nước ta là một nước nông ngiệp, nghề nông từ xưa đến nay vẫn luôn đem lại nguồn thu nhập chính, vẫn luôn gắn bó và trở thành một bộ phận không thể thiếu của đại bộ phận người dân Việt Nam. Tuy nhiên, với những khó khăn, thách thức mà chúng ta đang phải đối mặt hiện nay thì kinh tế nông thôn khó lòng phát triển được nếu như không có sự quan tâm đúng mức, kịp thời cùng với những chính sách hiệu quả và hợp lý của Nhà nước. Chính vì vậy tôi quyết định đề tài “Vai trò của Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta hiện nay” cho đề án kinh tế chính trị của mình.

doc15 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 959 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đề án Vai trò của Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời giới thiệu Nội dung Vai trò của kinh tế nông thôn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay Vai trò của kinh tế nông thôn trong htời kỳ quá độ II. Vai trò của Nhà nước đối với phát triển kinh tế nông thôn Vai trò của Nhà nước đối với phát triển kinh tế Vai trò của Nhà nước đối với phát triển kinh tế nông thôn Thực trạng kinh tế nông thôn ở Việt Nam giai đoạn hiện nay Nội dung cơ bản của quản lý Nhà nước đối với phát triển kinh tế nông thôn Chính sách của Nhà nước tác động đến nông nghiệp, nông thôn Thành tựu đạt được Kết luận Tài liệu tham khảo Trang 2 3 3 4 5 5 6 6 7 10 12 14 15 LỜI GIỚI THIỆU Định hướng cho sự phát triển của đất nước là một việc hết sức quan trọng: đi theo chủ nghĩa tư bản (CNTB), trở thành một nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) hay chỉ là một quốc gia trung lập…? Câu hỏi đó hiện nay đang làm đau đầu các nguyên thủ quốc gia, những người nắm trong tay vận mệnh của đất nước. Mặc dù hiện nay có rất nhiều nước quyết định đi theo CNTB nhưng Việt Nam chúng ta vẫn giữ vững quyết tâm trở thành một nước XHCN với mục tiêu: “ Xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằn dân chủ, văn minh”. Tuy nhiên, con đường xây dựng thành công CNXH ở nước ta vẫn còn rất nhiều vất vả, gian lao, hiện nay chúng ta vẫn đang ở thời kỳ qúa độ (TKQĐ), đang cố gắng xây dựng những điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất cho CNXH sau này. Có lẽ rằng, trong giai đoạn hiện nay việc có được một nền kinh tế phát triển với tốc độ tăng trưởng hàng năm luôn ổn định ở mức cao là điều mà mọi người đều mong muốn. Để làm được điều đó bên cạnh việc tập trung mọi nguồn lực đề phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ chúng ta cũng không nên coi thường vai trò của kinh tế nông thôn. Bởi lẽ xuất phát điểm của nước ta là một nước nông ngiệp, nghề nông từ xưa đến nay vẫn luôn đem lại nguồn thu nhập chính, vẫn luôn gắn bó và trở thành một bộ phận không thể thiếu của đại bộ phận người dân Việt Nam. Tuy nhiên, với những khó khăn, thách thức mà chúng ta đang phải đối mặt hiện nay thì kinh tế nông thôn khó lòng phát triển được nếu như không có sự quan tâm đúng mức, kịp thời cùng với những chính sách hiệu quả và hợp lý của Nhà nước. Chính vì vậy tôi quyết định đề tài “Vai trò của Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta hiện nay” cho đề án kinh tế chính trị của mình. NỘI DUNG I. VAI TRÒ CỦA KINH TẾ NÔNG THÔN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay Việt Nam chúng ta hiện nay đang ở TKQĐ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Với xuất phát điểm là một nước nông ngiệp nghèo nàn, lạc hậu nên TKQĐ ở Việt Nam sẽ kéo dài với nhiều rất khó khăn và trở ngại song không vì thế mà chúng ta từ bỏ con đường mà mình đã chọn bởi lẽ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu lịch sử đối với nước ta: Như chúng ta đã biết, TKQĐ là một thời kỳ lịch sử mà bất cứ quốc gia nào cũng phải trải qua ngay cả đối với những nước có nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hóa mới. Đối với một nước vừa mới trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều, các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ XHCN và nền độc lập dân tộc như Việt Nam chúng ta thì càng cần phải trải qua một TKQĐ lâu dài. Bên cạnh đó, thực tiễn đã khẳng định một sự thật CNTB là một chế độ lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng sẽ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa, khẳng định CNTB không phải là tương lai của loài người, chỉ có CNXH mới là xã hội đích thực mà nhân loại cần vươn tới. Việc lựa chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua CNTB là phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Điều đó đã thể hiện sự quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam là một quá trình tất yếu. Mục tiêu của CNXH ở nước ta là: xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu đó điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế xã hội; phải xây dựng được một nền kinh tế với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Muốn vậy trong TKQĐ chúng ta phải thực hiện các nhiệm vụ kinh tế cơ bản sau: Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. 2. Vai trò của kinh tế nông thôn trong thời kỳ quá độ Nông nghiệp, nông thôn là khu vực đặc biệt của nền kinh tế. Sự phát triển của khu vực này có vai trò quan trọng trong việc thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN. Vậy nông nghiệp, nông thôn là gì ? Chúng ta có thể hiểu một cách khái quát: Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là ngành sản xuất ra của cải vật chất mà con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi để tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của mình như lương thực, thực phẩm…Nông nghiệp theo nghĩa rộng còn bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp. Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. kinh tế nông thôn là một khu vực của nền kinh tế gắn với địa bàn nông thôn. Xét về mặt kinh tế - kỹ thuật, kinh tế nông thôn bao gồm nhiều ngành kinh tế như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp…Xét về mặt kinh tế - xã hội, kinh tế nông thôn bao gồm các thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể... Nông nghiệp, nông thôn có những vai trò không thể phủ nhận: Nông nghiệp, nông thôn cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội. Nhu cầu ăn là nhu cầu cơ bản, hàng đầu của con người. Xã hội có thể thiếu nhiều loại sản phẩm nhưng không thể thiếu lương thực, thực phẩm.Do đó, việc thỏa mãn các nhu cầu về lương thực, thực phẩm trở thành điều kiện khá quan trọng để ổn định kinh tế, chính trị, xã hội. sự phát triển của nông nghiệp có ý nghĩa quyết định đối với việc thỏa mãn nhu cầu này. Nông nghiệp cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp nhẹ. Các ngành công nghiệp nhẹ như: Chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp dệt, giấy, đường… phải dựa vào nguồn nguyên liệu chủ yếu từ nông nghiệp. Quy mô, tốc độ tăng trưởng của các nguồn nguyên liệu là nhân tố quan trọng quyết đinh quy mô, tốc độ tăng trưởng của các ngành công nghiệp này. Nông nghiệp cung cấp một phần vốn để công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong suốt cả thời kỳ quá độ lên CNXH. Để công nghiệp hóa thành công, đất nước phải giải quyết rất nhiều vấn đề và phải có vốn. Là nước nông nghiệp thông qua việc xuất khẩu nông sản phẩm, nông nghiệp, nông thôn có thể góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Nông nghiệp, nông thôn là thị trường quan trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Với những nước lạc hậu, nông nghiệp nông thôn tập trung phần lớn lao dộng và dân cư, do đó, đây là thị trường quan trọng của công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp, nông thôn càng phát triển thì nhu cầu về hàng hóa, tư liệu sản xuất cũng như nhu cầu về dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp đều tăng… Mặt khác, sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn làm cho mức sống của người nông dân tăng lên, nhu cầu của họ về các sản phẩm công nghiệp, nhu cầu về dịch vụ, văn hóa, y tế… ngày càng tăng. Phát triển nông nghiệp, nông thôn là cơ sở ổn định kinh tế, chính trị, xã hội. Nông thôn là khu vực kinh tế lớn,tập trung phần lớn dân cư của đất nước. Phát triển kinh tế nông thôn, một mặt đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ, là thị trường của công nghiệp nhẹ, dịch vụ… Do đó, phát triển kinh tế nông thôn là cơ sở ổn định, phát triển nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, phát triển nông nghiệp, nông thôn góp phần củng cố liên minh công nông, tăng cường sức mạnh cuả chuyên chính vô sản. Có thể nói, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào nông nghiệp, nông thôn vẫn giữ một vị trí quan trọng không thể thay thế trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, bên cạnh tập trung cho phát triển công nghiệp và dịch vụ, việc quan tâm và đầu tư đúng mức cho nông nghiệp, nông thôn cũng là một nhiệm vụ cần thiết không thể bỏ qua nhất là trong giai đoạn hiện nay. II. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN 1. Vai trò của Nhà nước đối với phát triển kinh tế Hiện nay, chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chặng đường trước mắt còn nhiều khó khăn thử thách rất cần có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước đảm bảo sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế phát triển.Khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới hành vi của các chủ thể kinh tế, điều chỉnh hành vi kinh tế của họ. Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là đảm bảo công bằng xã hội, giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn , giữa các vùng của đất nước. Nhà nước xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu qủa, ngăn chặn các nhữn tác động bên ngoài có thể gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của người dân. Sự xuất hiện của độc quyền làm giảm tính hiệu quả của hoạt động thị trường, vì vây, Nhà nước đứng ra bảo vệ cạnh tranh, chống độc quyền, nâng cao tính hiệu quả của thị trường. 2. Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế nông thôn 2.1 Thực trạng kinh tế nông thôn ở Việt Nam giai đoạn hiện nay Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ, thành tựu: đưa Việt Nam từ một nước thiếu lương thực trước năm 1989, trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới, cơ cấu nông nghiệp chuển dich dần theo hướng sản xuất hàng hóa… song nông nghiệp, nông thôn nước ta vẫn còn rất nhiều nhược điểm, hạn chế, xuất hiện những mâu thuẫn mới. Nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng tuyệt đối, tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ, nông nghiệp mang tính độc canh, manh mún; sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên, các hoạt động sản xuất ở nông thôn hiện nay chủ yếu vẫn dựa vào lao động thủ công kỹ thuật lạc hậu. Trình độ phát triển của nông nghiệp, nông thôn thấp kém hơn so với các ngành, các khu vực kinh tế khác: sự phân công lao dộng còn ở trình độ thấp, tỷ lệ thuần nông còn nặng. các nông hộ, vì vậy vừa sản xuất lương thực, vừa phải sản xuất các thứ khác, tức là “nhỏ mà đủ’. Không những thế họ còn phải làm đủ các việc từ trồng trọt, đến thu hoạch và cả tiêu thụ… Cư dân nông thôn chiếm tỷ lệ lớn trong dân số cả nước nhưng mức thu nhập, mức sống rất thấp. Số thanh niên chưa có việc làm cao trong khi đó kinh tế thành thị và hương trấn vẫn chưa đủ sức thu hút số lao dộng dư thừa. Bên cạnh đó, sức cạnh tranh của các hàng hóa nông sản vẫn còn hạn chế trên thị trường trong nước và xuất khẩu do: chất lượng còn thấp, chi phí cao, chủng loại đơn điệu, vệ sinh an toàn, thực phẩm thấp, quy cách và mẫu mã chưa phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Tình trạng cung vượt cầu diễn ra phổ biến và kéo dài đối với hầu hết các sản phẩm nông nghiệp đã dẫn đến giá lương thực, thực phẩm giảm và đứng ở mức thấp, kéo theo sức mua của nông dân và thị trường nông thôn tăng chậm. 2.2 Nội dung cơ bản của quản lý Nhà nước đối với kinh tế nông thôn Trong TKQĐ lên CNXH, phát triển nông thôn bao hàm các nội dung chủ yếu sau đây: 2.1.1 Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế ở nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế ở nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nghĩa là cơ cấu các ngành kinh tế nông thôn phải thay đổi theo hướng: Giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ. “ Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và có hiệu quả kinh tế cao; đẩy mạnh thâm canh các loại cây trồng trên cơ sử áp dụng các quy trình sản xuất đồng bộ và tiên tiến; quy hoạch diện tích sản xuất lương thực ổn định; phát triển mạnh chăn nuôi theo hướng quy mô lớn, an toàn dịch bệnh và bền vững về môi trường. Xây dựng các vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất và chế biến, khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, tự phát.” Phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, Văn kiện Đại hội 10 của Đảng, Thời báo kinh tế Việt Nam, số 78, ngày 19/4/2006, tr. 4. Phá thế độc canh trong nông nghiệp, đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, hình thành những vùng chuyên canh quy mô lớn nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu cho công nghiệp nhẹ và xuất khẩu . Sự hình thành các vùng chuyên canh quy mô lớn cho phép ứng dụng những thành tựu khoa học - nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của công nghệ. “Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu và thị trường nội địa đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái; chuyển dich cơ cấu khai thác qua việc lựa chọn ngư trường, loại hình nghề nghiệp và sản phẩm để nâng cao giá trị hàng hóa, sử dụng hợp lý nguồn lợi, giảm chi phí. Nâng cao sức cạnh tranh, bảo đảm tăng trưởng bền vững trong sản xuất, chế biến và xuất khẩu thủy sản.” Phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, Văn kiện Đại hội 10 của Đảng, Thời báo kinh tế Việt Nam, số 78, ngày 19/4/2006, tr. 4. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông thôn phải đặt trong điều kiện cơ chế thị trường, không được chủ quan duy ý chí, mà phải hết sức chú ý các nhân tố khách quan như: khả năng về vốn liếng, tổ chức quản lý, công nghệ… và đặc biệt là điều kiện thị trường. 2.2.2. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ trong nông nghiệp, nông thôn Đối với việc phát triển kinh tế nông thôn trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ là một nội dung rất quan trọng. Nó được thể hiện tập trung ở những lĩnh vực sau: Cơ giới hóa. Trước hết là cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp vừ giảm nhẹ lao động cho con người, vừa nâng cao năng suất và hiệu quả. Tuy nhiên cơ giới hóa phải đặc biệt chú ý những đặc điểm riêng củ sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Cơ giới hóa nông nghiệp phải tập trung vào những khâu lao động nặng nhọc (chẳng hạn như làm đất) và những khâu trực tiếp ảnh hưởng ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Thủy lợi hóa: Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Việt Nam là nước nông nghiệp nhiệt đới, nắng ẩm,mưa nhiều, do đó, hạn hán và úng lụt thường xuyên xảy ra. Để hạn chế tác động tiêu cực của thiên nhiên, việc xây dựng hệ thống thủy lợi để chủ động tưới tiêu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điện khí hóa: là một điều kiện không thể thiếu để phát triển nông thôn, vừa nâng cao năng suất lao động vừa tạo điều kiện cho cư dân nông thôn tiếp cận với văn minh nhân loại. Phát triển công nghệ sinh học: đem lại lợi to lớn, không chỉ tạo ra những sản phẩm mới, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm mà còn tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường. Phát triển công nghệ sinh học là một yêu cầu tất yếu của nền nông nghiệp hiện đại. 2.2.3. Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp gắn liền với việc phát huy tiềm năng của tất cả các thành phần kinh tế. Kinh tế hộ nông dân (kinh tế hộ gia đình): là hình thức kinh tế phổ biến ở nông thôn. Trong giai đoạn đầu quá độ lên CNXH, do lực lượng sản xuất còn thấp kém, kinh tế hộ nông dân có vai trò to lớn trong việc khai thác tiềm năng đất đai, vốn, sức lao động, kinh nghiệm sản xuất… nên sẽ vẫn tồn tại lâu dài trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để kinh tế hộ, kinh tế trang trại phát triển. Mặc dù kinh tế hộ có những ưu điểm nổi bật và chiếm nhiều ưu thế so với các hình thức khác song vẫn có những nhược điểm cố hữu khó có thể khắc phục do quy mô nhỏ, gặp khó khăn trong đầu ra cũng như giải quyết các yếu tố đầu vào. Trong khi đó, kinh tế Nhà nước lại có ưu thế trong lĩnh vực này. Hơn nữa, nếu kinh tế nhà nước nắm giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế nông nghiệp sẽ giữ vai trò chủ đạo, định hướng phát triển. Do đó, kinh tế Nhà nước là hết sức cần thiết đối với nông nghiệp, nông thôn là hết sức cần thiết, nhưng cần cân nhắc trong từng khâu, từng lĩnh vực cụ thể. Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã vẫn tỏ ra có ưu thế trong phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn với những ưu thế nổi bật của nó. Vấn đề là phải phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực nhưng vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực; phải dựa trên bảo đảm quyền tự chủ và hỗ trợ tích cực cho kinh tế hộ, kinh tế trang trại. Kinh tế tư nhân là lực lượng quan trọng và năng động trong kinh tế thị trường, có khẳ năng về vốn, kĩ thuật, kinh nghiệm sản suất, tổ chức sản xuất, khả năng ứng dụng kĩ thuật công nghệ, năng lực chế biến, làm dịch vụ sản xuất… Nhà nước có chính sách hỗ trợ, hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển. 2.2.4 Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn “ Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân và cho lao dộng nông thôn, nhất là các vùng Nhà nước thu hồi để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở phi nông nghiệp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm cả trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn kể cả nước ngoài. Nhà nước đầu tư nhiều hơn và phát huy khả năng trợ giúp của xã hội đề thực hiện tốt xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn, dặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Giải quyết ổn định vấn đề lương thực cho các hộ thuộc diện nghèo, nhất là đồng bào thiểu số, gắn với việc giao khoán rừng.” Phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, Văn kiện Đại hội 10 của Đảng, Thời báo kinh tế Việt Nam, số 78, ngày 19/4/2006, tr. 4. 2.2.5 Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn Xây dựng hoàn chỉnh các quy hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn. Tổ chức chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống văn minh, sạch đẹp, gắn với việc hình thành các khu dân cư đô thị hóa. Phát huy dân chủ đi đôi với việc xây dựng nếp sống văn hóa, bài trừ các tệ nạn xã hội ở nông thôn; gìn giữ và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. 2.3. Chính sách của Nhà nước tác động đến nông nghiệp, nông thôn 2.3.1Chính sách ruộng đất Ở nước ta, về nguyên tắc, người lao động là chủ của đất đai. Nhưng trong hợp tác xã kiểu cũ, người lao động chỉ là chủ trên danh nghĩa, còn thực tế người lao động thờ ơ, xa lạ với đất đai. Từ khi có “khoán hộ”, người nông dân được giao đất, giao ruộng vì thế họ gắn bó với đát đai. Đó là nguyên nhân quan trọng làm cho sản xuất nông nghiệp đạt được những thành tựu to lớn trong những năm qua. Điều đó chứng tỏ, chính sách ruộng đất đã đáp ứng được lợi ích của người dân. Hiện nay, Đảng và Nhà nước chủ trương tiếp tục đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho nông dân với thời hạn dài, thậm chí quyền sử dụng đất có thể được thừa kế, thế chấp. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nông dân thực hiện đầy đủ các quyền về sử dụng đất đai; khuyến khích nông dân thực hiện “đồn điền, dồn thửa”trên cơ sử tự nguyện; nông dân được sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn cổ phần tham gia phát triển sản xuất kinh doanh, liên doanh, liên kết… Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quy hoạch và chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. 2.3.2 Chính sách đầu tư. Nhà nước cần phải có chính sách đầu tư hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn xây dựng các công trình công cộng: hệ thống thủy lơi, giao thông, hệ thống cung ứng điện, giống. Đồng thời, Nhà nước phải có các chính sách huy độngc ác nguồn lực tại chỗ nhằm xây dựng cơ sở vật chất , kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn. Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn rất cần có chiến lược tổng thể. Chiến lược đó phải xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từ đặc điểm riêng về tự nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi vùng, địa phương, từ nhu cầu của thị rường trong nước và thế giới. 2.3.3 Chính sách thuế Chính sách thuế đối với nông nghiệp, nông thôn cần phải lưu ý những vấn đề sau: Thứ nhất, mức thuế suất, các sắc thuếa áp dụng cho nông nghiệp, nông thôn phải khác các ngành, các khu vực khác. Thứ hai, kinh tế nông thôn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Do vậy, khi thời tiết không thuận lợi phải điều chỉnh chính sách thuế cho phù hợp. Thứ ba, cư dân nông thôn chiếm tỷ lệ rất lớn trong dân số cả nước nhưng mức thu nhập, mức sống rất thấp nên chính sách thuế phải đặt trong mối quan hệ và phải phù hợp với các chính sách xã hội. 2.3.4 Chính sách khoa học – công nghệ Chính sách khoa học – công nghệ phải tính tới những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, khả năng kinh tế và nhận thức, phong tục tập quán, lề thói canh tác của dân cư… Đồng thời, chính sách khoa học- công nghệ phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới, chiến lược sản phẩm xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới… các doang nghiệp nhà nước trong nông nghiệp như: công ty giống, vật nuôi, cây trồng; công ty xuất khẩu nông sản… có vai trò hết sức to lớn trong việc tuyên truyền, phổ biếnkhoa học công nghệ cho nông dân. Chính sách khoa học – công nghệ phải được triển khai dựa trên các hình thức kinh tế này. 2.3.5 Chính sách giá cả và sản lượng Trong những năm được mùa, giá nôngphẩm thường giảm sút nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến dời sống của nông dân và quy mô sản xuất những năm tiếp theo. Nhà nước cần quy định giá sàn đối với nông phẩm. Để giá sàn được thực hiện trên thực tế, Nhà nước cần hỗ trự về tài chính cho các công ty thu mua nông sản. Nhà nước cũng cần có dự trữ nhất định về nông sản phẩm để ổn định giá cả những lúc giáp vụ, những năm thời tiết không thuận lợi. Để ổn định sản xuất nông nghiệp, Nhà nước cần có dự báo về nhu cầu và hướng dẫn nông dân sản xuất với quy mô phù hợp. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích xuất khẩu nông sản, tìm kiếm và mở rộng thị trường nông sản. 2.3.6 Chính sách tín dụng Chính sách tín dụng phải đáp ứng được các yêu cầu chủ yếu sau đây: Thứ nhất, tạo điều kiện cho nông dân có thể vay được tiền để sản xuất kinh doanh với lãi suất thị trường. Thứ hai, giúp đỡ nông dân sử dụng hiệu quả đồng vốn, vừa hạn chế rủi ro khi cho vay, vừa giúp nông dân nâng cao mức sống, thu nhập. 2.3.7 Chính sách xã hội. Sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn sẽ rtạo ra những tiền đề thuận lợi cho phát triển văn hóa – xã hội ở nông thôn. Tuy nhiên, trong điều kiện cơ chế thị trường, sự phát triển đó không tránh khỏi làm nảy sinh các vấn đề xã hội: dư thừa lao động, phân hóa giàu nghèo, các tệ nạn xã hội… Do đó, Nhà nước phải có chính sách nhằm giải quyết và hạn chế các vấn đề xã hội như: chính sách xóa đói, giảm nghèo; chính sách phát triển văn hóa, y tế, giao dục; thực thi luật pháp và thực hiện công bằng dân chủ ở nông thôn. 2.4 Những thành tựu đạt được Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt, “nền kinh tế đã vượt qua giai đoạn suy giảm tốc độ tăng trưởng, đạt mức tăng trưởng khá cao; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến” Đản Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.20 Ba năm liền tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau luôn cao hơn năm trước (năm 2001 tăng 6,9%, năm 2002 tăng 7,04%, năm 2003 tăng 7,24%); bình quân ba năm tăng 7,1%. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của toàn nền kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng đã có những bước tiến bộ vượt bậc. Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, nghề rừng và thủy sản. Thành tựu nổi bật nhất là đã giải quyết vững chắc, an toàn lương thực quốc gia. Sản lượng lương thực đã tăng nhanh: từ 21,5 triệu tấn (năm 1990) lên 27,5 triệu tấn (năm 1995) và 34,5 triệu tấn (năm 2000), gần 36 triệu tấn (năm 2002) bình quân mỗi năm tăng 1,4 triệu tấn. Tốc độ tăng lương thực bình quân 5% năm, cao hơn tốc độ tăng dân số (1,8%) nên sản lượng lương thực bình quân đầu người đã tăng từ 304 kg (năm 1985) lên 364 kg (năm1995), 444,8 kg (năm 2000) và 450 kg (năm 2002). Việt Nam đã từ một nước thiếu lương thực trước năm 1989, trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới (sau Thái Lan). Tính chung 1

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc111873.doc
Tài liệu liên quan