Đề cương bài giảng môn học triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành triết học)

Triết học là một hình thái ý thức xã hội ra đời từ rất sớm, từ khoảng thế kỷ VII – VI tr.CN, cả ở phương Đông và phương Tây.

Thuật ngữ “triết”, theo tiếng Hán nghĩa là trí, sự hiểu biết về mặt đạo lý, sự nhận thức sâu rộng.Trong tiếng Hy Lạp cổ, thuật ngữ “phylosophy” cũng có nghĩa là yêu mến sự thông thái.Nói chung triết học lúc đầu được hiểu theo nghĩa khá rộng. Về sau, do khoa học ngày càng phát triển nên cách hiểu cũng như đối tượng nghiên cứu của triết học cũng ngày càng được thu hẹp dần, chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản của tồn tại và nhận thức đối với tồn tại ấy.

Theo quan điểm của triết học mác-xít, triết học là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống lý luận chung nhất về thế giới, về mối quan hệ giữa con người với thế giới cũng như vai trò và vị trí của con người trong thế giới đó.

Trong quá trình phát triển, đối tượng của triết học thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử.

Ngay từ khi mới ra đời, triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức, bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm cho rằng, triết học là khoa học của mọi khoa học, đặc biệt là ở triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại. Thời kỳ này, triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó còn in đậm đối với sự phát triển của tư tưởng triết học ở Tây Âu.

Thời kỳ trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội thì triết học trở thành nô lệ của thần học. Nền triết học tự nhiên bị thay bằng nền triết học kinh viện. Triết học lúc này phát triển một cách chậm chạp trong môi trường chật hẹp của đêm trường trung cổ.

 

doc103 trang | Chia sẻ: NamTDH | Lượt xem: 1554 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề cương bài giảng môn học triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không chuyên ngành triết học), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác giáo dục lý luận. + Tiếp tục đổi mới tư duy, trong đó có tư duy lý luận, khắc phục sự lạc hậu về lý luận. Thu hẹp khoảng cách tối đa giữa lý luận và thực tiễn. Đổi mới phương pháp nghiên cứu lý luận, thường xuyên đối chiếu, điều chỉnh lý luận bằng cách dựa vào thực tiễn. + Coi trọng công tác tổng kết thực tiễn và coi đó là phương pháp căn bản và hữu hiệu trong hoạt động lý luận. b) Vai trò của lý luận trong thời đại ngày nay Theo Ph.Ăngghen: một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận. Lịch sử phát triển của khoa học đã chỉ ra rằng, vai trò của tư duy lý luận đang ngày càng tăng lên. Đối với sự phát triển của xã hội. xi hướng đó thể hiện trong quá trình phát triển từ tri thức tiền khoa học đến tri thức khoa học; từ kinh nghiệm đến tri thức lý luận; từ khoa học thực nghiệm đến khoa học lý thuyết; từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội. Trong thời đại ngày nay vai trò của lý luận ngày càng trở nên quan trọng. Bởi chỉ có tư duy lý luận mới có thể giải thích được hết được tính chất phức tạp và đầy biến động đang diễn ra trên thế giới. Đối với nước ta, trong thời kỳ đổi mới hiện nay vai trò của lý luận lại càng trở nên quan trọng bởi vì: + Muốn đổi mới thành công thì Đảng ta cần phải đổi mới và tự chỉnh đốn, trước hết là phải nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận của Đảng. + Lý luận phải trở thành cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng; phải cung cấp nội dung khoa học cho công cuộc đổi mới, phải góp phần vào công tác tư tưởng của Đảng như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Chỉ có đảng nào được lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong” (Hồ Chí Minh, toàn tập, t.6). Chương 4: LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VỚI SỰ NHẬN THỨC CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY I. HỌC THUYẾT MÁC-LÊNIN VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI Chủ nghĩa duy vật lịch sử với nội dung chủ yếu là nhận thức xã hội trong một chỉnh thể và phát hiện những quy luật vận động và phát triển phổ biến của lịch sử. Đó là những cống hiến vĩ đại của triết học Mác và cũng là một bước phát triển mới, là một bước ngoặt cách mạng của lịch sử triết học. 1. Những cơ sở xuất phát để phân tích đời sống xã hội Trước C.Mác, quá trình hình thành và phát triển lịch sử xã hội thường bị các nhà tư tưởng hiểu và diễn đạt một cách sai lệch. Sau này, triết học Mác đã hiểu và giải thích lịch sử xã hội một cách khoa học từ đó hình thành nên chủ nghĩa duy vật lịch sử. Xây dựng quan niệm duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xuất phát từ những tiền đề sau đây: - “Tiền đề đầu tiên của lịch sử nhân loại dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống”. Lần đầu tiên, C.Mác đã vạch ra phương thức tồn tại của con người chính là hoạt động sống của họ. Cái quy định hành vi lịch sử đầu tiên cũng chính là hành động thúc đẩy con người hoạt động trong suốt tiến trình lịch sử của mình đó chính là các nhu cầu về lợi ích. Đó chính là động lực thúc đẩy hoạt động của con người, suy rộng ra là toàn bộ xã hội loài người. - “Đời sống xã hội về thực chất là có tính thực tiễn”. Để tồn tại và phát triển, con người phải thực hiện qúa trình sản xuất vật chất để sản xuất ra: + Bản thân con người. + Của cải vật chất. + Các quan hệ sản xuất. + năng lực tinh thần, trí tuệ. - Nền tảng xã hội là một thể thống nhất bao gồm nhiều mặt, nhiều mối liên hệ, trong đó nổi lên hai mối quan hệ cơ bản: + Quan hệ kinh tế - kỹ thuật (quan hệ để hình thành nên LLSX). + Quan hệ kinh tế - xã hội (QHSX). Tron đó, sự tác động qua lại giữ LLSX và QHSX tạo ra sự phát triển của một phương thức sản xuất xã hội nhất định. - Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Tuy vậy, ý thức xã hội cũng có vai trò tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. - Xã hội loài người là một bộ phận đặc thù của thế giới vật chất vận động phát triển theo quy luật khách quan. Quy luật xã hội về cơ bản là có tính đặc thù hơn so với quy luật tự nhiên. Tóm lại, chủ nghĩa duy vật lịch sử không phủ nhận sự tác động của các hoạt động có mục đích của con người đối với tiến trình lịch sử mà còn đòi hỏi phải giải thích nó một cách khoa học. Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng: điểm xuất phát của việc định ra mục đích là những điều kiện khách quan. Quá trình vận động của lịch sử là sự thống nhất giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, trong đó nhân tố khách quan có vai trò ngày càng lớn. Đó là xu hướng có tính quy luật. 2. Cấu trúc xã hội - phạm trù hình thái kinh tế - xã hội Quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử xem xét xã hội với tư cách là một hệ thống bao gồm trong đó bốn lĩnh vực cơ bản: a) Lĩnh vực kinh tế của đời sống xã hội (tức là các QHSX, quan hệ kinh tế giữ vai trò là quan hệ ban đầu, cơ bản và quyết định đói với các quan hệ khác). b) Lĩnh vực xã hội (quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp ... trong xã hội) [a,b là nhóm các quan hệ vật chất của đời sống xã hội]. c) Lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội (tức là các tổ chức, các thiết chế quyền lực, hệ thống luật pháp, tư tưởng chính trị ...). d) Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội [c,d là nhóm các quan hệ tinh thần của đời sống xã hội]. C.Mác đã trình bày cô đọng về cấu trúc xã hội như sau: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có nhiều quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc vào ý muốn của họ, tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ này lại phù hợp với một trình độ nhất định với lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ hiện thực, trên đó xây dựng nên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị tương ứng với cơ sở thực tại đó thì có những hình thái ý thức xã hội nhất định. Phương thức sản xuất ra đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung”. (1) C.Mác - Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb ST, H, 1981, t.II, tr.637. Quan niệm tổng quát trên đây đã được C.Mác phân tích, triển khai bằng hệ thống các phạm trù, quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử như: LLSX, QHSX, CSHT, KKTT, giai cấp, đấu tranh giai cấp, tồn tại xã hội, ý thức xã hội v.v .. Tóm lại, hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ một kiểu hệ thống xã hội ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử có tính xác định về chất, là sự thống nhất giữa các yếu tố, một cơ cấu hoàn chỉnh luôn luôn vận động thông qua sự tác động biện chứng giữa LLSX và QHSX, giữa CSHT và KTTT. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội đặt cơ sở nguyên tắc phương pháp luận khoa học để nghiên cứu tất cả các mặt của xã hội. Chẳng những nó chỉ rõ bản chất của một xã hội cụ thể, có thể phân biệt được sự khác biệt giữa chế độ này với chế độ khác, mà còn thấy được tính lặp lại, tính liên tục của mối quan hệ giữa người với người trong quá trình phát triển sản xuất và sinh hoạt xã hội khác nhau, xem xét cả sự vận hành của xã hội ở một giai đoạn nhất định, đồng thời cả quá trình vận động chung tiến lên của xã hội trong quá trình phát triển chung của lịch sử. 3. Vai trò phương pháp luận của phạm trù hình thái kinh tế - xã hội. Lý luận và thực tế. Lôgíc và lịch sử Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội đem lại những nguyên tắc phương pháp luận xuất phát để nghiên cứu xã hội, loại bỏ cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên mà không đi sâu vào các chi tiết vượt ra khỏi kinh nghiệm, hoặc xã hội học mô tả, đi sâu vạch ra cái bản chất ổn định từ cái phong phú của hiện tượng, vạch ra cái lôgíc bên trong của tính nhiều vẻ của lịch sử. ( Vì phạm trù hình thái kinh tế - xã hội là mô hình (sơ đồ) lý luận về xã hội và như mọi mô hình, nó không bao quát tất cả tính đa dạng của các hiện tượng trong đời sống xã hội. Vì vậy hiện thực xã hội và sơ đồ lý thuyết về xã hội là không đồng nhất với nhau). Do vậy, khi nghiên cứu phạm trù hình thái kinh tế - xã hội cần phải có quan điểm biện chứng. Cần phải coi lý thuyết này trong mối quan hệ với sự vận động và phát triển của các chế độ xã hội trong những giai đoạn lịch sử cũng như cũng giống như mối quan hệ giữa cái chung với cái riêng, cái bản chất với cái hiện tượng, cái lôgíc với cái lịch sử. II. QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - CON ĐƯỜNG TẤT YẾU CỦA NGƯỜI VIỆT NAM 1. Nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội và về thời kỳ quá độ. Trước đây, trong các tác phẩm của mình, C.Mác, Ph.Ăngghen luôn chỉ ra rằng: “CNCS không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi CNCS là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những điều kiện đang tồn tại”(1) C.Mác - Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb ST, H, 1980, t.I, tr. 297. . Còn V.I Lênin cũng chỉ ra rằng: “Chúng ta không hề coi lý luận của C.Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng, lý luận đó chỉ đặt nền mống cho một môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”(1) V.I Lênin: Toàn tập, Nxb, Tiến bộ, Mátxcơva, t.4, tr.232. Đáng tiếc là trong nhiều năm qua, đối với chúng ta lý luận về chủ nghĩa xã hội không được bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn mà lại được hiểu và vận dụng một cách máy móc, giáo điều làm cho chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nhiều nước bị biến dạng, dẫn tới khủng hoảng và tan rã. Về nguyên nhân có nhiều song chủ yếu vẫn là do chúng ta mắc nhiều sai lầm chủ quan, duy ý chí, không tôn trọng vai trò của các quy luật khách quan. Thực tiễn cuộc sống đó đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại chủ nghĩa xã hội, phải tiến hành một cách toàn diện, sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng: không phải nước nào cũng tuần tự trải qua các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử. Việc bỏ qua một hình thái nào đó ngoài việc do các yếu tố bên trong quyết định, còn phải tuỳ thuộc vào điều kiện khách quan bên ngoài nữa. Trong thời đại ngày nay thì điều kiện khách quan đó chính là sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ qua đó đã tạo ra nhiều thời cơ và thách thức mới. Riêng ở nước ta, điều kiện khách quan đó còn cho phép chúng ta tận dụng nhiều thời cơ mà tiến lên chủ nghĩa xã hội không thông qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Song bước đi như thế nào? Đảng ta chỉ rõ: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, LLSX còn rất thấp”(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb ST, H., 1991, tr.8. . Đặc điểm này thể hiện hai đặc trưng cơ bản: một là, LLSX rất thấp quy định tính tất yếu kinh tế - xã hội của nước ta chưa đầy đủ, chưa chín muồi trong sự phát triển tự nhiên nội tại của nó. Hai là, còn tồn đọng nhiều tàn dư quan hệ xã hội; ý thức, tư tưởng, tâm lý do chế độ thực dân phong kiến cũ để lại. Đây là những trở ngại chính trong bước chuyển tiếp lịch sử từ một xã hội kém phát triển sang một xã hội hiện đại, phát triển. Điều cần lưu ý ở đây là: có thể bỏ qua chế độ tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng không thể bỏ qua việc chuẩn bị tiền đề cần thiết, nhất là tiền đề về kinh tế cho sự quá độ ấy. Do đó, trong giai đoạn này, việc phát triển nhất định các nhân tố tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan. 2. Những quan điểm phương pháp luận xuất phát để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta - Coi trọng vai trò, bản chất của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thể hiện đầy đủ quyền lực và nguyện vọng của nhân dân. Thiết lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền lực của nhân dân được khẳng định và được thể hiện bằng luật pháp mang tính công khai, bình đẳng, dân chủ, tiến bộ. - Thực hiện những biến đổi mang tính cách mạng trên cả ba lĩnh vực: LLSX, QHSX và KTTT, trong đó việc phát triển LLSX phải được coi là yếu tố then chốt, quyết định đối với các lĩnh vực còn lại... - Phù hợp với LLSX phải từng bước thiết lập QHSX xã hội chủ nghĩa từ thấp lên cao. Cần chú ý tới việc đa dạng các hình thức sở hữu. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. - Tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, trong đó cần lưu ý yếu tố con người. Phải coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực để xây dựng xã hội mới. Như vậy, những nguyên tắc và phương pháp luận nói trên là tổng hợp những quan điểm cơ bản nhằm xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong đó cần chú ý đối với cả ba mặt: LLSX, QHSX và KTTT những bộ phận cấu thành của một hình thái kinh tế - xã hội mới. Chương 5: QUAN HỆ GIỮA GIAI CẤP - DÂN TỘC - NHÂN LOẠI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY I. QUAN HỆ GIỮA GIAI CẤP-DÂN TỘC-NHÂN LOẠI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY 1. Học thuyết Mác-Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp a) Quan điểm mácxít về giai cấp và đẩu tranh giai cấp Những quan điểm về giai cấp trong lịch sử Quan niệm về giai cấp đã hình thành khá sớm trong lịch sử. - ở Trung Quốc, ngay từ thế kỷ IV - III trước công nguyên, trong cuốn: “Quản Tử luận”, tác giả (Quản Trọng) đã thừa nhận xã hội phân chia thành giai cấp và chỉ rõ: sĩ, nông, công, thương là cơ sở của nhà nước. ở Hy Lạp cổ đại, nhà triết học Platôn cũng cho rằng: sự độc quyền quá lớn về của cải trong tay giai cấp quý tộc là nguy hiểm về mặt chính trị vì nó để ra những mâu thuẫn hết sức sâu sắc. - Những quan điểm về xã hội phân chia đẳng cấp, phân hoá giàu nghèo, về sự giàu có bất chính, kêu gọi sự quan tâm tới người nghèo ... đều thấy phản ánh trong sách báo của các thời đại, trong đó có cả sách báo của các tôn giáo. - Khi chủ nghĩa tư bản hình thành thì chính cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ quý tộc đã làm cho quan niệm về giai cấp và đấu tranh giai cấp càng trở nên rõ rệt. - Các quan điểm của T. Móre (1478 - 1535), T. Campánela (1568 - 1639), J.Rutseux (1712 - 1778) đều cho rằng:chế độ tư hữu là nguyên nhân nảy sinh sự phân chia giai cấp và áp bức giai cấp. - Xanhximông (1760 -1825) còn đi xa hơn khi cho rằng: đấu tranh giai cấp là đặc trưng cho bất cứ một xã hội nào có áp bức bất công. Tuy nhiên, công lao phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp gắn liền với một loạt tên tuổi của các nhà sử học Pháp trong những năm của thế kỷ XIX như:G. Phrăngxoa Ghiđô (1778- 1874), Ô. Chiery (1795 -1956) và Phrăngxoa Minhê (1796 -1884). Các ông đã đưa ra các suy đoán sâu sắc về việc phân chia xã hội thành giai cấp và coi đấu tranh giai cấp là một trong những nội dung chủ yếu của lịch sử, mặc dù bản thân họ chưa hiểu một cách khoa học về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Các quan điểm trên đây đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá rất cao, đặc biệt là quan diểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp của các nhà sử học Pháp. Tuy nhiên, cả C.Mác và Ph.Ăngghen đều không đồng tình với cách giải quyết mâu thuẫn giai cấp một cách duy tâm của họ. Mặt khác, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng khẳng định rằng: việc phát hiện ra giai cấp và đấu tranh giai cấp không phải là công lao của các ông mà trước hết là thuộc về các nhà xã hội học trong xã hội tư bản có từ trước đó. V.I Lênin sau này cũng luôn nhấn mạnh: “Thuyết đấu tranh giai cấp không phải do C.Mác, mà do các nhà xã hội họ tư sản trước C.Mác sáng tạo ra”.(1) V.I Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tập 33, tr.42. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp Cống hiến to lớn của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin vào lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp là ở chỗ: - Trước hết, C.Mác đã đưa lại một quan niệm khoa học về giai cấp, xem xét vấn đề giai cấp trên cơ sở quan điểm duy vật lịch sử (khác hẳn với các quan điểm trước đây). Trong bức thư gửi Annencốp, C.Mác viết: “1. Sự tồn tại giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. 2. Cuộc đấu tranh giai cấp nhất định sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản. 3. Bản thân nền chuyên chính ấy chỉ là bước quá độ thủ tiêu tất cả mọi giai cấp và tiến tới một xã hội không có giai cấp”.(2) C.Mác - Ph.Ăngghen:Tuyển tập, Nxb. ST,H,1981, tập II, tr.662. Trong tất cả các tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, giai cấp chỉ xuất hiện trên cơ sở phát triển LLSX đến một trình độ nhất định (Ph.Ăngghen đã trình bày vấn đề này một cách tỷ mỷ trong tác phẩm: Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước). Theo đó, sự phát triển của LLSX “phân công lao động” năng suất lao động tăng => của cải dôi dư => ra đời chế độ tư hữu, làm cơ sở cho việc phân xã hội thành những giai cấp đối lập. V.I Lênin cũng chỉ ra năm đặc trưng của giai cấp: đó là những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị, về quan hệ trong phân phối và cách thức hưởng thụ sản phẩm v.v.. trong định nghĩa về giai cấp nổi tiếng của ông. Xuất phát từ quan điểm duy vật về giai cấp như trên, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin đã phân tích toàn bộ sự phát sinh, phát triển của giai cấp trong các giai đoạn hết sức khác nhau và cho rằng: thực chất mối quan hệ giữa chúng: chủ nô và nô lệ, địa chủ quý tộc và nông nô, tư sản và vô sản là quan hệ bóc lột và bị bóc lột. Trong bộ Tư bản, C.Mác đã tập trung phân tích mối quan hệ giữa tư sản và vô sản, vạch ra sự mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà giữa hai giai cấp này và chỉ ra xu thế tất yếu phải thay thế xã hội tư bản bằng chế độ mới tốt đẹp hơn: chế độ xã hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa. Việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư trong xã hội tư bản là là một phát hiện lớn, vạch rõ bản chất quan hệ tư bản chủ nghĩa. Dựa trên quan điểm duy vật, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin còn phân tích kết cấu giai cấp của nhiều nước tư bản khác nhau, vạch ra những giai cấp cơ bản và không cơ bản, giai cấp đối kháng và không đối kháng; đồng thời cũng chỉ ra và xác định rõ vai trò, vị trí của các giai cấp, tầng lớp trung gian trong xã hội có giai cấp. Từ những quan điểm đúng đắn về giai cấp, C.Mác, Ph.Ăngghen đã phân tích những cuộc đấu tranh giai cấp trong quá trình lịch sử. Các ông cho rằng, lịch sử xã hội loài người từ khi xuất hiện các giai cấp đối kháng là lịch sử đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giữa các giai cấp đối kháng nhau trong lịch sử làm cho lịch sử vận động phát triển từ thấp lên cao. Những cuộc đấu tranh giai cấp không phải là những cuộc tạo phản, lật đổ mà là những cuộc đấu tranh có ý nghĩa cách mạng nhằm xoá bỏ những chế độ xã hội lỗi thời, thay đổi QHSX, tạo điều kiện cho LLSX phát triển. Với ý nghĩa đó quan điểm mácxít cho rằng, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của lịch sử. Tư tưởng đó đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của lịch sử từ trước đến nay. Tuy nhiên, quan điểm mácxít cũng cho rằng, giai cấp không tồn tại mãi mãi. Nếu nguyên nhân kinh tế làm nảy sinh giai cấp thì đến một lúc nào đó, với sự phát triển rất cao của sản xuất cũng sẽ tạo những tiền đề để thủ tiêu giai cấp. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là cuộc đấu tranh cuối cùng trong lịch sử. Tại sao vậy? Vì chính CNTB với một LLSX khổng lồ đã và đang tạo ra cơ sở vật chất để đi đến một xã hội với trình độ phát triển cao hơn về mọi mặt - xã hội không còn giai cấp. Quá trình ấy diễn ra như thế nào? Đấu tranh của giai cấp vô sản tất yếu dẫn đến nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản (còn gọi là chuyên chính vô sản). Chuyên chính vô sản không phải là mục tiêu cuối cùng của giai cấp vô sản, mà là một hình thức của nhà nước quá độ để tiếp tục hoàn thiện cơ sở vật chất để tiến tới một xã hội không có giai cấp: xã hội cộng sản. Nhưng xoá bỏ giai cấp là một quá trình lâu dài. Muốn xoá giai cấp trước hết phải thủ tiêu chế độ tư hữu. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, C.Mác, Ph.Ăngghen tuyên bố rằng: “Những người Cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức duy nhất là: xoá bỏ chế độ tư hữu”(1) C.Mác - Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb ST, H, 1980, t.I, tr.559. . Nhưng liệu có thể xóa bỏ chế độ tư hữu ngay lập tức được không? Ph.Ăngghen trả lời: “Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho LLSX hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả các triệu chứng sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”(2) C.Mác - Ph.Ăngghen: Sđd, tr.455. . Như vậy, điều kiện cơ bản cho việc xóa bỏ chế độ tư hữu là sự phát triển cao của LLSX. Để có được điều kiện ấy tất yếu phải trải qua một thời kỳ lịch sử khá dài, không chỉ phát triển LLSX mà còn phải chờ cho nhân tố con người phát triển đến một độ nhất định, xoá bỏ sự phân chia giữa lao động trí óc và lao động chân tay, xoá bỏ những khác biệt về đời sống vật chất cũng như tinh thần giữa nông thôn và thành thị. Ở đây cũng cần phải nhấn mạnh rằng, chủ nghĩa Mác luôn khẳng định việc xuất hiện, đấu trang và xoá bỏ giai cấp đều là những tất yếu khách quan, nó không phụ thuộc vào chủ quan của bất cứ giai cấp hay cá nhân nào, và chừng nào các điều kiện khách quan chưa cho phép thì không có một giai cấp nào có thể thực hiện được những mục tiêu của mình. 2. Biện chứng giữa lợi ích toàn nhân loại với lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc a) Lợi ích toàn nhân loại và lợi ích giai cấp Như đã trình bày, thế giới ngày nay đang có xu hướng liên kết con người lại với nhau trước hết được thể hiện thành những vấn đề toàn cầu (dân số, môi trường, chiến tranh hạt nhân, các loại bệnh dịch nguy hiểm ...). Đó là những vấn đề có liên quan đến lợi ích toàn nhân loại. Lợi ích toàn nhân loại là những điều kiện tất yếu khách quan đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển một cách bình thường của toàn thể loài người, không phân biệt các quốc gia dân tộc, giai cấp, tôn giáo v.v.. Mối quan hệ giữa lợi ích toàn nhân loại với lợi ích giai cấp là mối quan hệ giữa cái chung với cái riệng. Mối quan hệ đó vừa có sự thống nhất vừa có tính mâu thuẫn (thống nhất khi giai cấp cầm quyền là giai cấp tiến bộ và mâu thuẫn khi giai cấp này trở nên lạc hậu, thậm chí phản động). Vì vậy, để giải quyết các vấn đề nhân loại một cách triệt để thì không thể không thể giải quyết vấn đề giai cấp. Đó chính là lý do để C.Mác đẫ đi từ vấn đề nhân loại (C.Mác: các tác phẩm đầu tay) đến vấn đề giai cấp (C.Mác: các tác phẩm giai đoạn trưởng thành). Đương nhiên, điều đó không có nghĩa là phải giải quyết vấn đề giai cấp triệt để xong rồi mới giải quyết tới những vấn đề của nhân loại. Trái lại, chúng có thể từng bước được giải quyết trong mối quan hệ tác động lẫn nhau. b) Lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc Để giải quyết vấn đề lợi ích giai cấp không thể không tính tới giải quyết vấn đề lợi ích dân tộc. Lợi ích dân tộc là lợi ích của mọi giai cấp, và mọi tầng lớp xã hội trong một cộng đồng dân tộc. Nếu xem lợi ích toàn nhân loại là cái chung thì lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc là cái riêng và cái đặc thù. Trong mỗi dân tộc lại bao gồm nhiều giai cấp khác nhau, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất thống trị và do đó thống trị các giai cấp khác trong cộng đồng dân tộc thì giai cấp đó là đại biểu của dân tộc. Giai cấp ấy cũng tạo nên đặc trưng cơ bản của dân tộc, đại diện cho xu hướng phát triển của dân tộc và, quan hệ với các dân tộc khác và giữa các dân tộc với nhau. Cũng cần lưu ý: lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp thống trị không bao giờ đồng nhất tuyệt đối. Mỗi dân tộc do các điều kiện đặc thù của lịch sử tạo nên thường mang bản sắc riêng, cho nên giai cấp thống trị muốn trở thành đại diện cho dân tộc thì trước hết phải trở thành dân tộc. ở đây, việc giải quyết các lợi ích giai cấp là cơ sở cho việc giải quyết các vấn đề của dân tộc. Chính vì vậy chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: chừng nào xã hội còn giai cấp đối kháng thì việc giải quyết các vấn đề dân tộc đều được giải quyết thông qua vấn đề giai cấp. c) Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích dân tộc và toàn nhân loại Đặc điểm quan trọng trong học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin là phát hiện ra và xác định được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nếu các nhà sử học hay những người theo thuyết chủ nghĩa xã hội không tưởng chỉ nhìn thấy giai cấp vô sản là giai cấp đáng thương cần phải cứu vớt, quan tâm thì chủ nghĩa Mác đã nhìn thấy giai cấp vô sản là giai cấp có sứ mệnh lịch sử giải phóng nhân loại khỏi mọi áp bức và bóc lột. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, C.Mác viết: “Trong tất cả các giai cấp hiện nay đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là thực sự có tính cách mạng, các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với cuộc cách mạng đại công nghiệp, giai cấp vô sản thì trái lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”(1) C.Mác - Ph.Ăngghen, Tuyển tập, Nxb ST, H, 1980, t.I, tr.554. . Nói một cách khác, giai cấp vô sản có đủ tư cách đứng ra để lãnh đạo cách mạng nhằm lật đổ giai cấp tư sản để xây dựng một xã hội mới, xã hội ấy không chỉ mang lsij lợi ích cho bản thân giai cấp vô sản mà cho toàn thể các giai cấp khác, cho toàn thể dân tộc, và suy rộng ra là cho lợi ích chân chính của oàn thể nhân loại. e) Sự phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối qun hệ biện chứng giữa giai cấp, dân tộc và nhân loạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_cuong_bg_triet_hoc_pgs_ts_pham_cong_nhat_5318.doc
Tài liệu liên quan