Đề cương môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam. Bắc tham gia”

Quyền bính của nhân dân cũng được thể hiện rõ trong việc nhân dân có quyền kiểm tra, kiểm soát và bãi miễn đại biểu. Người nhắc nhở: “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành, tận tuỵ của nhân dân”.

Để nhân dân có thể kiểm tra, kiểm soát , Người yêu cầu cơ quan nhà nước phải có cách tổ chức thuận tiện cho nhân dân thực hiện quyền của mình, tránh “cửa quyền”, hách dịch, chống “lạm quyền”, “đứng trên dân”, “đè đầu cưỡi cổ,ức hiếp dân”, thực hiện quyền khiếu tố của nhân dân, đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân. Người thường nhắc nhở: Nạn lãng phí, tham ô, là do bệnh quan liêu, mệnh lệnh trong công tác của các cấp lãnh đạo ở các cơ quan nhà nước gây ra.Vì vậy, cần có cơ quan thanh tra nhà nước, chẳng những chống lãng phí tham ô mà còn chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh để giúp đỡ các cơ quan nhà nước cải tiến công tác, giữ gìn kỷ luật, thực hành dân chủ, góp phần củng cố bộ máy nhà nước. “Đồng bào có oan ức, có thắc mắc mới khiếu nại. Ta giải quyết tốt các khiếu nại, đồng bào thấy Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến họ, do đó mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với Đảng và Chính phủ được củng cố tốt hơn.”

 

doc54 trang | Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1510 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề cương môn tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VH của mình bằng tinh hoa của mỗi dân tộc trên thế giới. Nội dung tiếp thu là phải giao lưu, như Bác Hồ đã tiếp thu CN Mác Lê Nin – lý luận tiên tiến của thời đại. Năm 1945, CM vừa thành công, Việt Nam chưa được nước nào công nhận, Bác viết thư cho Bộ trưởng ngoại giao, tổng thống Mỹ xin gửi 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ học KHKT, công nghiệp và nông nghiệp và chuyên môn khác về xây dựng đất nước và tạo điều kiện cho nhân dân 2 nước hiểu nhau. Người nhấn mạnh ta phải học khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật của Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, phong cách, tác phong làm việc của con người các nước công nghiệp. Tiếp thu phải chọn lọc, kế thừa cái gì có ích, làm phong phú cho nền VH dân tộc ta thông qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước. Tiếp thu VH thế giới nhưng phải có nhiệm vụ bổ sung vào nền VH chung của thế giới, phải giữ gìn cho được bản sắc VH dân tộc Việt Nam. Thế giới có hơn 200 nước, chỉ có 33 nền VH, trong đó VN là 1 trong 33 nền VH. Đây là quan điểm sòng phẳng có vay có trả.   4. Quan điểm HCM về tính nhân dân của nền văn hóa Nền văn hóa của ta là nền văn hóa mang tính chất nhân dân sâu sắc, thể hiện ở các nét sau đây: ·          Đối tượng phản ánh của văn hóa là cuộc sống lao động chiến đấu học tập của mọi tầng lớp nhân dân, phản ánh tâm tư nguyện vọng, khát vọng của quần chúng, đòi hỏi các văn nghệ sỹ phải đi sâu lột tả. ·          Nhân dân là chủ thể sáng tạo văn hóa. Những sản phẩm văn hóa của quần chúng là những viên ngọc quý cần trân trọng, gìn giữ và phát huy ·          Văn hóa phải phục vụ người dân, người dân được quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, để phục vụ nhân dân được tốt thì văn hóa phải thực hiện: -          Có nội dung hay (một tác phẩm hay là một tác phẩm mà người ta tìm đọc từ đầu đến cuối, đọc xong người ta trăn trở, thấy có ích, thấy dằn vặt về con người của tác phẩm đó.) -          Sản phẩm văn hóa đó phải có tính đại chúng về hình thức (không cầu kỳ, không trừu tượng, dễ hiểu, dễ vào lòng người). Năm 1960, Hội Họa sĩ VN có tổ chức triễn lãm tranh về đề tài công nhân, Bác xem và không ghi nhận xét gì, làm cho đồng chí tổ chức triển lãm đó rất bâng khuân, Bác viết: “Vẽ như ri, xem làm chi, thế cũng gọi là đại chúng, đại chúng gì” tác phẩm trừu tượng quá dân không hiểu.   5. Quan điểm của HCM về xây dựng nền văn hóa mới Nền văn hóa mới là bộ phận hợp thành của cách mạng CMXH. Từ 1942 -1943, Bác soạn thảo chương trình xây dựng nền văn hóa gồm 5 điểm, khái niệm văn hóa, xây dựng nền văn hóa có 4 mặt. ·          Xây dựng nền VH nghệ thuật. ·          Xây dựng VH giáo dục (có nhiệm vụ xây dựng những con người tốt, những cán bộ tốt để xây dựng đất nước, con người tốt là có đức, trí, thể, mỹ, kỹ thuật, thực hiện phương châm học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền CNXH, lý luận gắn liền thực tiễn, xây dựng đội ngũ giáo viên có đủ tài, đức. Bác đánh giá giáo viên là anh hùng, anh hùng vô danh). ·          Xây dựng đời sống, gồm xây dựng cả lối sống nếp sống, chú trọng nếp sống, cần kiệm chí công vô tư. ·          Xây dựng VH chính trị, trong đó đảng cầm quyền thì đảng phải có VH, trí tuệ, đạo đức, lương tâm, mới đủ tầm hướng dẫn cả dân tộc   Về phương châm xây dựng nền văn hóa mới ·          Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thì xây dựng nền văn hóa mang tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. ·          Trong CMXHCN thì phải xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và có tính chất dân tộc. ·          Đảng ta kế thừa, phát triển TTHCM về văn hóa khẳng định: Xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Chương 7 - Vận dụng và phát triển TTHCM trong công cuộc đổi mới hiện nay 1. Những quan điểm cơ bản VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN TTHCM TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY I. Những quan điểm cơ bản cần nắm vững trong việc nhận thức và vận dụng TTHCM (Bài Text do bộ phận kỹ thuật cập nhật chỉ có tính chất tham khảo. Các Sinh viên cần theo dỏi đầy đủ đoạn phim bài giảng của Giảng viên)   I. Những quan điểm cơ bản Muốn vận dụng, TTHCM trong công cuộc đổi mới hiện nay phải: -          Nắm vững TTHCM, hiểu những nội dung cốt lõi của hệ thống đó. -          Phải nắm vững CN Mác-Lênin. Vì TTHCM có nguồn gốc từ CN Mác-Lênin.   1. Quan điểm lý luận gắn liền với thực tiễn HCM luôn nhắc nhở: Chúng ta cần phải nâng cao sự tu dưỡng về CN Mác-Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp luận của CN Mác mà tổng kết kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn, những đặc điểm của nước ta, có như vậy chúng ta mới hiểu được quy luật phát triển của cách mạng VN và định ra đường lối, phương châm, bước đi của cách mạng thích hợp với điều kiện nước ta. Theo Bác: nắm vững không phải là thỏa mản mỗi yêu cầu và hiểu biết, mà phải vận dụng vào thực tiễn phục vụ lợi ích cách mạng. Bản thân Bác đến với CN Mác trước hết vì nhiều mục tiêu cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc. Người luôn luôn coi lý luận là kim chỉ Nam cho hành động, vận dụng lý luận một cách sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh của nước ta, thông qua sự phát triển của thực tiễn mà bổ xung phát triển hoàn thiện CN Mác Lênin. Muốn vận dụng và phát triển TTHCM thì phải vững vàng trên quan điểm lập trường và phương pháp CN Mác–Lênin. Theo HCM, lập trường là phải lập trường của giai cấp công nhân. Và ý thức làm chủ để giải quyết đúng đắn vấn đề theo thực tiễn đặt ra. Quan điểm là cách thức nhận thức, hiểu biết các sự vật hiện tượng theo quan điểm CN Mác–Lênin. Phương pháp luận là phương pháp: Biện chướng duy vật, phải thấy XH như một cơ thể thống nhất và vận động phát triển theo qui luật khách quan, Người nói: Lý luận không phải là cái gì đó cứng nhắc, lý luận đầy tính sáng tạo, luôn bổ xung bằng những kết luận mới rút ra từ thực tiễn sinh động, lý luận mà không gắn với thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn mà không theo lý luận là mù quáng, lý luận phải đem ra thực hành, thực hành phải theo lý luận.   2. Quan điểm toàn diện hệ thống HCM luôn đánh giá sự vật, hiện tượng con người một cách toàn diện, tránh chủ quan, phiến diện, cục bộ, một chiều. Tư tưởng HCM là một hệ thống nhất quán, từ CM giải phóng dân tộc cho đến cách mạng CNXH, từ giải phóng con người cho đến giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại. Độc lập dân tộc và CNXH là cốt lõi TTHCM, nếu tách rời các yếu tố của hệ thống đó là xa rời TTHCM, trung thành với TTHCM không có nghĩa là chúng ta trung thành từng câu từng chữ, từng lời, mà phải nắm vững cốt lõi tư tưởng của Bác, đó chính là ham muốn tột bật là làm cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơn ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Ham muốn đó chỉ có thể thực hiện được trong CNXH trên cơ sở đất nước có hòa bình, độc lập, tự do.   3. Quan điểm lịch sử cụ thể Nghiên cứu TTHCM phải theo quan điểm lịch sử cụ thể, tránh hiện đại hóa tư tưởng, tránh giản đơn hóa, suy diễn chủ quan làm sai lệch tư tưởng. Là một nhà chiến lược thiên tài, người luôn có cách ứng xử linh hoạt, sáng tạo, độc đáo phù hợp với tình hình, hoàn cảnh từng lúc từng nơi. Vì thế mỗi quan điểm Người đưa ra đều gắn với hoàn cảnh điều kiện nhất định, nhằm giải quyết một vấn đề cụ thể nhất định. (ví dụ: Sau Cách mạng tháng 8, các thế lực thù địch chỉa mũi nhọn vào Đảng ta, nhằm diệt Cộng, cầm Hồ). Để bảo vệ Đảng, HCM tuyên bố Đảng cộng sản Đông dương tự giải tán, nhưng thực ra Đảng rút vào hoạt động bí mật, vì thế ta thấy ít khi Bác đề cập tới Đảng. Bác viết: nay vì hoàn cảnh đặc biệt buộc tôi phải đứng ra ngoài các đảng phái, tôi chỉ có một tin tưởng vào dân tộc VN, nếu cần có đảng đó là đảng của dân tộc VN, nếu căn cứ vào câu trả lời đó mà quy kết HCM không phải là người Cộng sản, thì hoàn toàn không đúng. (Ví dụ: Tháng 8-1944 trả lời Trương Phát Khuê: Tôi là người cộng sản nhưng điều tôi quan tâm hiện nay là độc lập tự do của dân tộc tôi chứ không phải là CNCS), nếu căn cứ vào câu trả lời đó mà quy kết HCM không phải là người cộng sản, thì hoàn toàn không đúng. Hay Anghen và CácMác đã viết ra tuyên ngôn Đảng Cộng sản vào tháng 2-1848, năm 1872 Anghen có xem lại tuyên ngôn ĐCS lời nói đầu thì ông nói: “Đến nay tình hình đã khác trước, nếu được phép viết lại thì chúng tôi sẽ viết khác đi, nhưng nó là văn kiện lịch sử nên không cho phép chúng tôi viết khác lại.”   4. Quan điểm kế thừa và phát triển Trung thành với TTHCM là phải biết kế thừa và phát triển những tư tưởng của người trong điều kiện lịch sử mới. HCM dạy rằng; Mục đích bất di bất dịch của chúng ta là hòa bình, độc lập, thống nhất, nguyên tắc vững chắc, sách lược mềm dẻo, dĩ bất biến ứng vạn biến. Trong điều kiện lịch sử mới phải đổi mới sách lược, cách làm, hình thức, bước đi để thực hiện hoài bão của Bác. Độc lập thống nhất đất nước, tự do cơm áo cho dân, công bằng hạnh phúc, hòa bình hữu nghị giữa các dân tộc, làm cho dân tộc ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh 2. Những nội dung chủ yếu VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN TTHCM TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY (tt) II. Những nội dung chủ yếu trong việc vận dụng và phát triển TTHCM trong công cuộc đổi mới ở nước ta (Bài Text do bộ phận kỹ thuật cập nhật chỉ có tính chất tham khảo. Các Sinh viên cần theo dỏi đầy đủ đoạn phim bài giảng của Giảng viên)   1. Phương hướng vận dụng tư tưởng HCM Nắm vững thực tiễn của đất nước ta, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa CN Mác – Lênin,  TTHCM vào giải đáp đúng đắn những vấn đề thực tiễn của đất nước, xây dựng CNXH từ một nước lạc hậu, trải qua 30 năm chiến tranh tàn phá hậu quả chiến tranh rất nặng nề, bỏ qua chế độ TBCN bị các thế lực thù địch chống phá, chế độ XHCN ở Liên Xô, Đông âu không còn, khó khăn chồng chất, nhưng với bản lĩnh Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới lấy dân làm gốc, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dựa vào dân tham khảo kinh nghiệm các nước không sao chép máy móc các mô hình sẵn có nào, phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tinh thần cách mạng chiến công, thực chất chúng ta là quay lại tư tưởng của Bác, nhờ đó CM nước ta thoát khỏi hiểm nghèo, kinh tế phát triển nhanh, đất nước ta bước vào thời kỳ rất sáng, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.   2. Nội dung vận dụng 2.1. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH Đẩy mạnh giáo dục chủ nghĩa yêu nước, gắn liền chủ nghĩa yêu nước với lý tưởng XHCN. Trong đêm trường nô lệ, HCM đã tìm được con đường đúng đắn nhất của dân tộc ta là độc lập dân tộc và CNXH. Bất chấp khó khăn thách thức, dân tộc ta vững vàng trên con đường đó và đạt được những thắng lợi vĩ đại. Ngày nay con đường này còn nhiều chướng ngại, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục kiên định con đường đã chọn, vượt mọi khó khăn để gắn chủ nghĩa yêu nước với CNXH. Bác nói: ngày nay yêu nước là yêu CNXH, yêu CNXH làm cho yêu nước thì càng thấm thía hơn.   2.2. Quán triệt tư tưởng dân là gốc Sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, cho nên mọi chủ trương chính sách của Đảng ta đều xuất phát từ dân, dựa vào dân mà thực hiện. Do đó cần phải phát triển nguồn nhân lực con người, đào tạo đội ngũ cán bộ tốt, đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khơi dậy, phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, coi dân chủ là mục tiêu, là động lực để xây dựng đất nước, chú trọng nâng cao ý thức làm chủ cho nhân dân.   2.3. Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất Khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường, giải quyết đói nghèo, thu hẹp khoảng cách, ranh giới giữa Kinh và Thượng, giữa nông thôn và thành thị, cũng cố khối đại đoàn kết 54 dân tộc anh em, chăm lo đời sống đồng bào dân tộc ít người, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo, các tập quán tốt đẹp của dân tộc, kiên quyết loại bỏ những âm mưu lợi dụng tôn giáo, tà giáo để gây rối.   2.4. Làm tốt công tác xây dựng đảng và xây dựng chính quyền Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực quản lý của các cơ quan nhà nước, coi đây là nhân tố quyết định thắng lợi vào sự nghiệp đổi mới. tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền Hồ Chí Minh - người khai sinh nước Việt nam dân chủ cộng hoà, trực tiếp đứng đầu Nhà nước đó trong 24 năm, đã lãnh đạo nhân dân ta nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử: giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đưa đất nước đi lên con đường ấm no hạnh phúc, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh trên lễ đài trong ngày 2/9/1945. Chúng ta có thể tự hào về dân tộc ta đã sản sinh ra con người vĩ đại, đã kế thừa và phát huy những tư tưởng của các bậc tiền bối như “nước lấy dân làm gốc” hay “người đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân” và “vận nước thịnh hay suy, mất hay còn là do sức mạnh của dân quyết định” (Nguyễn Trãi) trong truyền thống dân tộc; đã xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam; từ sự tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và những thành quả về Nhà nước pháp quyền của nhiều quốc gia tiên tiến; vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm và lý luận đó vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam. Có thể nói quá trình đi tìm đường cứu nước của Người cũng là quá trình tìm kiếm một nhà nước mới phù hợp với đất nước Việt Nam, với dân tộc Việt Nam, bởi lẽ trong mọi cuộc cách mạng, vấn đề chính quyền nhà nước luôn luôn là vấn đề cơ bản. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh sống trong cảnh nước mất nhà tan, từng chứng kiến cảnh nhân dân ta bị áp bức, bóc lột nặng nề dưới chế độ hà khắc, bất chấp luật pháp của bọn thực dân Pháp và phong kiến Nam triều. Khi bôn ba nơi hải ngoại, nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của các nước phương Tây, ý tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở Hồ Chí Minh. Bởi vậy khi có điều kiện thể hiện ý tưởng ấy của mình, Người đã chớp thời cơ, đấu tranh để có được trước hết những quyền của người dân ghi trong pháp luật. Năm 1919, Hội nghị Vécxây họp sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Người đã gửi Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị gồm 8 điều, trong đó có 4 điều liên quan tới vấn đề pháp quyền. Cụ thể là: Điều 1: Yêu cầu ân xá đối với tất cả chính trị phạm. Điều 2: Đòi cải cách nền công lý ở Đông Dương nhằm đảm bảo cho người bản xứ được hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu. Người nói: “Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu”. Điều 7: Đòi thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Điều 8: Đòi có đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ cử ra tại Nghị viện Pháp. Và Người đã chuyển bản yêu sách trên thành “Việt Nam yêu cầu ca” để phổ biến rộng rãi cho mọi người, trong đó có hai câu: “Bảy xin hiến pháp ban hành Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Chính phủ đầu tiên. Sau khi tìm được con đường cứu nước, Người đã tổ chức, lãnh đạo nhân dân ta giành lấy tự do độc lập cho Tổ quốc. Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, Hồ Chí Minh đã chủ trương “thành lập chính quyền cách mạng” ở các căn cứ địa, các khu giải phóng lúc bấy giờ. Đến đầu tháng Tám 1945, mặc dù tình hình lúc đó hết sức khó khăn, Người đã kiên quyết triệu tập Đại hội quốc dân ở Tân Trào, cử ra Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam - một tổ chức tiền chính phủ ra đời đảm bảo tính hợp pháp của chính quyền mới. Tháng 8 năm 1945, Hà Nội và các địa phương trong toàn quốc khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Trước khi quân Đồng minh đổ bộ vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình để tuyên bố với toàn thế giới và quốc dân đồng bào sự “khai sinh” của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chính phủ lâm thời đã ra mắt trước quốc dân Việt Nam và thế giới. Tuyên ngôn độc lập là văn kiện chính trị đặc biệt, khẳng định rằng: Dân tộc Việt Nam bằng sức mạnh kỳ diệu của mình đã giành được độc lập tự do và kiên quyết bảo vệ quyền tự do và độc lập ấy. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời là hợp hiến, hợp pháp. Chính phủ lâm thời là hợp pháp, hợp công lý. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chí Minh đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ thứ 3 là: “Phải có một hiến pháp dân chủ” và đề nghị sớm tổ chức tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Đó là việc tiếp tục xây dựng một Nhà nước pháp quyền, một Nhà nước dân chủ, hợp pháp, một Nhà nước thực sự đại diện cho nhân dân, do toàn dân bầu cử ra và quản lý xã hội bằng pháp luật. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong cả nước được thực hiện ngày 6 tháng 1 năm 1946 và đã bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt nam dân chủ cộng hoà. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng Hiến pháp và pháp luật, khẳng định pháp luật của nước ta là ý chí chung của nhân dân, của dân tộc Việt Nam. Người yêu cầu các cơ quan nhà nước, cán bộ viên chức nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải gương mẫu chấp hành pháp luật và Đảng cầm quyền cũng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Người rất coi trọng việc đưa Hiến pháp và pháp luật vào thực hiện có hiệu quả trong cuộc sống. Hiến pháp đầu tiên (1946) của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã thể hiện tư tưởng này của Hồ Chí Minh. Người yêu cầu Nhà nước ta phải là nhà nước có bộ máy hành chính mạnh, có hiệu lực, điều hành bằng pháp luật; mọi quyền dân chủ phải được thể chế trong hiến pháp, trong các bộ luật và đòi hỏi công dân phải tuân theo. Hồ Chí Minh đòi hỏi tính nghiêm túc không trừ một ai trong thi hành pháp luật, nhất là cán bộ ngành tư pháp càng phải nêu cao tinh thần “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”. Người nói: “Về việc Chính phủ liêm khiết, thì Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc ở các uỷ ban làng hiện đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao Chính phủ cũng đã hết sức làm gương. Và nếu làm gương không xong thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ- đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết.” Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Việt Bắc. Đặc biệt, trong tư tưởng trị nước của Hồ Chí Minh có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “pháp trị” và “đức trị”. Người nói: “Không xử phạt là không đúng, song chút gì cũng trừng phạt là không đúng”. “Nhà nước phải vừa giáo dục vừa sử dụng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên lương thiện”. Xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền, yêu cầu mọi người sống và làm việc tuân thủ pháp luật là nội dung chủ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước. Người nói: “ Pháp lụât của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp” Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền đã được phát triển trong quá trình hoạt động cách mạng của Người. Người đã dành không ít tâm trí, nghị lực để xây dựng một Nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Hồ Chí Minh nói: “Nhà nước của ta là Nhà nước của dân”, “Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”, "Vận mệnh quốc gia trong tay nhân dân." Nội dung đầu tiên, cơ bản nhất về Nhà nước của dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Dân bầu ra chính quyền Nhà nước ở Trung ương và chính quyền các cấp. “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Việc nước là việc chung, mỗi một người con Rồng cháu Tiên, bất kỳ già trẻ, gái trai, giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo đều phải gánh vác một phần” và bản thân Người đã hoạt động không mệt mỏi nhằm thức tỉnh toàn dân tộc phát huy cao nhất sức mạnh của trí tuệ, tài năng và nghị lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền, sự thống nhất của dân tộc Việt Nam. Ngay sau ngày thành lập nước, Người yêu cầu tổ chức “càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Người nhấn mạnh : “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử...”. Lần đầu tiên tất cả công dân Việt Nam có quyền bầu cử và ứng cử. Đây quả là điều hết sức mới mẻ đối với nhân dân lao động Việt Nam. Cuộc Tổng tuyển cử diễn ra thành công vào ngày 6 tháng 1 năm 1946 và sau đó Quốc hội chính thức tổ chức ra bộ máy nhà nước đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trên thực tế, huy động toàn thể nhân dân tham gia quản lý đất nước, nhân dân đóng vai trò làm chủ đất nước. Chính quyền là vấn đề cốt tử của cách mạng, mà chính sách bầu cử, ứng cử là để cho toàn dân giải quyết vấn đề đó, tính lập hiến trong việc hình thành bộ máy nhà nước: tự do hay hạn chế; bình đẳng hay phân biệt; giả hay thật; áp đặt hay tự do lựa chọn; cũng là một chuẩn mực để xem xét bộ máy chính quyền thực sự của dân hay không. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Có như thế dân mới thực hiện được nguyện vọng và ý chí của mình. Đồng thời cũng xuất phát từ nhu cầu cấp bách của tình hình phải chuyển từ Chính phủ lâm thời sang chính thức để đối phó với những âm mưu của kẻ thù định xoá nền độc lập và chính quyền non trẻ của nước ta lúc bấy giờ. Đó thực sự là một ý tưởng tuyệt vời của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân. Bác Hồ thǎm hỏi chiến sỹ thi đua Phạm Trung Pồn, bị mù cả hai mắt nhưng đã có nhiều sáng kiến cải tiến nông cụ. Đối với Hồ Chí Minh, xây dựng một nhà nước của dân không chỉ trong ý tưởng, trong thiết kế, mà bằng hành động thực tiễn của Người. Trước vận mệnh của đất nước hiểm nghèo, “ngàn cân treo sợi tóc”, để đoàn kết dân tộc và giữ vững chính quyền nhân dân non trẻ, Người đã đề nghị bổ sung 70 ghế đại biểu quốc hội cho Việt Nam Quốc dân Đảng. Đây là một sáng kiến kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, nhằm tập hợp lực lượng, lôi kéo các đảng phái, các tầng lớp xã hội tham gia xây dựng và bảo vệ đất nước. Được sự uỷ nhiệm của Quốc hội, trong “Lời tuyên bố sau khi thành lập Chính phủ mới”, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Chính phủ mới phải tỏ rõ tinh thần đại đoàn kết, không phân đảng phái...Kết quả là, có những vị có tài năng nhận lời tham gia Chính phủ: như Cụ Huỳnh, vì tuổi già sức yếu mà cố từ, nhưng vì tôi lấy đại nghĩa mà lưu Cụ, Cụ cũng gắng ở lại. Lại có nhiều vị đứng ngoài sẵn sàng ra sức giúp đỡ: như Cụ Bùi Bằng Đoàn, linh mục Phạm Bá Trực...Dầu ở trong hay ngoài Chính phủ, ai nấy đều hứa sẽ cố gắng làm việc, một lòng vì nước, vì dân... Tôi có thể tuyên bố trước Quốc hội rằng, Chính phủ này tỏ rõ cái tinh thần quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh thủ quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ cùng xây dựng một nước Việt Nam mới. Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam. Bắc tham gia” Quyền bính của nhân dân cũng được thể hiện rõ trong việc nhân dân có quyền kiểm tra, kiểm soát và bãi miễn đại biểu. Người nhắc nhở: “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành, tận tuỵ của nhân dân”. Để nhân dân có thể kiểm tra, kiểm soát , Người yêu cầu cơ quan nhà nước phải có cách tổ chức thuận tiện cho nhân dân thực hiện quyền của mình, tránh “cửa quyền”, hách dịch, chống “lạm quyền”, “đứng trên dân”, “đè đầu cưỡi cổ,ức hiếp dân”, thực hiện quyền khiếu tố của nhân dân, đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân. Người thường nhắc nhở: Nạn lãng phí, tham ô, là do bệnh quan liêu, mệnh lệnh trong công tác của các cấp lãnh đạo ở các cơ quan nhà nước gây ra...Vì vậy, cần có cơ quan thanh tra nhà nước, chẳng những chống lãng phí tham ô mà còn chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh để giúp đỡ các cơ quan nhà nước cải tiến công tác, giữ gìn kỷ luật, thực hành dân chủ, góp phần củng cố bộ máy nhà nước. “Đồng bào có oan ức, có thắc mắc mới khiếu nại. Ta giải quyết tốt các khiếu nại, đồng bào thấy Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến họ, do đó mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với Đảng và Chính phủ được củng cố tốt hơn.” Người còn nói: “Từ ngày thành lập Chính phủ, trong nhân viên còn có nhiều khuyết điểm. Có người là quan cách mạng, chợ đen, chợ đỏ, mưu vinh thân phì gia...Xin đồng bào hãy phê bình, giám sát công việc chính phủ.” Hồ Chí Minh yêu cầu: Để nhà nước thực sự là của dân thì cán bộ nhà nước phải thường xuyên thực hiện phê bình và tự phê bình, lấy ý kiến tín nhiệm hay không tín nhiệm, khen, chê rõ ràng. Vì theo Người: kiểm soát, giám sát là một nguyên tắc để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân: nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Nguyên tắc ấy đảm bảo quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của mình. Những người trong bộ máy các cấp phải là “công bộc của dân, do dân cử ra trực tiếp hay gián tiếp thực thi quyền lực của dân, là người phục vụ nhân dân”. bản thân Hồ Chí Minh tự nhận là “Người lính già vâng mệnh lệnh của quốc dân ra mặt trận”. Nhận thức rõ vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐỀ CƯƠNG MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.doc