Đề cương tâm lí học

CÂU HỎI:

Câu 1: Phân tích quá trình nhận thức của HSTH (tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng)? Nêu hướng thúc đẩy sự nhận thức cho học sinh tiểu học?

Câu 2: Phân tích đặc điểm tình cảm của HSTH và phương hướng giáo dục tình cảm cho trẻ?

Câu 3: Khái niệm về hoạy động học, đặc điểm ( bản chất )phương hướng tổ chức hoạt động học tập cho trẻ?

Câu 4: Động cơ là gì? Các loại động coe học tập ở HSTH? Phương hướng giáo dục động cơ cho trẻ?

Câu 5: Kĩ năng, kĩ xảo là gì? Các yêu cầu tâm lí về hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho HSTH?

Câu 6: Trí tuệ là gì? Trình bày các chỉ số phát triển của trí tuệ. Cho ví dụ minh họa. Nêu phương hướng thúc đẩy sự phát triển trí tuệ?

Câu 7: Phân tích bản chất tam lí của quá trình giáo dục Đạo đức ở tiểu học? phương hướng giáo dục đạo đức?

Câu 8: Phân tích nhóm năng lực dạy học của người giáo viên? Phương hướng rèn luyện năng lực đó cho bản thân?

 

docx18 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1077 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đề cương tâm lí học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ sở lý trí, từ đó các em có thể nhìn nhận và đánh giá đ-ợc cái thiện, cái ác, cái xấu, cái cao thượng, cái nhỏ nhen, cái ti tiện. Nhưng các giờ học đạo đức, các giờ giáo dục công dân chưa đủ làm cho những tri thức hiểu biết về chuẩn mực đạo đức bắt rễ sâu vào trí tuệ của HS, chưa đủ để tạo ra tình cảm đạo đức, động cơ đạo đức và niềm tin đạo đức. Vì vậy, các môn học khác của nhà trường tiểu học phải góp phần cung cấp, bổ sung thêm những tri thức về đạo đức cho HS. - Biến tri thức đạo đức thành niềm tin và tình cảm đạo đức, đồng thời chú trọng học tập hành vi đạo đức và thói quen đạo đức. Muốn biến tri thức đạo đức thành niềm tin và tình cảm đạo đức không thể không tìm mọi cách tác động vào tình cảm đạo đức và ý chí của HS. Tác động vào tình cảm, tinh thần học tập, thái độ đối với cái tốt, xấu, thiện, ác mới chuyển đc tri thức đạo đức thành niềm tin đạo đức. Việc tổ chức cho HS tiếp xúc với ng thực, việc thực, với chính chủ thể của các hành vi đạo đức có thật sẽ có tác dụng hơn nhiều so với lý thuyết dài dòng, khô khan, cứng nhắc về những điều phải làm và không đc làm. Việc thực và ng thực có khả năng đi thẳng vào niềm tin của mỗi HS, của nhóm và tập thể mà HS là thành viên. Những hành vi đó là mẫu mực để HS noi theo. Tuy vậy, cần lưu ý, cuộc sống xã hội càng phong phú thì quan hệ giữa ng với ng càng đa dạng và biến động. Do đó, chủ thể đạo đức phải thấm nhuần hệ thống nguyên tắc chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa. Chỉ có như vậy, HS mới lựa chọn đc “chuẩn'' ứng xử trong tình huống phức tạp. Mặt khác, cần coi trọng đúng mức việc làm nảy sinh nhu cầu đạo đức trong sáng ở HS. Vì thế, không thể dừng lại ở đó mà phải thông qua việc thực hiện hành vi đạo đức mà giáo dục động cơ, tình cảm và niềm tin đạo đức cho các em. Phải thừa nhận rằng lâu nay, dạy học ở nhà trường chủ yếu chỉ cung cấp cho HS một số tri thức đạo đức mà chưa có biện pháp thoả đáng để bồi dưỡng tình cảm thẩm mỹ đạo đức và rèn luyện thói quen đạo đức. - Tận dụng tác động tâm lý của nhóm, tập thể trong việc giáo dục đạo đức cho HS. + Nhóm, tập thể đc xem là công cụ tích cực trong giáo ducjddaoj đức cho HS thông qua dư luận nhóm, áp lực nhóm. + Nhóm, tập thể đóng vai trò động viên, kích thích các hành vi đạo đức tích cực. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội thể hiện thái độ đánh giá của xã hội. Kể từ tuổi thiếu niên và trong dài trong suốt giai đoạn đầu của tuổi thanh niên, nhóm và tập thể của các em là đại diện cho xã hội có ảnh hưởng to lớn đối với việc hình thành đạo đức của các em. Kinh nghiệm đạo đức của nhóm và tập thể đc xem là chuẩn mực đạo đức xã hội đối với các em. HS có thể tham gia vào các nhóm khác nhau, nhưng trong phạm vi nhà trường thì có thể kể ra 3 nhóm chính: tổ học tập (lớp), chi đội (đoàn) và nhóm HS ở nơi ở. Để tác động của tâm lý nhóm và tập thể đến việc giáo dục đạo đức cho HS đem lại hiệu quả, cần chú ý: + Các hoạt động nhóm (tập thể) phải nhằm vào lợi ích của xã hội, tập thể, nhóm và từng thành viên. + Nội dung và hình thức của các hoạt động cùng nhau phải chứa đựng những quan hê xã hội tiến bộ, tích cực, các chuẩn đạo đức mang đậm đà bản sắc dân tộc, thể hiện thành hệ thống, quy phạm đạo đức và đc thực hiện thống nhất trong nhóm, tập thể. + Nội dung và hình thức hoạt động của nhóm, tập thể phải phù hợp với năng lực, lứa tuổi và tạo điều kiện cho mỗi cá nhân phát triển hết bản sắc riêng, để làm sao có sự hài hoà, cân đối giữa hoạt động tập thể và cuộc sống của cá nhân. + Khi tổ chức hoạt động cùng nhau trong nhóm, tập thể cần chú ý đến quan hệ liên đới trách nhiệm trên cơ sở có tính đến năng lực, phẩm chất của từng HS. Trong trường hợp cho phép, có thể cho các em luân phiên ở các vị thế khác nhau. + Tôn trọng sự tự quản của HS để phát triển sáng kiến và óc tổ chức trên tinh thần cộng đồng trách nhiệm xây dựng nhóm, tập thể của các em. Trên cơ sở đó hình thành cho HS biết tự rèn luyện, tự giáo dục. Đây là hình thức cao nhất của giáo dục đạo đức. V.A.Xukhômlinxki đã chỉ ra: ''Khi nào giáo dục là tự giáo dục thì mới là giáo dục chân chính. Và tự giáo dục - đó là nhân phẩm của con ng trong hành động, đó là dòng thác mãnh liệt làm chuyển động bánh xe nhân phẩm của con ng''. Đến lúc này chủ thể của hành vi đạo đức đã ''chiếm lĩnh” đc các mục tiêu, phương pháp, phương tiện mà xã hội, tập thể, nhóm đã giáo dục mình, biến chúng thành công cụ riêng và vận dụng vào sự phát triển đạo đức tiếp theo của bản thân. Khi đó cá nhân đã xác lập đc một hệ thống quan điểm đạo đức, niềm tin đạo đức, nhu cầu đạo đức thể hiện ở biểu định hướng giá trị và tính sẵn sàng hoạt động đạo đức. KLSP: - Trong công tác giáo dục đạo đức cho HSTH, không nên dùng phương pháp giáo dục nặng nề về thuyết giáo như bắt HS học thuộc lòng những tri thức đạo đức như đưa ra những lời khuyên bảo, nêu ra các tiêu chuẩn, châm ngôn về đạo đức mang tính chất thuyết giáo. - Trong việc giáo dục đạo đức cho HS, giáo viên phải biết tìm ra những tình huống trong cuộc sống thực tế để các em lựa chọn giải pháp, phân tích, phê phán, cổ vũ và cuối cùng giáo viên đưa ra kết luận. Cách làm này có sức khoan sâu, lắng đọng vào tâm hồn các em. Như vậy, giáo dục đạo đức là một quá trình kết hợp giữa việc nâng cao nhận thức với sự hình thành thái độ, xúc cảm, tình cảm, niềm tin và hành vi, thói quen đạo đức. - Cung cấp tri thức đạo đức và chuẩn mực đạo đức thông qua môn đạo dức cũng như các môn khác. - Tổ chức các hoạt động giáo dục đạo đức cho Hs dưới hình thức hoạt động ngoại khóa, giáo dục ngoài giờ lên lớp: “ giúp gia đình thương binh liệt sĩ”, “uống nc nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”...hay các hoạt động gắn liền vs kỉ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc nhằm giáo dục lòng yêu quê hương-đất nước. - Xây dựng môi trường thân thiện, tổ chức các cuộc thi về tấm gương đạo đức. - Phát động phong trào ủng hộ, quyên góp. - Mời những ng tốt trong xã hội đến để nói chuyện vs các em. - Cần có sự thống nhất chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và XH về nội dung, phương pháp, cách thức giáo dục đạo đức ở trẻ. - GV cần phải là tấm gương sáng về đạo đức. - Tạo đk và cơ hội để mỗi học sinh đều có một vị trí nhất định trong hệ thống các mối qhệ cá nhân và vị thế xã hội nhất định trong tập thể. - Xây dựng đc bầu không khí đạo đức và các dư luận lành mạnh trong tập thể ủng hộ những hành vi đạo đức cao đẹp, lên án những hành vi ko phù hợp. Câu 8: Nhóm năng lực dạy học của ng GV và phương hướng rèn luyện. a. Năng lực hiểu HS trong quá trình dạy học và giáo dục: - Là khả năng xâm nhập vào thế giới bên trong của trẻ, là sự hiểu biết tường tận về nhân cách của chúng cũng như khả năng quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lý của HS trong quá trình dạy học và giáo dục. *Biểu hiện: - Giáo viên phải biết xác định được khối lượng, mức độ, phạm vi kiến thức đã có ở HS, từ đó xác định mức độ và khối lượng kiến thức mới cần trình bày cho HS. VD: HS lớp 3 đã đc trang bị kiến thức lớp 1,2. - Phải dự đoán được những thuận lợi và khó khăn, xác định đúng đắn mức độ căng thẳng ở HS khi thực hiện các nhiệm vụ học tập. VD: HS có thể hiểu biết qua phương tiện thông tin. - Giáo viên phải có khả năng quan sát tinh tế và có thể xây dựng những biểu hiện chính xác về lời giảng của mình đã được HS khác nhau lĩnh hội như thế nào. - Biết đến trình độ văn hóa, trình độ phát triển ở HS. VD: HS ngày nay thông minh, nhanh nhẹn, trí tuệ phát triển hơn HS ngày xưa. Biết đặt vào vị trí ng học để có những ứng xử sư phạm thích hợp với từng đối tượng. VD: HS trả lời đúng thì GV nên có lời khen động viên các em, tạo động lực cho các em học tập. - Khả năng hiểu HS ở ng giáo viên thể hiện ở hai mức độ: + Mức độ thấp là thông qua câu trả lời và làm bài tập của HS. VD:GV ra btập Hs trả lời câu hỏi để biết đc mức độ hiểu bài của các em. + Mức độ cao là thông qua những qua qua tiếng xì xào, ánh mắt, sắc mặt ... VD: qua cử chỉ cau mày của Hs thì ta biết đc các em chưa hiểu bài, còn phân vân. Vì vậy, muốn hiểu HS thì: + Ng giáo viên phải luôn quan tâm gần gũi HS với tình thương và trách nhiệm. + Giáo viên phải nắm vững chuyên môn cũng như sự hiểu biết đầy đủ về tâm lý của trẻ và kết hợp với những phẩm chất tâm lý cần thiết. + Phải có óc tưởng tượng phong phú để hình dung được những diễn biến trong tâm hồn HS, tức là có năng lực quan sát sư phạm. SV SP cần phải rèn luyện nghiêm túc trong quá trình học tập nghề nghiệp của bản thân. b. Tri thức và tầm hiểu biết của ng thầy giáo Là năng lực cơ bản, năng lực trụ cột của nghề dạy học, vì: - Giáo viên thực hiện nhiệm vụ phát triển nhân cách HS nhờ một phương tiện đặc biệt: tri thức. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình tất yếu phải nắm vững phương tiện ấy. Chỉ khi nào nắm vững được nội dung, bản chất, con đường hình thành tri thức mà nhân loại đã đi qua thì khi ấy ng giáo viên mới có thể chắt lọc được những cái cần cho sự phát triển nhân cách của ng học. - Vì công việc của nhà giáo cũng là công việc của một nhà giáo dục, để giáo dục được HS thì không chỉ nắm vững kiến thức môn mình dạy ng thầy giáo cần có hiểu biết rộng, tâm hồn của họ phải được bồi bổ nhiều tinh hoa của dân tộc, của cuộc sống, của khoa học. Khi đó ng thầy giáo mới có thể bồi dưỡng cho thế hệ trẻ có được nhãn quan rộng rãi, có hứng thú và thiên hướng thích hợp.  - Xã hội càng hiện đại, đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với trẻ, đông thời làm cho hứng thú và nguyện vọng của trẻ càng phát triển (thích tò mò, tìm hiểu). Ng giáo viên cầnphải nâng cao trình độ, tri thức để đáp ứng sự phát triển ở trẻ. - Tạo ra uy tín cho ng giáo viên. * Biểu hiện: - Giáo viên phải nắm vững và hiểu biết rộng về môn mình phụ trách.  - Thường xuyên theo dõi, nắm bắt xu hướng phát triển và những phát minh trong khoa học môn mình phụ trách và các khoa học lân cận  - Biết tiến hành nghiên cứu khoa học.  - Có năng lực tự học tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình, biết khai thác tri thức trên mạng để vận dụng vào dạy học. Để có năng lực này đòi hỏi ng giáo viên phải có hai yếu tố cơ bản: + Thứ nhất là có nhu cầu mở rộng tri thức và tầm hiểu biết. + Thứ hai là có khả năng để làm thỏa mãn nhu cầu đó (phương pháp tự học). Ngay cả bậc vĩ nhân nếu không thường xuyên tự bồi dưỡng thì dần mất hết nhu cầu trí tuệ và hứng thú tinh thần. Do đó, ng giáo viên phải có tầm hiểu biết sâu rộng và luôn có nhu cầu mở rộng tầm hiểu biết để hoàn thiện tri thức của mình. Tâm hồn của giáo viên phải được bồi bổ rất nhiều những tinh hoa của dân tộc, của cuộc sống và của khoa học. Dù họ có cống hiến cho HS bao nhiêu đi nữa thì họ vẫn dư dật những kiến thức đó. => Nhà GD ng Nga Xukhôn-linxki viết “ Khi nào tầm hiểu biết của giáo viên rộng hơn chương trình của nhà trường một cách vô bờ bến, thì lúc đó giáo viên mới là một thợ cả lành nghề, một nghệ sĩ, một nhà thơ của quá trình sư phạm”. c. Năng lực chế biến tài liệu học tập - Là năng lực gia công về mặt sư phạm của giáo viên đối với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi, của từng cá nhân HS, phù hợp với trình độ, kinh nghiệm của HS và đảm bảo logic sư phạm. * Biểu hiện:  - Trình bày tài liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình. - Cung cấp cho HS những kiến thức tinh và chính xác, liên hệ được nhiều mặt giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, kiến thức bộ môn này với kiến thức bộ môn khác, liên hệ vận dụng vào thực tế. - Tìm ra những phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng đầy sức lôi cuốn và giàu cảm xúc và sáng tạo. - Học tập được kinh nghiệm của giáo viên khác và đúc kết kinh nghiệm cho mình.  * Yêu cầu: - Giáo viên phải biết đánh giá đúng đắn tài liệu dùng để dạy cho HS, xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của chương trình với trình độ nhận thức của HS. - Giáo viên phải biết chế biến tài liệu cho phù hợp với logic sư phạm và vừa phù hợp với trình độ nhận thức của HS. - Giáo viên phải có khả năng phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa kiến thức. - Phải có sự sáng tạo khi chế biến và trình bày tài liệu học tập. => Để có năng lực này, GV phải nắm vững kiến thức, mục tiêu của bậc học, kĩ thuật soạn giáo án, hiểu biết trình độ, tâm lí HS, biết sử dụng công nghệ thông tin vào soạn giáo án. d. Năng lực nắm vững kỹ thuật dạy học - Là khả năng tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của HS qua bài giảng. Nắm vững kỹ thuật dạy học mới là giáo viên tổ chức và điều khiển hoạt động của HS giúp HS lĩnh hội tri thức thông qua hoạt động tích cực độc lập của bản thân. * Biểu hiện: - Giáo viên phải tạo cho HS ở vị trí ng “khám phá” trong quá trình dạy học. - Giáo viên phải truyền đạt tài liệu một cách rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với HS. - Phải tạo ra hứng thú và kích thích HS suy nghĩ một cách độc lập tích cực. - Phải tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội tri thức trong quá trình học tập. - Biết ứng dụng công nghệ thông tin, máy móc trong dạy học. => Vì vậy, để có năng lực này đòi hỏi ở ng giáo viên phải có quá trình học tập nghiêm túc và rèn luyện kỹ năng sư phạm, tích cực tập giảng. e. Năng lực ngôn ngữ - Là khả năng biểu đạt rõ ràng, mạch lạc ý chí & tình cảm của mình bằng lời nói cũng như nét mặt, điệu bộ. - Là một năng lực quan trọng không thể thiếu của ng thầy giáo vì đây là công cụ, phương tiện đảm bảo cho ng giáo viên thực hiện chức năng dạy học và giáo dục của mình. Nhờ ngôn ngữ thầy giáo truyền đạt thông tin tới trò, thúc đẩy sự chú ý và suy nghĩ của HS vào bài giảng và điều khiển và điều chỉnh hoạt động nhận thức của HS, giải thích, bàn bạc, tổ chức, huy động các lực lượng khác tham gia vào hoạt động giáo dục. * Biểu hiện: Năng lực ngôn ngữ của giáo viên được biểu hiện cả về nội dung và hình thức cụ thể: - Nội dung ngôn ngữ phải sâu sắc, chứa đựng mật độ thông tin lớn, phải thích hợp với các nhiệm vụ nhận thức khác nhau.  - Hình thức ngôn ngữ phải trong sáng, giản dị, giàu hình ảnh, có ngữ điệu, biểu cảm, phát âm mạch lạc, không sai về ngữ pháp và có cảm xúc làm lay động tâm hồn HS.  - Ngôn ngữ của giáo viên không quá nhanh cũng không quá chậm, ngôn ngữ của giáo viên phải có tác dụng khơi gợi sự chú ý và tư duy tích cực của HS vào bài giảng. - Bên cạch đó ng giáo viên phải biết sử dụng phi ngôn ngữ sinh động, phù hợp với nội dung của bài giảng => Vì vậy, ng giáo viên phải thường xuyên rèn luyện, trau dồi về ngôn ngữ, phải am hiểu về tri thức đề truyền đạt có xúc cảm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxde_cuong_tam_li_6042.docx
Tài liệu liên quan