Đề tài Ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đến tộc người Chăm ở Việt Nam và người Chăm đã tiếp nhận nó ra sao và được thể hiện như thế nào

Một cộng đồng cư dân không chỉ sống trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên mà con luôn tồn tại trong mối quan hệ với xã hội các dân tộc xung quanh. Cách thức ứng xử với môi trường xã hội là một thành tố của hệ thống văn hoá.

Với vị trí ngã tư đường, con người Việt Nam luôn quan tâm tới việc tiếp nhận các giá trị văn hoá nhân loại : Tiếp thu văn hoá Trung Hoa, ta có Nho giáo và Đạo giáo. Văn hoá phương Tây đem lại KiTô Giáo và những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần mơí mẻ, tiếp thu văn hoá Ấn Độ, ta có nền Phât giáo Việt Nam và nền văn hóa Chăm độc đáo. Sự hội nhập văn hoá giữa Chămpa và Ấn Độ trước đây đã góp phần tạo nên sự đa dạng cho nền văn hoá Việt nam đa sắc tộc

Cùng với thời gian và sự biến đổi nhà nước Chănpa suy tàn các dấu ấn về chính trị cũng bị xoá sạch và chỉ để lại trong dân tộc Chăm và các bộ tộc khác một di sản văn hoá đậm ảnh hưởng Ấn Độ với những nét riêng độc đáo. Vậy văn hoá Ấn Độ đã có mặt ở Chămpa từ bao giờ, bằng con đường nào?. Vai trò và ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đến với tộc người Chăm có sâu rộng hay không, có lấn át đựoc lớp văn hoá bản địa hay không ? được thể hiện ra sao? Để đáp ứng và lý giải phần nào đòi hỏi đó khoá luận đi vào nghiên cứu đề tài: Ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đến tộc người Chăm ở Việt Nam.

 

doc53 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1142 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đến tộc người Chăm ở Việt Nam và người Chăm đã tiếp nhận nó ra sao và được thể hiện như thế nào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu 1. tính cấp thiết của đề tài Một cộng đồng cư dân không chỉ sống trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên mà con luôn tồn tại trong mối quan hệ với xã hội các dân tộc xung quanh. Cách thức ứng xử với môi trường xã hội là một thành tố của hệ thống văn hoá. Với vị trí ngã tư đường, con người Việt Nam luôn quan tâm tới việc tiếp nhận các giá trị văn hoá nhân loại : Tiếp thu văn hoá Trung Hoa, ta có Nho giáo và Đạo giáo. Văn hoá phương Tây đem lại KiTô Giáo và những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần mơí mẻ, tiếp thu văn hoá ấn Độ, ta có nền Phât giáo Việt Nam và nền văn hóa Chăm độc đáo. Sự hội nhập văn hoá giữa Chămpa và ấn Độ trước đây đã góp phần tạo nên sự đa dạng cho nền văn hoá Việt nam đa sắc tộc Cùng với thời gian và sự biến đổi nhà nước Chănpa suy tàn các dấu ấn về chính trị cũng bị xoá sạch và chỉ để lại trong dân tộc Chăm và các bộ tộc khác một di sản văn hoá đậm ảnh hưởng ấn Độ với những nét riêng độc đáo. Vậy văn hoá ấn Độ đã có mặt ở Chămpa từ bao giờ, bằng con đường nào?. Vai trò và ảnh hưởng của văn hoá ấn Độ đến với tộc người Chăm có sâu rộng hay không, có lấn át đựoc lớp văn hoá bản địa hay không ? được thể hiện ra sao? Để đáp ứng và lý giải phần nào đòi hỏi đó khoá luận đi vào nghiên cứu đề tài: ảnh hưởng của văn hoá ấn Độ đến tộc người Chăm ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho tới hiện nay ở nước ta chưa có nhiều công trình nghiên cứu quy mô về văn hoá Chăm ở Việt nam, số lượng tác giả nghiên cứu về văn hoá Chăm ở Việt Nam hiện tại là rất hạn chế. Các bài viết chủ yếu xuất hiện trên một số tạp chí nghiên cứu, báo…. với dung lượng nhỏ, xoay quanh các đề tài như: Lễ hội, kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật…. Nhìn chung ảnh hưởng của văn hoá ấn Độ đến tộc người Chăm ở Việt Nam hiện nay chưa được các công trình khoa học nào đề cập một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ. Dù sao những công trình nghiên cứu đó là những đóng góp to lớn cho việc nhận diện rõ hơn văn hoá dân tộc Chăm dưới góc độ khoa học và là những tài liệu vô cùng quý báu để khoá luận lấy làm tư liệu học tập và kế thừa . 3. Mục đích, nhiệm vụ và pnhạm vi nghiên cứu của khoá luận Mục đích của khoá luận là đi vào tìm hiểu những “Ảnh hưởng của văn hoá ấn Độ đến tộc người Chăm ở Việt Nam và người Chăm đã tiếp nhận nó ra sao và được thể hiện như thế nào.” Thực hiện mục đích trên, khoá luận tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu chung về vương quốc Chămpa - Văn hoá ấn Độ và văn hoá Chăm - Một số biểu hiện của văn hoá ấn Độ đến văn hoá Chăm - Phạm vi nghiên cứu: Đi sâu vào tìm hiểu sự giao lưu giữa hai nền văn hoá ấn Độ và Chămpa, trong đó chú ý đến những dấu ấn còn lại của văn hoá ấn Độ với người Chăm hiện nay 4. Phương pháp nghiên cứu của khoá luận Khoá luận được thực hiện với một số phương pháp: phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, đối chiếu, so sánh….. 5. ý nghĩa khoá luận Khoá luận chỉ đống góp một phần nhỏ cho việc tìm hiểu và nhận diện rõ hơn cho sự giao lưu, ảnh hưởng giữa văn hoá ấn Độ và Chămpa. Văn hoá Chăm cũng như các giá trị của nó cần được trân trọng, gìn giữ trong đời sống chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam 6. Kết cấu khoá luận : Ngoài phần mở đầu, kết luận, dạnh mục tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương, 8 mục Chương 1 Tìm hiểu chung về Vương Quốc Chăm Pa 1.1. Sự ra đời và hình thành của Vương quốc Chăm Theo kết quả điều tra dân số thì tính đến ngày 1/4/1989 dân tộc Chăm có 98.971 người đứng thứ 14 trong số 54 dân tộc Việt Nam. Người Chăm sống tập trung chủ yếu ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận (trên 89%), số ít ở An Giang, Đồng Nai, Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh. Tại miền Tây các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa. Ngoài ra còn có nhóm Chăm miền núi - Chăm - láng giềng của người Ê Đê, Ba Na. Người Chăm có lịch sử cư trú lâu đời ở ven biển miền Trung. Họ đã lập nên nước Lâm ấp - Chăm Pa phát triển rực rỡ vào cuối thế kỷ thứ II. Về mặt chủng tộc, người Chăm (cùng với một số dân tộc Tây Nguyên) thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo, là một bộ phận của nhóm loại hình Inđônêxia, xưa kia cư trú rải rác tại nam Đèo Ngang đến Bình Thuận. Theo các tài liệu Trung Quốc, vào năm 192, thừa lúc nhà Hậu Hán suy yếu (sau cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhưng bị đàn áp đẫm máu của Hai Bà Trưng), một viên chức quận Tường Lâm (phía Nam Thừa Thiên ngày nay) là Khu Liên đã lãnh đạo người Chăm nổi lên khởi nghĩa thắng lợi lập nên Vương quốc Lâm ấp (xứ Rừng) hay Chăm Pa, Tân Thư, một tài liệu Trung Quốc năm 280 xác định: "Vương quốc về phía Nam, giáp nước Phú Nam. Hai nước gồm rất nhiều bộ lạc và liên kết với nhau, lợi dụng núi non hiểm trở, họ không chịu quy phục Trung Quốc". Từ thời điểm này, trên rẻo đất miền Trung nổi lên một tiểu quốc độc lập chịu ảnh hưởng của ấn Độ. Vương quốc Lâm ấp vốn là một quốc gia sớm phát triển ở Đông Nam á, hảng hải Lâm ấp rất nổi tiếng và đã từng thực hiện chủ quyền Nhà nước trên các đảo lớn ở biển Đông, mà thủ tịch cổ của Trung Quốc thường gọi là Giao Chỉ Dương (biển của Giao chỉ). Quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa, người Lâm ấp gọi là B'lao Brai Kân (Cù lao bãi lớn). Đó là loại địa danh chắc chắn cổ nhất trong lịch sử quần đảo này. Người Chăm H're còn ghi nhớ một bài kinh cúng khi ra khai thác quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa vào các tháng 1 - 4 hàng năm theo lịch cổ. Vương quốc Lâm ấp với tên gọi có tính chất quốc tế lúc bấy giờ là Sinhapura (thành phố Sư Tử) dựa trên nền văn hóa vốn có đã phát triển của chính mình, sớm tiếp thu sâu sắc văn hóa ấn Độ, sáng tạo nên nền văn hóa rất độc đáo, mà hàng loạt di tích kiến trúc còn lưu lại khắp cả tỉnh ven biển miền Trung - đỉnh cao nhất tập trung tại địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng. Phía Nam vương quốc Lâm ấp tiếp giáp với một thuộc quốc của phù Nam Bia ký Võ cạnh nổi tiếng đã ghi rõ, người đứng đầu thuộc quốc này là "Đấng… hậu duệ của nhà vua Crimara , hậu duệ xứng đáng với thanh danh dòng họ của (nhà vua) Crimara". - Crimara vốn là một danh tướng rất nổi tiếng được tôn lên làm vua phù Nam. Lâm ấp và Phù Nam đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẫn nhau. Vương quốc Phù Nam (từ phù Nam có thể phiên âm từ Phnom có nghĩa là núi của tiếng Khmer) là một quốc gia ngay từ buổi đầu tiên đã được xây dựng trên cơ sở một nền nông nghiệp trồng lúa khá phát triển bắt nguồn từ vùng ruộng nương trung nguyên sông Cửu Long của cư dân Môn - Khmer, kết hợp với nghề biển cổ truyền của cư dân Nam Đảo. Trên cơ tầng đó, các đạo sĩ Bàlamôn từ ấn Độ đến đã tổ chức một quốc gia mô phỏng theo mô hình ấn Độ trên tất cả các mặt: tổ chức chính trị, thiết chế xã hội, đô thị hóa, giao thông, kỹ thuật, công nghiệp cùng một hệ thống tôn giáo và các nền văn hóa kèm theo trong đó có đạo Bàlamôn đóng vai trò chi phối. Theo sách sử ghi: Năm Vinh Minh thứ 9 (491) vua Phù Nam sai sứ dâng cống nạp hoàng đế Trung Quốc và được phong là Lâm ấp Vương. Như vậy trong thời gian này Lâm ấp chịu sự thống trị của đế quốc Phù Nam. Đến cuối thế kỷ V Lâm ấp mới giành được độc lập (theo Nam Tề Thư, q. 58, 4b Lâm ấp). Cũng từ đấy Phù Nam dần dần đi vào con đường suy yếu, sức ép tấn công từ hai phía là Chân Lạp và Lâm ấp đã quyết định sự sụp đổ của vương quốc Phù Nam. Vương quốc Lâm ấp chiếm toàn bộ lãnh thổ của thuộc quốc Phù Nam từ phía Nam Đèo Cả đến tiếp giáp Đồng Nai. Trên địa bàn đó có hai khu vực hành chính chủ yếu, ở phía Nam là Panduranga (Bình Thuận, Ninh Thuận) và phía Bắc là Koh Th'ra (Thara) - Nha Trang, theo ngôn ngữ Malayo cổ, địa danh này có nghĩa là: Bải biển hình cong lưỡi liềm. Lâm ấp mở rộng lãnh thổ vào phía Nam đưa lại một sự kiện chính trị to lớn là sự hình thành một vương quốc mới bao gồm Lâm ấp là chủ thể và phần đất rộng lớn vốn là thuộc quốc của Phù Nam. Vương quốc mới hình thành mà thư tịch cổ Trung Quốc gọi là Hoàng Vương, và sau đổi thành Champapura - Chiêm Thành. Chăm là tên tự gọi, nay trở thành tên chính thức của dân tộc. Ngoài ra còn có những tên khác như Chàm (thực ra tên này do người Kinh gọi biến âm từ Chăm mà ra), Lồi, Hời hay Chiêm, Chiêm Thành mà ta đã kể đến ở trên. Quốc hiệu Chăm Pa xuất hiện vào lúc nào không rõ, chỉ biết rằng bia kí sớm nhất có nhắc đến tên này được khắc vào cuối thế kỷ VI [Ngô Văn Doanh 1994: 6]2. Chăm pa là tên một loài hoa, miền Bắc gọi là hoa đại, miền Nam gọi là hoa sứ. Dạng rút gọn của nó chính là Chăm, biến âm là Chàm. Âm Hán Việt là Chiêm Thành, rút gọn là Chiêm. ảnh hưởng của ấn Độ đối với văn hóa Chăm phát huy mạnh mẽ trong khoảng thế kỷ VII đến hết thế kỷ XV, khi Chămpa chấm dứt sự tồn tại với tư cách quốc gia của mình. Văn minh Chămpa đã tắt, hay đúng hơn các nhà nước Chămpa đã không còn tồn tại từ vài trăm năm nay, song tộc Chăm và các tộc bà con theo mẫu hệ còn đó: Chăm H'rê, chăm H'roi, Raglai, Tarai, Rhaday… Văn hóa Chăm vẫn còn đây, sống động ở Ninh Thuận (với làng gốm Bàu Trúc) Bình Thuận là các phế tích "Thành Lời", giếng "Hời", "cánh đồng Chăm" theo cách gọi của người Kinh - Việt ở Bình - Trị - Thiên, Nam - NgãI - Bình - Phú, Khánh Hòa - Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết… Đó còn là những lễ hội rất Chăm đi vào đời sống văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cái riêng hòa trong cái chung, tất cả góp mình làm nên bản sắc, văn hiến cho dải đất hình chữ S bên bờ biển Đông. 1.2. Vài nét về đặc điểm tự nhiên và xã hội của Vương quốc Chăm Pa 1.2.1. Thiên nhiên miền Trung với Vương quốc Chăm pa Người Chăm sống trên dải đất hẹp miền Trung. Nói đến miền Trung ai cũng biết đấy là miền có địa thế hẹp chiều Tây - Đông, dằng dặc chiều Bắc - Nam. Phía Tây là dải Trường Sơn, người Pháp gọi là Chaine annamitique. Đoạn Trường Sơn nam từ Quảng Nam đến Vũng Tàu gọi là Nam Sơn. Trường Sơn mênh mông chân núi (Pie'rnont) mà người Nga gọi là miền trước núi (pretgorie = Sơn cước). Từng đoạn từng đoạn dải núi - đồi này lại đâm ngang ra biển Đông, chia cắt miền Trung thành từng vùng - xứ - tỉnh, đi từ Bắc vô Nam Trung Bộ là ta cứ lần lượt qua "một đèo, một đèo, lại một đèo". Đèo Ba Dội, đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cù Mông, đèo Cả… Dưới chân đèo là các sông lớn nhỏ, đều chảy ngang theo chiều Tây - Đông ra biển, sông ngắn, nước biển xanh, ít phù sa, nhiều cửa sông sâu tạo thành vịnh cảng là nơi đậu thuyền rất tốt. Vận động tạo sơn còn ném ra biển xa rất nhiều các đảo và quần đảo. Những Hoàng Sa - Trường Sa, Hòn Cỏ - Hòn La, hòn Nồm, Hòn Gió (Quảng Bình) Cồn Cỏ (Quảng Trị) Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Phú Yên) Hòn Tre (Khánh Hòa)… tạo ra những "bình phong" ngăn chặn bớt sóng gió biển Đông. Bờ biển miền Bắc "lõm" vào đất liền thành vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, kỳ quan di sản văn hóa thế giới 94, song lại bị đảo Hải Nam "thút nút" ở bên ngoài.. Bắt đầu từ miền Trung, đường bờ biển Việt Nam "ưỡn" cong, "lồi" ra phía biển Đông, hứng gió bão sóng thần thật đấy, song "chất biển" trong văn hóa Chămpa ngày trước, văn hóa các vùng Trung Bộ Việt Nam ngày nay rất mặn mà như chượp, mắm ruốc, mắm nêm, nước mắm, các loại đặc sản miền Trung, Luồng cá biển cũng chạy gần bờ miền Trung hơn miền Bắc. Miền Trung lại có mùa mưa lệch pha với hai đầu Bắc Nam đất nước (mùa khô Bắc - Nam là từ cuối tháng 10 đến đầu tháng 4). ở miền Trung mùa hè (tháng 4 - tháng 10) khô nóng, lại gặp gió Tây (gió phơn) rất khô nóng thổi từ Lào qua (xưa bà con ta gọi là gió "Lào") nên nói như một câu ca dân gian Quảng Trị "tháng ba, tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn…". Bốn năm liền 92 - 95 cứ vào tháng 7 - 8 tôi vô công tác Quảng Trị - Quảng Bình và hưởng trọn 30/30 ngày nắng gió Tây ngoài cồn cát nóng khô. Càng nóng, càng ăn cay, và đấy là một bản sắc văn hóa ăn Chăm pa - Trung Bộ (Hoàng phủ Ngọc Tường đã tìm cách giải thích hiện tượng này). Người Chăm sống trên giải đất miền Trung, giữa một bên là dãy Trường Sơn cao vút, bên kia là biển Đông sâu thẵm. Sự đối chọi đó của thiên nhiên đã tạo ra những sản vật đặc biệt (như Trầm, hương, vàng…) nhưng đồng thời sự thiếu hài hòa đó của tự nhiên cũng tạo nên một miền khí hậu khắc nghiệt, bao nhiêu nước mưa rơi xuống núi đều trôi tuột ra biển cả, khiến cho đất đai miền Trung trở nên hết sức khô cằn. Sống trong khung cảnh đó, con người phải một mặt vật lộn với thiên nhiên và mặt khác, giành giật với các láng giềng xung quanh. Và có lẽ chính đây là lý do để tạo nên nét khu biệt của người Chăm với những cộng đồng cư dân khác trên đất nước Việt Nam. 1.2.2. Hiểu thêm về nền nông nghiệp Chăm pa Những hình ảnh phổ biến nhất về lịch sử sinh thái và kinh tế Chăm pa có thể hình dung ra như sau: Thiếu những đồng bằng rộng lớn do vậy thiếu luôn cả một nền nông nghiệp phát triển, là một cường quốc biển yếu tồn tại chủ yếu nhờ vào việc bán ra những mặt hàng lâm sản nhưng với số lượng không lớn và ít hiệu quả. Tuy vậy những cố gắng khá mạnh mẽ nhằm kiểm soát những con đường buôn bán cùng những điều kiện kinh tế và sinh thái của mình đã cho phép Chăm pa trở nên hùng mạnh sau thế kỷ 13 hoặc 14. "Chăm pa có thể đã có vai trò lớn trong các hệ thống buôn bán ở biển Nam Trung Quốc khi đề cập tới việc lịch sử sinh thái của Chăm pa mà giờ là miền Trung Việt Nam cần phải được nghiên cứu trong hệ thống "những vùng khô" [từ điển Chàm - Việt- Pháp. Trung tâm văn hoá Chăm, Phan Rang, 1971] Theo chính sử nhà Tấn (265 - 420), Lâm ấp đã tấn công Nhật Nam (vùng Bình - Trị - Thiên hiện nay) thuộc quyền cai trị của Trung Quốc vào năm 347, vì vị quan cai quản Nhật Nam người Trung Quốc khi đó quá tham lam và: "Vì Lâm ấp thiếu ruộng lúa nước và thèm muốn đất Nhật Nam" [Jingshu (Tấn Thư), Vol 97. P2546, Liangshu (Lương Thư) Vol, 54 P.784] . Đoạn miêu tả về Chiêm Thành trong Lingwai Daida, tập sách ghi chép về tỉnh Quảng Tây và các nước ở Nam Hải biên soạn năm 11781, có nói "Tất cả đất đai đều là cát trắng, đất trồng trọt được thì rất hiếm". Trong số các đồng bằng thuộc duyên hải miền Trung, chỉ có đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh là tương đối lớn, còn các đồng bằng khác nhỏ hẹp, do phù sa bồi lấp các vùng biển cũ. Đất phần lớn là đất cát pha, thuận lợi cho việc phát triển các cây công nghiệp hàng năm (lạc, mía, thuốc lá…) nhưng không thật thuận lợi cho cây lúa. Mặc dầu cũng như nhiều vùng khác trên đất nước Việt Nam là cùng nằm trong vùng khí hậu á Châu gió mùa, nhưng một số đặc điểm của địa thế đã khiến cho khu vực Nam Trung Bộ, đặc biệt là vùng Ninh Thuận - Bình Thuận trở thành vùng khô hạn nhất nước ta. Lượng mưa trung bình hàng năm ở Phan Rang rất thấp (695m/m) và chỉ trong 52 ngày. ở Phan Rí là 770m/m trong 70 ngày. Trong những tháng mùa mưa vũ lượng hàng tháng chỉ khoảng 100m/m (vũ lượng tối đa ở tháng 5 và tháng 10). Sông ngắn, dốc, lượng mưa thấp, đất đai khô cằn không đủ tạo lên những đồng bằng phì nhiêu, rộng lớn như đồng bằng sông Hồng hay sông Cửu Long. Như vậy chỉ có những vùng đất hẹp bên trong dân cư đông đúc thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp (vùng đất ấy không chỉ là những đồng bằng mà còn là cao nguyên và thung lũng sông như hai huyện Tây Sơn và An Khê ở phía Tây Bình Định, như các huyện Krông Pa và Ayunpa ở phía Tây tỉnh Phú Yên) đủ để đáp ứng cơ bản về nhân lực và vật lực cho bộ máy của thể chế địa phương. Suốt dải đất miền Trung còn để lại nhiều dấu tích của những công trình trị thuỷ mang lại màu xanh cho cây cối như các hệ thống dẫn nước hình kỷ hả, các đập nước, hồ nước… Người Chăm đã thuần dưỡng được giống lúa không cần nhiều nước được gọi là "lúa Chiêm" (Chiêm Thành) là những giống lúa nhanh chín, có thể chịu được cả khô hạn và ngập nước, vì vậy mà thích hợp với những điều kiện thủy lợi không thuận. Ta có thể thấy rằng nông nghiệp của Chăm pa không phải là thế mạnh của Vương quốc này - nếu như không muốn nói là rất kém phát triển. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên, diện tích trồng trọt và trữ lượng thấp là những lý do để vương quốc Chămpa bị cản trở trong việc phát triển một nền nông nghiệp mạnh và toàn diện. Hơn bao giờ hết con người cần phải thích nghi với môi trường và vượt lên trên hoàn cảnh, đương đầu và chiến thắng. Những cư dân Chămpa đã làm được điều đó, khi họ đã khẳng định và tìm cho mình chỗ đứng trên chính mảnh đất gian nan này. 1.2.3. Ưu thế lâm, ngư, thương nghiệp của Vương quốc Chămpa Chămpa luôn nổi tiếng là xứ sở của trầm hương. Trầm hương của Nhật Nam đã được người Trung Quốc biết đến rất sớm từ khoảng thế kỷ 3 sau công nguyên và luôn được ghi chép là cống vật của Chămpa. Theo lời nhà sử học Ba Tư là Ibn Abei Yak Kuh viết vào khoảng năm 875 - 880 thì trầm hương Chăm pa được đánh giá là tốt nhất thế giới. Sách Thuỷ Kinh Chú cho biết người ta phải mua gỗ trầm của Chămpa: "Bằng lượng vàng nặng tương đương". Còn trữ lượng vàng của Chămpa thì lớn đến mức trở thành huyền thoại. Cái gì đã cuốn hút người ấn Độ vượt biển đến Đông Nam á ngày càng nhiều vào những thế kỷ đầu công nguyên? Có hai động lực chủ yếu: Thứ nhất là nguồn hương liệu phong phú với gỗ trầm hương, kỳ nam, các loại dầu thơm, long não, cánh kiến trắng và thứ hai là nguồn vàng - nhất là khi ấn Độ mất nguồn mua vàng từ Xibêri và Trung á. Một loạt địa danh Đông Nam á được ghi lại bằng chữ Phạn với những đặc sản điển hình của địa phương như: Xứ Vàng (Suvarna - dvipa) Thành Phố Vàng (Karakapuri), Đảo Long Não (Karguradvipa), Đảo Dừa (Narikeladvipa). Sách Lương Thư của Trung Quốc ghi rằng: "nước đó có núi vàng, đá đều màu đỏ, trong đó sinh ra vàng. Vàng ban đêm bay ra giống như đom đóm" [Ngô Văn Doanh 1994. 13]. Tuy nhiên, không phải tất cả những mặt hàng xuất đi của Chămpa đều là lâm sản và khoáng vật. Vào đầu thế kỷ 17, Zhang Xie, dựa vào những nguồn tài liệu Trung Quốc trước đó đã làm một bảng danh sách những sản phẩm của Chămpa như sau: "Vàng, bạc, thiếc, sắt, ngọc "bao mu", ngọc trai "cheng - Shuichu" ngọc trai lửa, hổ phách, pha lê, ốc tiền?, các loại đá "pusashi" sừng tê, ngà voi, mai rùa, trầm hương, gỗ đàn hương, long não, xạ hương, đinh hương, hồng thuỷ, dầu lửa, bông, vải "Zhaoxia", vải có vẻ màu, vải bông trắng, chiếu lá cọ, sáp ong vàng, lưu huỳnh, gỗ vang, gỗ mun, tre, gạo, tổ yến, hạt tiêu, cau, dừa, mít, cây "Haiwuzi" cây anit, ớt lựu nhục đậu khấu, tê giác, sư tử, voi, vượn, khỉ trắng, voi trắng, chim "chiji", vẹt, chim "Shanji", chim "guifei", rùa [(Nguồn: Zbang Xie, Dongxi, Yankao - Bản dịch tiếng Anh của Komai Yoshiaki - trường Đại học KyoTo, 1967, tr 121-5, có thể tham khảo Zonghua Shuju, Peking, 1981, tr 26 - 20]. Trong danh mục đã nêu ở trên, chiếm hầu hết là các mặt hàng lâm thổ sản. Có lẽ đây cũng chính là sự đền bù thoả đáng của tự nhiên cho sự khắc nghiệt của mảnh đất nơi đây. Để cho người Chăm có thể tự hào mà rằng "Đây là xử sở giàu có sản vật quý hiếm bậc nhất" trong vùng. Một trong những ghi chép về hải thuyền lớn của Zhenghe vào đầu thế kỷ 15 có ghi"nhiều người làm nghề chài lưới, ít người làm nghề gieo trồng, bởi vậy thóc gạo không nhiều" [Ma Huan, Yingya Shenglan (Taipai, 1970) tr 4]. Để lý giải điều trên không phải là một điều khó. Bởi từ trứoc đến nay Chămpa vẫn được coi là một Vương quốc biển. Có thể thấy một điều rằng biển miền Trung lắm tôm, cá và các hải sản khác. Tỉnh nào cũng có bãi tôm, bãi cá, nhưng các bãi tôm, bãi cá lớn nhất là ở biển cực Nam Trung Bộ. Hiện nay, chỉ tính riêng các tỉnh thuộc cực Nam Trung Bộ sản lượng thủy sản hàng năm là 120 - 150 nghìn tấn (trong đó có nhiều loại cá quý như cá thu, cá ngừ, cá trích, cá nục, cá hồng… tôm hùm, tôm he, mực). Nước mắm Phan Thiết ngon nổi tiếng cũng là sản phẩm của Nam Trung Bộ. Có thể nói, ngay từ rất sớm ý thức được nguồn lợi này, người Chăm đã vươn ra chiếm lĩnh biển khơi với nghề đánh cá. Được thiên nhiên phú cho 1000 km bờ biển giàu có về các loại cá, lại có nhiều vũng và vịnh tốt mà từ ngàn năm trước công nguyên người Nam Đảo đã biết giong buồm tìm đến. Chăm pa còn được xem như một cái "chợ tự nhiên" vì những sản vật quý hiếm trong rừng nội địa, như trầm hương và các loại hương liệu, dược liệu… hay của biển như ngọc trai, mai rùa… Những sản phẩm đó từng là nỗi đam mê của cả người ấn Độ và Trung Hoa… Đặc biệt, cái "chợ tự nhiên" này lại nằm giữa tuyến đường biển nối Trung Hoa và ấn Độ, chiếm vị trí quan trọng nhất trên tuyến đường biển Nam Trung Hoa. Có lẽ chính vì vậy mà nơi đây sớm là nơi thu hút những tàu bè gần xa cập bến. Đối với vương quốc cổ này, biển là điều kiện đầu tiên mở ra con đường giao lưu với các nước trong và ngoài khu vực. Bờ biển miền Trung dài khúc khuỷa, nhiều vũng vịnh rất thuận lợi cho việc mở những hải cảng ven biển cho tàu bè neo đậu, trao đổi, buôn bán hàng hóa. Ngay từ rất sớm ở phù Nam đã xuất hiện một cảng thị đó là óC Eo. ở đây ghi nhận quá trình tiếp xúc khá sớm giữa nhà nước phù Nam với các nước khác. Trong các hiện vật đào được ở óc Eo có các hiện vật của các vương triều ấn Độ, Trung á, Đông Hán và Bắc Nguỵ … Người ấn Độ mang đến đây kỹ thuật làm thuyền đi biển phát triển ngành thương nghiệp và cả kỹ thuật nông nghiệp khô với chiếc cày do bò kéo mà ngày nay người Châu Ro vẫn còn bảo lưu với cái tên Lơngal. Cùng với sự lớn mạnh của Vương quốc Chăm pa, ngày càng có nhiều các thị cảng ra đời dọc bờ biển Nam Trung Bộ đánh dấu sự phát triển và vai trò của Chămpa trong hệ thống buôn bán ở biển Nam Trung Quốc. Nhiều mối quan hệ với nhiều màu sắc khác nhau đã từng đến và đi trên vùng biển này. Quan hệ kinh tế theo những tuyến đường thương mại, quan hệ chính trị bang giao ngược xuôi với những đoàn triều cống, rồi chiến tranh và xung đột quân sự… Đi theo sau tất cả những quan hệ đó, nhưng lại có sức lan toả mạnh mẽ hơn, rộng hơn, nhanh hơn là giao lưu văn hóa và tương tác văn hóa khu vực. Có thể thấy dấu ấn của sự giao lưu này còn để lại một cách sâu sắc trong nền nghệ thuật của Vương quốc cổ Chăm pa. Trong bối cảnh giao lưu văn hóa đầu thế kỷ đầu công nguyên, Chămpa đã tiếp nhận tự nhiên và hoà bình nền văn hóa ấn Độ. Sản phẩm của sự giao lưu, tiếp xúc này đã tìm được cho mình chỗ đứng trong lòng xứ sở Chăm, được các thế hệ Chăm trân trọng và giữ gìn cho đến ngày nay. 1.2.4. Cư dân Chămpa Về mặt chủng tộc, người Chăm (cùng với một số dân tộc Tây Nguyên) thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo, là một bộ phận của nhóm loại hình Inđônêxia. Người Inđônêxia cư trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam á cổ đại. Đó là một vùng rộng lớn, phía Bắc tới sông Dương Tử, phía Đông tới vùng quần đảo Philipin, phía Nam tới hải đảo Inđônêxia và phía Tây tới bang Assam của ấn Độ. Chính vì vậy có người còn cho rằng về mặt chủng tộc, người Chăm có lẽ vốn là "những người thuộc dòng dõi quý tộc của ấn Độ, bị thất thế ở chính quốc nên phiêu bạt giang hồ đi tìm đất nước để dung thân [Lê văn siêu 1972: 335 ] ấn Độ từ xa xưa là một trong những trung tấm lớn nhất của thế giới, sánh vai với La Mã, Trung Quốc, nhưng khác với La Mã và Trung Quốc, ấn Độ không xâm lấn ai, không mở rộng lãnh thổ. Trong những hướng ra đi chính người ấn Độ chọn hướng gió mùa, ngả về phương Đông. Gió mùa dẫn dắt họ đi. Miền Bắc ấn có một quá trình phát triển lâu dài và đầy biến động nên có thể có nhóm đi ra ngoài từ sớm tìm đất mới làm ăn sinh sống ( Chămpa, kanboja, kalinga…) Giữa thiên nhiên và con người Chămpa và ấn Độ nếu đi sâu vào tìm hiểu ta thấy dường như ít nhiều có sự tương đồng ứng đối. Nếu như ấn Độ có nhiều núi cao rừng già bí hiểm có bờ biển dài, có Sa mạc nóng cháy. Thì Chămpa thì cũng có Trường Sơn cao vút, biển Đông sâu thẳm đèo cao hiểm trở. Sống trong khung cảnh đó , con người phải một mặt vật lộn với thiên nhiên và mặt khác phải giành giật với các láng giềng xung quanh. Trong quá trình tồn tại của Vương Quốc mình, người Chăm cũng từng nhiều lần cướp bóc các buôn, sóc K'mer ở phía nam đánh lên vùng Tây nguyên của người Thượng và vùng vẫy tiến ra Bắc, lấn chiếm vùng đất phía Nam Đèo Ngang của Giao Châu ( sau này là Đại Việt ) điều này đã được lưu lại ở bia ký Chăm được ghi nhận trong nhiều sách sử như sử nhà Tấn, Thuỷ Kinh Chú, Đại Việt Sử Ký toàn thư… Thế nhưng việc chinh phạt ít nhiều là cần thiết cho tất cả các thủ lĩnh các "Mandala " Đông Nam á, kể cả của K'mer và Đại Việt thời kỳ đầu, để nhằm chứng tỏ uy lực của mình, nhằm phân chia lại các thành viên liên minh và nhằm kiểm soát các con đường buôn bán. Chính cuộc sống như vậy đã rèn luyện cho con người Chăm trong lịch sử một tính cách cứng rắn và cương nghị, thượng võ. Đó cũng chính là một phần nét riêng tạo nên phong cách đất nước và con người Chămpa Chương 2 Văn hoá ấn độ và dân tộc chăm 2.1. Những con đường đưa văn hoá ấn độ đến với xứ sở Chăm pa Tấm bia ký của vua Chămpa tên là PrakasadharmaVikrantavácman I (nửa đầu thế kỷ VII ) tìm thấy ở Mỹ Sơn ( tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng ) có ghi lại huyền thoại về một người ấn Độ tên là Kaurdinya đến lập quốc tại Chămpa. Huyền thoại kể rằng, Kaurdinya, " một người Bàlamôn vĩ đại" nhận được cây giáo do ácvathanan, con trai của Đrona tặng.. Ngài phóng cây giáo xuống đất chỉ nơi ngài xây đế đô lương lai. Ngài lấy nữ chúa của đất nước đó và sáng lập ra một vương triều. Nữ chúa tên là Sôma và là con gái của vua Rắn Naga. Rồi thì các vua chúa Chămpa thuộc vương triều Indra pra ( giữa thế kỷIX - cuối thế kỷ X) coi mình là hậu duệ của Bhrigu - một nhà vật trong sử thi Mahabharata của ấn Độ , tổ tiên của dòng họ Bhagava. Tất nhiên hai tài liệu trên mang tính huyền thoại nhiều hơn lịch sử thế nhưng một điều chắc chắn là vương quốc Chămpa với cái tên Lâm ấp đã đi vào lịch sử cuối thế kỷ thứ 2 sau công nguyên. Mà Chăm pa - một trong những vương quốc cổ đại ra đời sớm nhất ở Đông Nam á lại là quốc gia ngay từ đầu đã chị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10.doc
Tài liệu liên quan