Đề tài Cơ sở khoa học để phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hóa nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006-2010

“Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước". Với vị trí quan trọng như vậy, Hà Nội có nhiều thuận lợi, nhưng cũng có nhiều thách thức trong phát triển kinh tế, văn hoá xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng. Một trong những nhiệm vụ luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đó là “Phát triển nông nghiệp và kinh tế ngoại thành theo hướng nông nghiệp đô thị - sinh thái, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn; ưu tiên phát triển nông nghiệp sạch, các nghề, làng nghề truyền thống, làng nông nghiệp du lịch sinh thái”. Trong giai đoạn 2001 - 2005, nhiệm vụ này đã được quán triệt trong Đại hội lần thứ 13 của Đảng bộ thành phố, và đã được cụ thể hoá trong chương trình 12 của Thành uỷ Hà Nội. Nhiều nội dung của nhiệm vụ đã đi vào cuộc sống. Dù sao đây cũng là vấn đề mới cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, vì điểm xuất phát của nó từ một quốc gia đang phát triển, còn có nhiều khó khăn khi thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Vấn đề đặt ra là xác định mục tiêu, chặng đường, bước đi, các giải pháp, làm thế nào đạt được mục tiêu trong thời gian ngắn và hiệu quả cao. Để phục vụ cho chủ trương phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006 - 2010, việc nghiên cứu đề tài “Cơ sở khoa học để phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006-2010” có ý nghĩa thực tiễn. Trên cơ sở đó, giúp cho các cơ quan hoạch định đường lối, chính sách làm luận cứ xây dựng chiến lược, mục tiêu, phương hướng phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội.

 

doc78 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 872 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Cơ sở khoa học để phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hóa nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cơ sở khoa học để phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái và hđh nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006-2010 1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài “Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước". Với vị trí quan trọng như vậy, Hà Nội có nhiều thuận lợi, nhưng cũng có nhiều thách thức trong phát triển kinh tế, văn hoá xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng. Một trong những nhiệm vụ luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đó là “Phát triển nông nghiệp và kinh tế ngoại thành theo hướng nông nghiệp đô thị - sinh thái, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn; ưu tiên phát triển nông nghiệp sạch, các nghề, làng nghề truyền thống, làng nông nghiệp du lịch sinh thái”. Trong giai đoạn 2001 - 2005, nhiệm vụ này đã được quán triệt trong Đại hội lần thứ 13 của Đảng bộ thành phố, và đã được cụ thể hoá trong chương trình 12 của Thành uỷ Hà Nội. Nhiều nội dung của nhiệm vụ đã đi vào cuộc sống. Dù sao đây cũng là vấn đề mới cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, vì điểm xuất phát của nó từ một quốc gia đang phát triển, còn có nhiều khó khăn khi thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Vấn đề đặt ra là xác định mục tiêu, chặng đường, bước đi, các giải pháp, làm thế nào đạt được mục tiêu trong thời gian ngắn và hiệu quả cao. Để phục vụ cho chủ trương phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006 - 2010, việc nghiên cứu đề tài “Cơ sở khoa học để phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006-2010” có ý nghĩa thực tiễn. Trên cơ sở đó, giúp cho các cơ quan hoạch định đường lối, chính sách làm luận cứ xây dựng chiến lược, mục tiêu, phương hướng phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội. 2. Mục tiêu 2.1. Đánh giá thực trạng và quá trình đổi mới nông nghiệp nông thôn Hà Nội 20 năm qua. Đặc biệt là từ năm 2001 - 2005 một cách khách quan toàn diện và khoa học, từ đó xác định những mặt được, chưa được, làm rõ nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm. 2.2. Đề xuất được những định hướng, giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn Hà Nội theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn giai đoạn 2006 - 2010. 3. Nội dung chủ yếu Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được chia làm 3 phần. Phần I: Cơ sở lý luận của phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Phần II: Đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn giai đoạn 1986-2005. Phần III. Phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn giai đoạn 2006-2010. 4. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để quán triệt sự logic hóa từ lý luận đến thực tiễn và dự báo sự phát triển trong tương lai. Phương pháp kế thừa: toàn bộ nghiên cứu, số liệu thông tin, tư liệu, các bài viết chuyên đề về các lĩnh vực có liên quan đến đề tài đều được kế thừa trong quá trình nghiên cứu của các chuyên đề và đề tài một cách có khoa học. Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo để thu nhập thêm các thông tin cần thiết từ các ngành, các cơ quan chức năng và người sản xuất. Phương pháp tổng hợp và phân tích kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu nhằm đánh giá một cách khoa học vấn đề thực tiễn phát triển kinh tế xã hội và xây dựng hệ thống chỉ tiêu, tiêu chí cần thiết. Phương pháp dự tính, dự báo phát triển kinh tế xã hội nhằm giúp cho đề tài dự báo các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội nông nghiệp – nông thôn Hà Nội trong giai đoạn 2006-2010 và các giải pháp thực hiện. 5. Những đóng góp của đề tài. 5.1. Hoàn thiện cơ sở khoa học của phát triển nông nghiệp đô thị - sinh thái và hiện đại hoá nông thôn. 5.2. Đánh giá được hiện trạng, rút ra được ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân của phát triển nông nghiệp đô thị - sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn 1986 - 2005 5.3. Xây dựng được phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp đô thị - sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội giai đoạn 2006 - 2010 có luận cứ khoa học. Phần thứ nhất Cơ sở lý luận của nông nghiệp đô thị sinh thái và hiện đại hoá nông thôn 1.1. Nông nghiệp đô thị sinh thái 1.1.1. Khái niệm nông nghiệp sinh thái - Sản xuất nông nghiệp vốn đã mang trong nó bản chất sinh thái, sản xuất nông nghiệp muốn phát triển có hiệu quả và ổn định đương nhiên phải phù hợp với điều kiện đất đai, khí hậu, thời tiết, thuỷ văn, môi trường và quần thể sinh vật tạo nên hệ sinh thái nông nghiệp. Chính sự phù hợp đó làm cho cây trồng vật nuôi phát huy mọi ưu thế và tác động lẫn nhau để tồn tại và phát triển, đó là một nền nông nghiệp sinh thái. Nhiều học giả cũng cho rằng nông nghiệp sinh thái cũng chính là nông nghiệp bền vững, một nền nông nghiệp sinh thái, hay bền vững đều mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Nhưng ngược lại, một nền sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao, chưa chắc đã là một nền nông nghiệp sinh thái và bền vững nếu như nó không có tác động đến bảo vệ môi trường sinh thái. “Nông nghiệp đô thị: nông nghiệp đô thị là một ngành công nghiệp mà sản xuất, chế biến và buôn bán thực phẩm và chất đốt thực hiện trên các vùng đất và mặt nước xen kẽ, rải rác trong các đô thị và vùng ngoại ô” (UNDP). Nông nghiệp đô thị nói một cách đơn giản bao gồm toàn bộ hoạt động sản xuất nông nghiệp từ sản xuất nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp nằm xen kẽ trong đô thị và các vùng ven đô. Khái niệm này có thể gói gọn trong phạm vi lãnh thổ và phi lãnh thổ của một đô thị. Sản xuất nông nghiệp (theo nghĩa rộng bao gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản) diễn ra trong các quận gọi là nông nghiệp nội đô, diễn ra ở ngoại thành thì gọi là nông nghiệp ngoại đô. Điều này dẫn đến đặc điểm sự khác biệt giữa nông nghiệp nội đô, nông nghiệp giáp ranh, nông nghiệp ngoại đô hay ngoại thành. Nông nghiệp đô thị sẽ được phân chia theo các vành đai khác nhau do tính chất và đặc thù của nó. Có thể phân chia theo các khu vực dưới đây: - Nông nghiệp nội đô - Nông nghiệp vùng vành đai nhạy cảm - Nông nghiệp ngoại đô (ngoại thành) Do đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội và môi trường của mỗi vùng khác nhau, cho nên sản xuất nông nghiệp ở mỗi vùng cũng khác nhau, chính điều đó hình thành tính đa dạng của nông nghiệp đô thị. Kế thừa các công trình nghiên cứu của các học giả có thể nêu khái niệm nông nghiệp đô thị sinh thái. Khái niệm nông nghiệp đô thị sinh thái: nông nghiệp đô thị sinh thái là một quá trình sản xuất được bố trí phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng đô thị nhằm khai thác triệt để các tiềm năng với công nghệ sản xuất sạch tạo ra sản phẩm chất lượng cao, an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng môi trường, cảnh quan tạo ra hệ sinh thái bền vững. Khái niệm này chỉ ra các nội dung chủ yếu: - Sản xuất nông nghiệp được bố trí và sản xuất phù hợp với điều kiện của mỗi vùng, tạo ra sự tác động hữu cơ, đảm bảo cân bằng sinh thái, đạt hiệu quả sản xuất cao. - Quá trình sản xuất nông nghiệp trên diễn ra ở vùng xen kẽ, hay tập trung các vùng đô thị bao gồm nội đô, giáp ranh và ngoại ô. - Sản xuất nông nghiệp trên tạo ra mối quan hệ hữu cơ trong ngành và đảm bảo sự cân bằng sinh thái, tính hiệu quả và bền vững. Đồng thời tác động tích cực đến cải tạo môi trường sinh thái của vùng đô thị. - Sản xuất nông nghiệp tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo an toàn tthực phẩm, giữ gìn sức khoẻ và nhu cầu cho người tiêu dùng. 1.1.2. Những đặc điểm của nông nghiệp đô thị sinh thái Phát triển nông nghiệp ven đô với mục đích đầu tiên đó là phát triển nông thôn ven đô chứ không phải là để thoả mãn nhu cầu của đô thị. Bởi thế, cần phải hiểu đặc trưng của nông thôn ven đô, trước khi hiểu nông nghiệp đô thị sinh thái. Nông thôn ven đô thường có các đặc điểm sau: 1.1.2.1- Có sự gia tăng mạnh về dân số, đặc biệt là sự gia tăng cơ học. Dân số ven đô luôn được bổ xung bởi sự di cư từ nội thành ra và từ các nơi khác đến. Kết quả là tồn tại một xã hội nông thôn ven đô đa dạng cả về dân số và nghề nghiệp… Rất nhiều người sống ở nông thôn ven đô bị tách biệt giữa nơi ở và nơi làm việc, các hoạt động phi nông nghiệp cạnh tranh về lao động khá lớn với nông nghiệp và nó thu hút đặc biệt là lực lượng lao động trẻ. Cơ sở hạ tầng nông thôn khá tốt, nhưng đôi khi không gian nông thôn bị chia cắt, gây khó khăn cho sinh hoạt và lao động của người dân. 1.1.2.2- Tình trạng sản xuất nông nghiệp không ổn định do ngày càng có sự mở rộng các vành đai đô thị ra bên ngoài. Tốc độ đô thị hoá, khả năng quy hoạch đô thị, chính sách và khả năng kiểm soát sự phát triển đô thị ảnh hưởng mạnh đến tính ổn định của nông nghiệp ven đô. Đất đai nông nghiệp có xu thế giảm mạnh. Nông nghiệp ảnh hưởng nhiều của sự ô nhiễm đô thị. Các thành phố càng phát triển càng tồn tại nhiều các hộ nông dân sản xuất quy mô nhỏ, do đất đai ngày một đắt và bị mất đất vì đô thị hoá. 1.1.2.3- Nông nghiệp ven đô có nhiều lợi thế về thị trường. Tận dụng lợi thế gần thành phố, nông nghiệp ven đô thường phát triển sản xuất các sản phẩm tươi sống, rau, sữa, quả… tạo ra nền nông nghiệp khác biệt với đặc điểm thông thường của nó. Đó là nông nghiệp không (hoặc ít) mang tính mùa vụ. Tuy nhiên, sản phẩm đặc sản của một số vùng nhỏ ven đô vẫn có thể tồn tại và phát triển nhờ thị trường tiêu thụ luôn mở rộng. Các sản phẩm đặc biệt khác như hoa, cây cảnh cũng có cơ hội phát triển. 1.1.2.4- Nông nghiệp sinh thái làm cho năng suất thấp hơn: Ngô 10%, đậu 5%…, so với nông nghiệp thường. Trong điều kiện thuận lợi nông nghiệp sinh thái cho năng suất thấp hơn nông nghiệp thường; Nhưng trong điều kiện không thuận lợi nông nghiệp sinh thái cho năng suất cao hơn. Khoảng sau 3-4 năm luân canh, nông nghiệp sinh thái có năng suất tăng lên rõ rệt. 1.1.2.5- Nông nghiệp sinh thái dùng ít năng lượng hơn nông nghiệp nhưng vì năng suất của nông nghiệp sinh thái thấp hơn nên thu nhập thuần giữa hai phương thức gần như nhau. 1.1.2.6- Nhu cầu lao động trong nông nghiệp sinh thái có phần cao hơn so với nông nghiệp thường. Nông nghiệp sinh thái đi đôi với việc giữ gìn đa dạng sinh học.ở các cửa hàng ta thấy có các loài và giống cây trồng hiện nay đã biến mất trên thị trường như các loại ngũ cốc: Kê, ý dĩ; các loại củ như: Từ, môn, củ mài và các loại rau, quả tự nhiên, các loại thịt lợn rừng, gà rừng v.v… Bởi vậy do yêu cầu của thị trường về chất lượng sản phẩm nông nghiệp sinh học, nông nghiệp sinh thái và nông nghiệp công nghệ cao có nhiều cơ hội phát triển. 1.1.3 Nông nghiệp sinh học, hữu cơ, sinh thái 1.1.3.1 Khái niệm: ở các nước nói tiếng pháp thường gọi là nông nghiệp sinh học, ở các nước nói tiếng Anh thường được gọi là nông nghiệp hữu cơ và ở các nước Bắc Âu thường được gọi là nông nghiệp sinh thái. Nông nghiệp sinh học là một nền nông nghiệp dựa trên các nguyên tắc sau: Tôn trọng tuyệt đối các quan hệ và cân bằng tự nhiên giữa đất (môi trường), thực vật (cây trồng) và động vật (chăn nuôi). Cấm sử dụng các hóa chất tổng hợp. Tôn trọng sinh trưởng và phát triển tự nhiên của động vật. Nông nghiệp sinh học là hình thức nông nghiệp sinh thái có quy định nhất, có các tiêu chuẩn xác định một cách pháp lý về sản xuất, chế biến, nhãn hiệu. Trong hệ thống nông nghiệp sinh học, các yếu tố sản xuất sinh vật lý quan hệ với các yếu tố kinh tế xã hội và thể chế. Nông nghiệp sinh học là một chuỗi từ nông trại đến bàn ăn. Các thông số sản xuất và sau sản xuất bao gồm: Đất và nước trong hệ thống cây trồng và vật nuôi bao gồm sử dụng đất, làm đất, đồng cỏ, nông lâm kết hợp, sử dụng nước. Quản lý độ màu mỡ của đất bao gồm sinh lý, sinh thái, quay vòng dinh dưỡng, luân canh, trồng xen, tạo ra và sử dụng lại chất hữu cơ. Sản xuất trồng trọt bao gồm chọn giống, nhân giống, phòng trừ sâu bệnh và cỏ dại. Chăn nuôi bao gồm chiến lược nuôi dưỡng, thú y, bảo quản. Nguồn lợi nông trại bao gồm nguồn năng lượng tái tạo được, lao động và cơ khí. Hệ thống sau thu hoạch bao gồm cất giữ, chế biến, vận chuyển để giảm mất mát và giữ chất lượng. Các cơ sở kinh tế xã hội và thể chế bao gồm: Các khung điều tiết và chính sách hỗ trợ và công cụ trả cho người sản xuất, các cơ sở tiếp thị, phát triển vùng, cung cấp thông tin và khung pháp lý. Tiêu chuẩn và định mức chỉ đạo việc kiểm tra, cấp chứng chỉ, nhãn hiệu và bảo đảm tín nhiệm. Chương trình nghiên cứu, bảo đảm liên hệ với các cơ quan nghiên cứu, thúc đẩy việc tham gia của người sản xuất vào nghiên cứu tại chỗ. Phát triển cộng đồng tổ chức nông dân với các cơ chế tự điều tiết và mạng lưới quốc gia. Cơ cấu thị trường bao gồm đầu ra, cơ hội, lợi thế so sánh, giá cả, nhu cầu, tổ chức, hợp tác xã và hiệp hội, các tổ chức sản xuất - tiêu dùng, mạng lưới buôn bán. Hướng dẫn thị hiếu tiêu dùng liên quan đến quá trình sản xuất và chất lượng sản phẩm. Khả năng chi tiêu của người tiêu dùng để hỗ trợ sản xuất sinh học. Việc chuyển đổi sang nông nghiệp sinh học đòi hỏi thay đổi thành phần của đầu vào. Để thay thế chi phí về phân hóa học và thuốc trừ sâu bệnh cần các chi phí về các đầu vào khác như chất hữu cơ, làm đất, máy móc … Việc thay đổi luân canh làm giảm năng suất, sản lượng và thu nhập, ảnh hưởng an ninh thực phẩm và môi trường tự nhiên. Các thay đổi ấy ảnh hưởng đến các thay đổi về xã hội trong cộng đồng. Các nguyên tắc mà các nông gia sinh học cần nhớ: Độ màu mỡ của đất do chất hữu cơ và chất dinh dưỡng phân hữu cơ cung cấp. Chăn nuôi phải gắn liền với trồng trọt, với luân canh, với thức ăn sản xuất trong nông trại. Phải chuyển đổi tất cả đất hoang hóa thành nơi sản xuất thức ăn để chăn nuôi. Phải bảo vệ đa dạng sinh học bằng cách chọn các loài và giống cây trồng và vật nuôi địa phương để trồng, nuôi và tìm đầu ra cho chúng (VS.GS Đào Thế Tuấn). 1.1.3.2 Việc phổ biến nông nghiệp sinh học trong sản xuất Hiện nay diện tích nông nghiệp sinh học trong sản xuất nông nghiệp còn rất ít. ở các nước cộng đồng châu Âu chỉ chiếm có 2%, ở Hoa Kỳ là 0,1%, Canada là 1,34%. ở một số nước đang phát triển như Trung Quốc, Ai Cập, ấn Độ, … cũng có phát triển. Năm 1991 và 1992 cộng đồng châu Âu có chính sách hỗ trợ nông nghiệp sinh học. Từ năm 1991 nông nghiệp sinh học theo quy trình sản xuất trồng trọt của Cộng đồng châu Âu số 209/91. Về chăn nuôi chưa có quy trình châu Âu nhưng có 11 quy trình quốc gia. Trong 13 năm diện tích nông nghiệp sinh học ở cộng đồng châu Âu tăng 30 lần, từ 100.000 ha năm 1985 lên 2,8 triệu ha năm 1998.Trong 10 năm gần đây tốc độ tăng là 25% năm. Nếu cứ tiếp tục theo tốc độ 15-25% năm thì đến 2005 đạt 5-10%, năm 2020 đạt 10-30%. Năm 1998 thị trường nông nghiệp sinh học ở Mỹ đạt 4 tỷ USD, tăng 20% hàng năm, ở Cộng đồng châu Âu đạt 5-7 tỷ Euro. Có 113.000 doanh nghiệp và 2,8 triệu ha hay 2,1% diện tích nông nghiệp. ở Trung và Đông Âu trong các năm 90 cũng tăng nhanh, năm 2000 đã đạt 192.000 ha. Những cản trở của việc áp dụng nông nghiệp sinh học là: Năng suất lao động thấp hơn, nông nghiệp thường 22-25%, mà ở các nước tiên tiến thường dùng vốn thay lao động. Thiếu phân hữu cơ, các nông trại ngày càng có xu hướng độc canh nên không phát triển chăn nuôi. Khó khăn trong việc phòng trừ cỏ dại, làm cỏ bằng tay tốn công. Thị trường của nông nghiệp hữu cơ nhỏ, việc trả tiền lương chậm, thiếu tín dụng … Để khắc phục các khó khăn các Chính phủ thường có chính sách hỗ trợ việc chuyển đổi từ nông nghiệp sang nông nghiệp sinh học. 1.1.3.3 Việc kiểm tra và buôn bán sản phẩm nông nghiệp sinh học Các sản phẩm nông nghiệp sinh học có bán ở cửa hàng đặc biệt hay siêu thị thường mang nhãn hiệu có ghi nhãn AB (nông nghiệp sinh học). Có nhiều tổ chức kiểm tra độc lập với người sản xuất được Bộ nông nghiệp uỷ quyền. Các tổ chức này thường xuyên đến kiểm tra các nông trại và phân tích sản phẩm trong phòng thí nghiệm. Đồng thời các tổ chức này dán nhãn hiệu của mình trên hàng hóa. Trên thị trường rau quả nông nghiệp sinh học xuất hiện sớm nhất. Sau đấy đến thịt, hạt cốc, sản phẩm chế biến. Hiện nay đã có hơn 20 quy trình kỹ thuật quy định việc sản xuất thịt, sữa, phomát, trứng, giò chả, bún bánh, bánh ngọt, rượu vang, cà phê, chè, chứa các thức ăn chế biến. Hiện nay cũng đã có hạt giống và cây con để trồng cho nông nghiệp sinh học. Giá của các sản phẩm sinh học thường đắt hơn sản phẩm thường 20-50%, tuỳ loại sản phẩm. Thường sữa, khoai tây, hạt cốc, gạo ít khi đắt hơn 20%, thịt 20-40%, quả 50% vì phải bảo quản. 1.1.4. Chỉ tiêu đánh giá - Tổng giá trị sản xuất/1ha đất nông nghiệp. - Tổng giá trị sản xuất/1ha đất canh tác. - Tốc độ tăng của giá trị sản xuất, thu nhập/1ha canh tác, người lao động - Chất lượng sản phẩm, độ an toàn thực phẩm đối với con người. - Chỉ tiêu chất lượng môi trường nước đất, không khí vùng sản xuất. 1.2. Hiện đại hoá nông thôn 1.2.1. Khái niệm Hiện đại hoá nông thôn là quá trình ứng dụng và đổi mới các công nghệ hiện đại và phương pháp tiên tiến vào các ngành sản xuất, cơ sở hạ tầng và văn hóa xã hội, nhằm tạo ra năng xuất lao động và xây dựng xã hội văn minh. Các ngành kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ ở nông thôn được thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong sản xuất, tạo ra sản phẩm chất lượng cao, năng suất cao. Đặc biệt trong nông nghiệp từ sản xuất nguyên liệu đến bảo quản chế biến đều tiến hành công nghiệp để tạo ra sản phẩm sạch, an toàn thực phẩm chất lượng cao là mục tiêu phấn đấu ở vùng nông thôn. Từ sản xuất phát triển, đi đôi với nó là cơ sở hạ tầng như hệ thống giao thông, điện, cấp nước, thông tin cũng được hiện đai từng bước để đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống. Khi sản xuất đã được công nghiệp, các vấn đề xã hội cũng nhất thiết phải phát triển, có như vậy tạo nên sự cân bằng phát triển, đặc biệt là trí tuệ, trình độ, tác phong làm việc, đầu óc tổ chức để đáp ứng được yêu cầu của quá trình hiện đại hoá. Điều đặc biệt quan tâm là ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và đời sống của con người. Như vậy, công nghiệp hoá là cầu nối đưa một đất nước, hay một vùng kinh tế, nông thôn v.v… đến hiện đại hoá cho nên hai phạm trù này khó tách khỏi nhau công nghiệp hoá - hiện đại hoá. - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiểu theo bản chất của nó, là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sức phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Theo cách hiểu này, chúng ta thấy rõ mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hóa là nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, giữ nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn là một nội dung quan trọng không thể bỏ qua trong quá trình công nghiệp hoá đối với tất cả các nước. Nếu chỉ phát triển công nghiệp ở đô thị mà không công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, thì chính công nghiệp hóa đô thị cũng gặp khó khăn vì thiếu nông sản hàng hóa và thiếu lao động; nông nghiệp và nông thôn chưa công nghiệp hóa thì sẽ không đủ năng lực đáp ứng các nhu cầu trên của đô thị vì sản lượng hàng hóa ít và năng suất lao động thấp. Nhưng nội dung và bước đi của công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn ở các nước và các khu vực trên thế giới không giống nhau. ở các nước Âu, Mỹ, trong quá trình công nghiệp hóa, mô hình phổ biến là ưu tiên phát triển công nghiệp đô thị đi trước. Khi công nghiệp đô thị đủ mạnh mới thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn và đến nay trở thành những nước công, nông nghiệp phát triển phương Tây. Một số nước đang phát triển ở Châu Phi và Châu á, vừa qua đã rập khuôn mô hình của các nước Âu, Mỹ nhưng không thành công. Những nước và lãnh thổ ở khu vực Đông Bắc á bắt đầu là Nhật Bản rồi đến Đài Loan, Hàn Quốc, đi lên công nghiệp hóa bằng con đường khác: Phát triển mạnh công nghiệp đô thị đi đôi với công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn với phạm vi và mức độ thích hợp, ở từng vùng trong thời kỳ công nghiệp hóa và đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Xuất phát từ những điều kiện thực tế của nước ta và vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài, Đảng ta có chủ trương trong thời kỳ đầu đi lên công nghiệp hóa: “đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn”, nghĩa là đồng thời vừa công nghiệp hóa đô thị vừa công nghiệp hóa nông thôn. Cơ sở khoa học và thực tiễn của chủ trương này là ở chỗ nước ta đi lên công nghiệp hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp với trình độ sản xuất thấp kém, sản xuất tự cấp tự túc, khối lượng và tỷ suất nông sản hàng hóa ít, không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu bức thiết của công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn. Mặt khác, nông nghiệp và nông thôn nước ta là khu vực kinh tế có tiềm năng lớn về tài nguyên mà ta có thế mạnh về đất đai và lao động. Công nghiệp hóa tác động vào đất đai thông qua các giải pháp ứng dụng các thành tựu công nghệ sinh học, hóa học, cơ điện, sẽ tạo ra năng suất cao về cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nước, khí hậu nhiệt đới tạo ra sản lượng cao về nông, lâm, ngư nghiệp. Công nghiệp hóa tác động vào đội ngũ lao động đông đảo gần 30 triệu người ở nông thôn, chiếm khoản 70% lao động xã hội, thông qua các giải pháp tổ chức quản lý, cơ chế và chính sách khoa học, công nghệ thích hợp sẽ đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, mở mang các ngành nghề, nâng cao năng suất lao động nông nghiệp. Công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn cuối cùng tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn từ thuần nông sang cơ cấu kinh tế nông, công nghiệp và dịch vụ, góp phần tích cực vào việc phân bổ lại lực lượng lao động nông nghiệp và nông thôn, giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn, nâng cao thu nhập của cư dân nông thôn, cải thiện mức sống ở nông thôn và thúc đẩy việc cải tạo và xây dựng nông thôn mới. Công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn tạo ra điều kiện tăng trưởng khối lượng và chất lượng nông – lâm – thuỷ, hải sản xuất khẩu, thu ngoại tệ phục vụ nhu cầu nhập thiết bị công nghệ cho công nghiệp hóa. Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn nước ta có vị trí hết sức quan trọng vì nó tạo ra tiền đề và cơ sở vững chắc thúc đẩy toàn bộ qúa trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là mũi đột phá quan trọng nhằm giải phóng sức lao động dồi dào và nguồn đất đai rộng lớn ở nông thôn. 1.2.2. Nội dung của hiện đại hoá nông thôn 1.2. 2.1 . Hiện đại hoá các ngành kinh tế Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là kết quả của quá trình phát triển từ một nền sản xuất thủ công trở thành một nền sản xuất với công cụ cơ khí, điện khí, áp dụng các công nghệ tiên tiến, thể hiện sự hiện đại trong sản xuất và tạo ra năng suất cao, giá thành hạ, chất lượng tốt. Đây là sự thay đổi từ lượng sang chất, thay đổi cơ bản của lực lượng sản xuất. Để đạt kết quả đó, loài người trải qua nhiều cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Song song phát triển khoa học kỹ thuật, trình độ trí tuệ của con người cũng phát triển, quan hệ sản xuất cũng thay đổi để phù hợp với sự tiến bộ đó. Thực chất nội dung của CNH - HĐH là như vậy, ở đây cần làm rõ thêm trong lĩnh vực nông thôn. Kinh tế nông thôn dù nông thôn đó ở nơi nào thì sự hoạt động kinh tế cũng thể hiện trên ba lĩnh vực cơ bản công nghiệp - nông nghiệp và dịch vụ. CNH - HĐH các ngành kinh tế đóng vai trò quyết định sự thành bại của sự phát triển. CNH - HĐH tạo ra năng suất lao động cao, sản xuất ra nhiều của cải cho xã hội, làm thay đổi xã hội. Muốn phát triển các ngành kinh tế, công nghiệp phải là ngành có tính quyết định, từ đó thúc đẩy ngành nông nghiệp và dịch vụ phát triển. Bởi vậy, trong khi đánh giá mức độ CNH - HĐH thì không nhất thiết các ngành phải giống nhau, do đặc điểm của từng ngành mà mức độ CNH - HĐH có khác nhau. ở đây đang bàn đến CNH- HĐH nông thôn cho nên vấn đề công nghiệp hoá trong sản xuất nông nghiệp, đây là một trong lĩnh vực công nghiệp hoá gặp nhiều khó khăn. Điểm xuất phát là do đặc thù của sản xuất nông nghiệp, đối tượng là sinh vật, diễn ra trong môi trường lớn, rất khác nhau v.v… cho nên công nghiệp hoá diễn ra thường chậm chạp hơn các ngành công nghiệp và dịch vụ. Phát triển công nghệ cao: Nhờ có phát triển của công nghiệp và các tiến hộ khoa học, ngày nay trong lĩnh vực nông nghiệp trên thế giới đã tiến hành công nghiệp hoá trong tất cả các ngành sản xuất nông nghiệp, từ khâu sản xuất nguyên liệu, đến khâu bảo quản, chế biến và tiêu thụ. Nhiều nước còn ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Nhưng điều khẳng định chắn chắn CNH - HĐH nông thôn là quá trình khá dài và đòi hỏi phải đầu tư lớn. 1.2.2.2 Hiện đại hoá các cơ sở hạ tầng Các ngành kinh tế muốn phát triển thì cơ sở hạ tầng cũng phải phát triển tương ứng, thậm chí có cơ sở hạ tầng còn phải đi trước một bước để thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển : + Đường giao thông + Hệ thống điện + Hệ thống bưu chính, viễn thông + Hệ thống nước + Hệ thống y tế + Hệ thống trường học + Hệ thống công trình văn hoá, phúc lợi 1.2.2.3 - Hiện đại hoá các vấn đề xã hội + Nâng cao trình độ dân trí của người lao động và dân cư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc698.DOC
Tài liệu liên quan