Đề tài Đặc điểm của thị trường lao động ở các nước đang phát triển. Phân tích hiện tượng dư thừa lao động ở Việt Nam dưới góc độ tăng trưởng kinh tế. Các giải pháp để xử lý vấn đề này

Tăng trưởng kinh tế, hay nói chung mọi hoạt động kinh tế thì mục đích cuối cùng cũng là để phục vụ nhu cầu con người. Như vậy, lao động vừa là đầu vào cho quá trình tăng trưởng, vừa là người hưởng thụ những thành quả ấy. Trước đây, lao động chỉ được xem xét với góc độ số lượng, nhưng mô hình kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh tới khía cạnh phi vật chất của lao động gọi là vốn nhân lực, đó là các lao động có kỹ năng sản xuất, lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế. Việc hiểu yếu tố lao động theo hai khía cạnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phân tích lợi thế và vai trò của yếu tố này trong quá trình tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển. Xét trên góc độ tăng trưởng kinh tế thì Việt Nam lại có hiện tượng dư thừa lao động. Tất cả những vấn đề trên chính là lý do tôi chọn đề tài: “ Đặc điểm của thị trường lao động ở các nước đang phát triển. Phân tích hiện tượng dư thừa lao động ở Việt Nam dưới góc độ tăng trưởng kinh tế. Các giải pháp để xử lý vấn đề này.”

 

doc26 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Đặc điểm của thị trường lao động ở các nước đang phát triển. Phân tích hiện tượng dư thừa lao động ở Việt Nam dưới góc độ tăng trưởng kinh tế. Các giải pháp để xử lý vấn đề này, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở bài Tăng trưởng kinh tế, hay nói chung mọi hoạt động kinh tế thì mục đích cuối cùng cũng là để phục vụ nhu cầu con người. Như vậy, lao động vừa là đầu vào cho quá trình tăng trưởng, vừa là người hưởng thụ những thành quả ấy. Trước đây, lao động chỉ được xem xét với góc độ số lượng, nhưng mô hình kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh tới khía cạnh phi vật chất của lao động gọi là vốn nhân lực, đó là các lao động có kỹ năng sản xuất, lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế. Việc hiểu yếu tố lao động theo hai khía cạnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phân tích lợi thế và vai trò của yếu tố này trong quá trình tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển. Xét trên góc độ tăng trưởng kinh tế thì Việt Nam lại có hiện tượng dư thừa lao động. Tất cả những vấn đề trên chính là lý do tôi chọn đề tài: “ Đặc điểm của thị trường lao động ở các nước đang phát triển. Phân tích hiện tượng dư thừa lao động ở Việt Nam dưới góc độ tăng trưởng kinh tế. Các giải pháp để xử lý vấn đề này.” Chương i: Các vấn đề lý luận về lý thuyết: 1.1. Nguồn gốc của tăng trưởng: Khi tìm hiểu nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế, chúng ta thấy có rất nhiều quan điểm khác nhau, được chứng minh bằng các lý thuyết khác nhau. Mỗi lý thuyết đều có những lý lẽ riêng của nó; và trong mỗi lý thuyết đó các nhân tố ảnh hưởng tới quá trinh tăng trưởng kinh tế đều khác nhau. Nhưng chung quy lại hầu hết vẫn là nghiên cứu nguồn gốc của tăng trưởng dựa vào mối quan hệ đầu vào _ đầu ra. Để biểu thị mối quan hệ đầu vào _ đầu ra, các nhà kinh tế học đã quy tụ về hàm sản xuất tổng hợp như sau: Y = F( Xi ), với i = 1;2;…;n Xi: là các yếu tố đầu vào Y: là sản phẩm đầu ra(GDP,GNP) Như vậy các yếu tố đầu vào bao gồm các yếu tố nào?Theo các nhà kinh tế học thì các yếu tố đầu vào cơ bản của nền kinh tế bao gồm: u Vốn sản xuất( K, capital) v Lao động( L, labour) w Đất đai và tài nguyên(R, natural resources) x Công nghệ( T, technology) Từ hàm sản xuất, ta thấy tốc độ tăng trưởng bị tác động bởi vốn sản xuất, lao động, đất đai và tài nguyên, và công nghệ.Đó là các yếu tố tác động trực tiếp tới tốc độ tăng trưởng. Ngoài những yếu tố đầu vào có tác động trực tiếp trên( hay còn gọi là các nhân tố kinh tế), tốc độ tăng trưởng còn bị tác động bởi các yếu tố tác động gián tiếp (hay còn gọi là các nhân tố phi kinh tế): văn hoá xã hội, thể chế chính trị, cơ cấu dân tộc, sự tham gia của cộng đồng. 1.2 Nguồn lao động: Quan niệm về nguồn lao động: Nguồn lao động là 1 bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động, và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Việc quy định cụ thể về độ tuổi lao động là khác nhau ở các nước, thậm chí khác nhau ở các giai đoạn khác nhau ở từng quốc gia. Điều đó tùy thuộc trình độ phát triển nền kinh tế. Đa số các nước quy định cận dưới (tuổi tối thiểu) của độ tuổi lao động là 15 tuổi, còn cận trên (tuổi tối đa) có sự khác nhau (60 tuổi, hoặc 64, 65 tuổi). Trị số tối đa của tuổi lao động là trùng với tuổi về hưu. Ở nước ta, theo quy định của bộ luật lao động (2002), độ tuổi lao động: Đối với nam: 15 tuổi đến 60 tuổi Đối với nữ: 15 tuổi đến 55 tuổi Nguồn lao động được xem xét trên hai mặt đó là số lượng và chất lượng. Như vậy, nguồn lao động về mặt số lượng bao gồm: u dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm. v dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm công việc nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu làm việc và những người thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ hưu trước tuổi quy định). Nguồn lao động xét về mặt chất lượng, cơ bản được đánh giá ở trình độ chuyên môn, tay nghề (trí lực) và sức khỏe (thể lực) của người lao động. Các nhân tố ảnh hưởng số lượng nguồn lao động Số lượng nguồn lao động của mỗi quốc gia trong một thời kì phụ thuộc vào nhiều nhân tố. Có thể phân chia thành 3 nhóm nhân tố sau: Tốc độ tăng dân số và tháp tuổi Quy định về độ tuổi lao động Các điều kiện về thu nhập, điều kiện sống, tập quán. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động Chất lượng nguồn lao động là khả năng lao động của người lao động. Chất lượng lao động chịu ảnh hưởng tổng hợp của nhiều nhân tố. Có thể phân loại ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động theo các điều kiện cấu thành chất lượng nguồn lao động, hoặc kéo theo quá trình, như quá trình tác động trước độ tuổi lao động, trong thời gian của độ tuổi lao động. Có thể phân nhóm nhân tố ảnh hưởng đến một số mặt của chất lượng nguồn lao động như sau Nhóm nhân tố liên quan đến thể chất: di truyền, chất lượng cuộc sống, chăm sóc y tế, môi trường Nhóm nhân tố liên quan đến trình độ nghề nghiệp Chính sách, cơ cấu quản lý kinh tế, xã hội Tập quán, truyền thống, văn hoá Nhóm nhân tố về nhu cầu việc làm của xã hội 1.3. Lực lượng lao động: u Theo quan niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO_ International Labour organization) là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định và thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp. v ở nước ta hiện nay thường sử dụng khái niệm:Lực lượng lao động là bộ phận dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp Lực lượng lao động theo quan niệm như trên là đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế và nó phản ánh khả năng thực tế của cung lao động của xã hội. Trong lực lượng lao động thì những ngươi tham gia hoạt động kinh tế mới là những người đóng góp vào tăng trưởng. 1.4 Tác động của lao động với tăng trưởng qua lý thuyết: Lịch sử loài người đã chứng minh vai trò quyết định của lao động với sự phát triển kinh tế -xã hội. Ngay cả khi khoa học công nghệ đạt được trình độ phát triển cao, chi phối mọi lĩnh vực đời sống, thì cũng không thể thay thế vai trò nguồn lực lao động, nhân tố sáng tạo và sử dụng công nghệ. Lao động chính là nhân tố quyết định việc tổ chức sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác. Khi phân tích các bộ phận cấu thành nguồn lực phát triển kinh tế, hầu hết các quốc gia đều khẳng định các nguồn lực chủ yếu là lao động, tài nguyên, vốn, khoa học, công nghệ. Tuy nhiên, cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng, nguồn lao động chính là nhân tố quyết định việc tái tạo, sử dụng, phát triển các nguồn lực còn lại. Không dựa trên nền tảng phát triển cao của nguồn lao động về thể chất, trình độ văn hoá, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý thì không thể sử dụng các nguồn lực khác, thậm chí là lãng phí, làm cạn kiệt và huỷ hoại chúng. Lao động là một bộ phận của các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất. Chi phí lao động, mức tiền công thể hiện sự cấu thành của nguồn lực lao động trong hàng hoá, dịch vụ. Như vậy, chi phí nguồn lực lao động trở thành nhân tố cấu thành mức tăng trưởng của kinh tế. Hơn nữa, là bộ phận của dân số, nguồn lao động tham gia tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ xã hội, tạo cầu cho nền kinh té. Điểm khác biệt cơ bản giữa nguồn lao động với các nguồn lực khác là vừa tham gia tạo cung, vừa tạo cầu cho nền kinh tế. Bên cạnh nhận thức vai trò của nguồn nhân lực lao động với phát triển kinh tế, cần thấy rõ ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế đối với nguồn lao động. Lượng của cải vật chất do nền kinh tế tạo ra là cơ sở để phát triển nguồn lực lao động. Một quốc gia có năng suất lao động cao, của cải nhiều, ngân sách dồi dào sẽ có những điều kiện về vật chất, tài chính để nâng cao dinh dưỡng, phát triển văn hoá, giáo dục, chăm sóc y tế nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Mặt khác, việc phát triển kinh tế làm xuất hiện ngành nghề mới, công việc mới đòi hỏi nguồn lực lao động phải không ngừng hoàn thiện. Từ khi mới hình thành các học thuyết kinh tế các nhà kinh tế đã nhận thức được vai trò quan trọng của lao động. Bằng chứng là đã có rất nhiều lý thuyết nghiên cứu về vai trò của lao động. Muốn hiểu một cách rõ nhất về sự nhận thức vai trò của lao động với tăng trưởng ta đi xem xét lần lượt các mô hình tìm hiểu nguồn gốc của tăng trưởng 1.4.1. Mô hình cổ điển về tăng trưởng kinh tế: Mô hình coi vốn, lao động, đất đai là ba nhân tố tạo ra tăng trưởng. Đặc trưng cho thời kỳ này là nhà kinh tế học David Ricardo . Mô hình David Ricardo (1772-1823) với luận điểm cơ bản là đất đai sản xuất nông nghiệp (R, Resources) là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Nhưng đất sản xuất lại có giới hạn do đó người sản xuất phải mở rộng diện tích trên đất xấu hơn để sản xuất, lợi nhuận của chủ đất thu được ngày càng giảm dẫn đến chí phí sản xuất lương thực, thực phẩm cao, giá bán hàng hóa nông phẩm tăng, tiền lương danh nghĩa tăng và lợi nhuận của nhà tư bản công nghiệp giảm. Mà lợi nhuận là nguồn tích lũy để mở rộng đầu tư dẫn đến tăng trưởng. Như vậy, do giới hạn đất nông nghiệp dẫn đến xu hướng giảm lợi nhuận của cả người sản xuất nông nghiệp và công nghiệp và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Nhưng thực tế mức tăng trưởng ngày càng tăng cho thấy mô hình này không giải thích được nguồn gốc của tăng trưởng. Tuy mô hình không giải thích được nguồn gốc của tăng trưởng nhưng mô hình cũng đã nêu ra được mối quan hệ giữa vốn và lao động tong quá trình tăng trưởng kinh tế Y = F( K,L ) O K L ở đây vốn và lao động luôn kết hợp với nhau theo 1 tỷ lệ nhất định. Vốn và lao động không thể thay thế cho nhau được. Khi vốn và lao động cùng tăng thì sẽ tạo ra tăng trưởng. Như vậy, trong mô hình này tuy lao động chưa được đề cao vao trò nhưng lao động là một đầu vào thiết yếu tạo nên tăng trưởng 1.4.2. Mô hình của Mác về tăng trưởng kinh tế: Trong mô hình các yếu tố tăng trưởng bao gồm: vốn, lao động, đất đai và tiến bộ kỹ thuật.Như vậy, so với mô hình cổ điển, mô hình của Mác đã tiến bộ hơn. Mác đã biết đánh giá đến vai trò của tiến bộ khoa học công nghệ. Mác coi lao động là nhân tố quan trọng nhất tạo nên tăng trưởng. Mác quan niệm sức lao động là hàng hóa đặc biệt: trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một giá trị lớn hơn, đó chính là giá trị thặng dư. Theo Mác sức lao động đối với nhà tư bản là một hàng hóa đặc biệt. Cũng như hàng hóa khác, nó được các nhà tư bản mua trên thị trường và tiêu thụ trong qúa trình sản xuất. Nhưng trong quá trình tiêu thụ, giá trị sử dụng của hàng hóa lao động không giống với giá trị sử dụng của các hàng hóa khác. Nó có thể tạo ra giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó, giá trị đó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư. Trong xã hội TBCN do thường xuyên có đội hậu bị quân công nghiệp nên tiền công của công nhân luôn ở mức tối thiểu, đủ sống. Mác đưa ra quan hệ tỷ lệ m/V phản ánh sự lao động của công nhân: một phần làm việc cho bản thân (V), một phần sáng tạo ra cho nhà tư bản và địa chủ (m). Như vậy, Mác mới chỉ coi lao động là đầu vào, ông chưa phát hiện đầy đủ vai trò của lao động. Mác đã có công đưa ra kết luận rằng lao động tạo ra thặng dư cho nhà tư bản. Và chính phần thặng dư này mới tạo nên tăng trưởng cho nền kinh tế . Như vậy, từ mô hình cổ điển, đến mô hình của Mác đều coi lao động là một yếu tố của tăng trưởng kinh tế 1.4.3. Mô hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế: Mô hình nêu lên có bốn yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế: vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên, và khoa học kỹ thuật. Trong thời kỳ này các nhà kinh tế đưa ra hàm sản xuất như sau: Y = F( K,L,R,T) Các yếu tố đầu vào có thể thay thế cho nhau, sự kết hợp giữa K và L nói lên lựa chọn công nghệ. Sử dụng nhiều L thì công nghệ thấp, sử dụng nhiều K thì công nghệ tiên tiến. K và L có thể thay thế nhau. — Hàm sản xuất Cobb _ Douglass: Hàm Cobb-Douglass có dạng: (1) Trong đó: 0< a < 1. Với giả thiết 0 < a hàm Cobb-Douglass coi giá trị sản xuất tỷ lệ thuận với lao động và vốn. Hàm đã giải thích được nguồn gốc của tăng trưởng, xem xét mối quan hệ đầu ra đầu vào với mức độ đóng góp của các yếu tố đầu vào. Như vậy bằng mô hình này đã lượng hóa được sự đóng góp của yếu tố lao động vào quá trình tăng trưởng kinh tế. Mô hình này cũng là mô hinh nói rõ nhất, cụ thể nhất sự đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng kinh tế Ngoài các mô hình trên, còn mô hình của KEYNES về tăng trưởng kinh tế cũng đều khẳng định vai trò quan trọng của lao động đối với qua trình tăng trưởng kinh tế. Chương ii: đặc điểm thị trường lao động ở các nước đang phát triển. Phân tích hiện tượng dư thừa lao động ở việt nam dưới góc độ tăng trưởng kinh tế 2.1 Đặc điểm thị trường lao động ở các nước đang phát triển 2.1.1 Số lượng lao động tăng nhanh Có sự khác biệt chủ yếu giữa sự thách thức phát triển mà các nước đang phát triển gặp phải so với các nước phát triển là sự gia tăng chưa từng thấy của lực lượng lao động. ở hầu hết các nước, trung bình mỗi năm số người tìm việc làm tăng từ 2% trở lên. Sự gia tăng nguồn lao động liên quan chặt chẽ với việc gia tăng dân số. Dự báo ở nước ta mỗi năm bình quân tăng thêm hơn một triệu lao động dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm. 2.1.2 Phần lớn lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất về lao động ở các nước đang phát triển là đa số lao động làm nông nghiệp. ở Việt Nam lao động nông nghiệp chiếm hơn 70% tông số lao động . Loại hình công việc này mang tính phổ biến ở những nước nghèo. Xu hướng chung là lao động trong nông nghiệp giảm dần trong khi lao động trong công nghiệp và dịch vụ lại tăng. Mức độ chuyển dịch này tuỳ theo mức độ phát triển của nền kinh tế 2.1.3. Còn bộ phận lớn lao động chưa được sử dụng. Như trên đã phân tích, việc đánh giá tình trạng chưa sử dụng hết lao động phải được xem xét qua các hình thức biểu hiện của thất nghiệp-thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình. Do sức ép về dân số và những khó khăn về kinh tế ở các nước đang phát triến đã tác động lớn tới vấn đề công ăn việc làm ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn. Tình trạng lao động thất nghiệp, thiếu việc làm có xu hướng gia tăng đặc biệt ở khu vực thành thị. ở nước ta, năm 2008, chỉ tính riêng khu vực thành thị thì tỷ lệ thất nghiệp là 4,65%. Còn ở nông thôn, tỷ lệ thiếu việc làm khoảng 6,10%. Thực tế đó cho thấy, vấn đề giải quyết việc làm đang là áp lực nặng nề đối với các nươc đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. 2.1.4 Nhân sự lúc thừa lúc thiếu Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cuối năm 2008 đã tác động lớn và trực tiếp đến vấn đề lao động việc làm và kéo dài sang những tháng đầu năm 2009 mặc dù được hồi phục vào những tháng cuối năm nhưng đến những tháng đầu năm 2010 kinh tế vẫn còn trì trệ. Tại thời điểm này, nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh thừa nhân công và doanh nghiệp tìm nhiều cách để cắt giảm lao động đến mức tối đa. Khi kinh tế phục hồi các doanh nghiệp ồ ạt tuyển lao động trở lại. Tuy nhiên việc tuyển lao động không hề đơn giản, thậm chí khó khăn, tuy nhiên lại có rất nhiều lao động không có việc làm bởi vì những lao động này chưa thực sự đáp ứng với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. 2.1.5 Vẫn khát lao động phổ thông Lao động phổ thông là đối tượng cần tuyển nhiều nhất trên thị trường lao động năm 2009. Đây là đội ngũ lao động chủ yếu trong các DN sản xuất hàng công nghiệp theo dây chuyển. Dù không yêu cầu về trình độ tay nghề, nhưng việc tuyển lao động phổ thông lại rất khó khăn. Có rất nhiều nguyên nhân tựu trung lại một số nguyên nhân như: với người lao động, mức lương chưa đáp ứng được nhu cầu, họ chưa quen với môi trường làm việc công nghiệp có tính kỷ luật cao,chưa tự tin trong khi đi tìm việc hoặc thiếu thông tin về tuyển dụng. Về phía doanh nghiệp họ chưa hài lòng về thái độ làm việc và tính kỷ luật lao động, trình độ tay nghề của lao động phổ thông ở một số người chưa đáp ứng yêu cầu… Trong năm qua các doanh nghiệp may mặc, cơ khí, lắp ráp… luôn trong tình trạng thiếu lao động phổ thông nhiều nhất 2.2. Hiện tượng dư thừa lao động ở việt nam dưới góc độ tăng trưởng kinh tế. 2.2.1 Thực trang nguồn lao động Việt Nam 2.2.1.1 Số lượng lao động Việt Nam là một nước có tổng số dân số thuộc loại cao trên thế giới. Trong những năm vừa qua, chúng ta đã cố gắng giảm tốc độ tăng dân số tự nhiên và đã đạt được những thành công đáng kể. Tuy nhiên với tình hình dân số đông như vậy vẫn là một áp lực lớn cho toàn xã hội. Ta hãy xét bảng sau để đánh giá tình hình dân số cũng như lực lượng lao động của Việt Nam: Bảng 1:Dân số việt Nam 1/4 năm 1999-2010 Đơn vị : Nghìn người Nhóm tuổi 1999 2004 2010 0 - 9 16592,5 15780,5 15320,0 10 - 14 8853,3 8270,1 8112,5 Dân số trong tuổi lao động 44470,2 50656,3 55606,0 60-64 1704,9 1678,3 1868,1 65- 4168,0 4537,2 4752,7 Dân số cả nước 76787,1 82004,2 87218,1 Tỷ lệ % so với dân số 57,91 61,77 63,76 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Như vậy, nhìn vào bảng trên ta có thể thấy giai đoạn 2001-2005 , hay cụ thể hơn vào năm 2004, dân số nước ta là 82004,5 nghìn người, trong đó dân số ở độ tuổi lao động là 50656,3 nghìn người, chiếm 61,77% so với dân số. Đây là một áp lực lớn cho xã hội trong việc giải quyết việc làm. Bước sang năm 2005, theo bảng trên sẽ có khoảng 8853,3 nghìn người bước vào độ tuổi lao động và đây là con số đủ khả năng cung cấp nhu cầu lao động của xã hội. Nhìn vào bảng trên ta cũng thấy dân số trong độ tuổi lao động liên tục tăng qua các năm . Cụ thể , năm 1999 chiếm 57,91% và năm 2004 sẽ chiếm khoảng 61,77%. Con số này cho chúng ta biết tỷ lệ tăng trưởng dân số tuy đã hạ xuống nhưng vẫn ở mức cao, áp lực công việc nặng nề, nếu không có những phương pháp giải quyết thích hợp sẽ dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp cao. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao cũng cho chúng ta thấy một khả năng dồi dào về lao động, có đủ khả năng giải quyết mọi công việc.Tuy nhiên, Bộ Lao động cũng nêu ra thực trạng hiện nay của thị trường lao động trong nước là lao động phân bố không đồng đều, bất hợp lý, lực lượng lao động tập trung phần lớn ở nông thôn, chiếm 73.5% lực lượng lao động trong cả nước. Trong số lao động có việc làm thì 70% việc làm không ổn định, dễ bị tổn thương, dễ rơi vào hoàn cảnh nghèo đói 2.2.1.2 Thực trạng chất lượng của lực lượng lao động Thứ nhất, tuy tỷ lệ biết chữ của nước ta cao so với một số nước nhưng trình độ văn hoá vẫn thuộc loại ,do đó cơ hội tìm việc làm là rất khó khăn. Thứ hai, vẫn tồn tại một cách quá cao tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao động kỹ thuật. Thực hiện CNH, HĐH là chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động cùng với công nghệ cao, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao dộng xã hội cao. Thực chất đây là quá trình chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Bước chuyển này sẽ vô cùng khó khăn nếu không đi trước một bước trong việc chuẩn bị lực lượng lao động (LLLĐ) có trình độ học vấn, tay nghề cao, có cơ cấu hợp lý và đồng bộ. Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH song tỷ lệ lao động giản đơn còn quá cao(88%), cơ cấu nguồn lao động còn quá lạc hậu so với nhiều nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển thể hiện ở tháp sau: Hình 1: Tháp lao động của Việt Nam Hình 2: Tháp lao động của các nước công nghiệp 0,3%% 2,7% 33,5% 5,5% 88% 0,5%5 5% 24,5% 35% 35% Các nhà khoa học Kỹ sư Chuyên viên kỹ thuật Lao động lành nghề Lao động không lành nghề Hình 1 Hình 2 Nhìn vào hai hình trên cho thấy trình độ nguồn lao động nước ta chủ yếu là LLLĐ không lành nghề. Trong khi LLLĐ lành nghề ở các nước công nghiệp chiếm tới 35% trong tổng số LLLĐ xã hội thì nước ta chỉ có 5,5%. LLLĐ có trình độ chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư, và các nhà khoa học của họ chiếm tới 30% còn nước ta mới có 6,5%. Chúng ta đang rất thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật. Trong một số ngành kinh tế quan trọng cần nhiều lao động kỹ thuật nhưng hiện có rất ít. Chẳng hạn, ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng1,6%, ngành nông lâm ngư nghiệp 7%(hiện nay LLLĐ của ngành này chiếm tới 3/4 tổng lao động xã hội). Vùng đồng bằng sông Cửu Long - một trong những vùng sản xuất lương thực lớn nhất - nhưng LLLĐ đã qua đào tạo chỉ đạt 3,68%, trong đó công nhân kỹ thuật có bằng 0,6%, trung cấp 1,55% và đại học 0,74%. Một số khu chế xuất, khu công nghiệp cần tuyển lao động có kỹ thuật thì lao động của nước ta chỉ đáp ững được rất ít.Tại Đồng Nai hàng năm địa phương này thiếu hụt 20.000 lao động ( 5.000 lao động đã qua đào tạo và 15.000 lao động phổ thông). Trong khi đó, ở TP Hồ Chí Minh từ đầu năm đến nay có trên 23.000 lao động mất việc làm, nhưng nhu cầu tuyển dụng lên đến trên 61.000 người. Cái thiếu của ta là lao động kỹ thuật trong khi lại dư thừa lao động phổ thông. Bởi vậy, cơ cấu nguồn lao động không đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước, chưa nói đến yêu cầu tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thứ ba, chất lượng lao động bị đánh giá còn quá thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển,chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Có đến 62.25% lao động không qua đào tạo; 78% thanh niên trong độ tuổi 20-24 khi tham gia vào thị trường lao động chưa được đào tạo nghề hoặc có đào tạo nhưng vẫn bị hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp. Chất lượng lao động thấp dẫn đến nguồn cung lao động không đáp ứng nhu cầu. ở nhóm lao động có trình độ chuyên môn bậc đại học, chỉ khoản 30%- 40% sinh viên tốt nghiệp đại học có việc làm ngay, trong khi 60%-70% phải đào tạo bổ sung kiến thức, kỹ năng.Đáng nói là trong lúc lao động xã hội dư thừa, thậm chí lao động mất việc làm diễn ra thường xuyên thì 50% doanh nghiệp thừa nhận thường xuyên thiếu hụt và gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động Thứ tư, LLLĐ là chủ yếu trong cơ cấu lao động trong ngành. Sự nghiệp CNH đã được tiến hành vài thập kỷ song cho đến nay nền kinh tế nước ta vẫn còn mang nặng dấu ấn một nền kinh tế thuần nông, thể hiện rõ trong cơ cấu nguồn lao động theo ngành.. Năm 1998, cơ cấu lao động theo ngành đã có những chuyển biến tích cực, nhưng so với yêu cầu còn rất chậm: lao động nông nghiệp giảm còn 66% và lao động công nghiệp, dịch vụ tăng lên 13% và 21%.So với một số nước trong khu vực, cơ cấu LLLĐ của nước ta như vậy là còn rất lạc hậu. Chẳng hạn, trong cùng thời gian đó tỷ trọng lao động nông nghiệp của Mianma giảm xuống còn 51,8%, Malayxia còn 14,8%, Indonexia còn 39,2%, Phillipin 37,2%, Thái Lan 49,2%. Thứ năm , chuyển dịch cơ cáu lao động diễn ra rất chậm theo nghành kinh tế, bên cạnh đó thiếu cân đối trong cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ. Nhìn tổng thể thị trường lao động Việt Nam vẫn là một thị trường thừa lao động và phát triển không đồng đều, mất cân đối cung- cầu lao động nghiêm trọng giữa các vùng miền, khu vực, ngành kinh tế.Nguyên nhân được chỉ rõ: Đó là quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, đô thị chưa đồng bộ; chưa tính đến phát triển nguồn nhân lực của từng vùng, miền, địa phương. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá kéo theo hiện tượng đô thị hoá không tập trung, không đồng đều, không đồng bộ đã gây nên sự chênh lệch của các địa phương. Điển hình là nhiều tỉnh, thành tập trung quá nhiều KCX-KCN lại là nơi dân số ít, nguồn lao động không nhiều, phụ thuộc vào lao động nhập cư. Ngược lại, nhiều địa phương tập trung thu hút đầu tư để phát triển kinh tể nhưng không tính toán đến cung- cầu lao động cũng như hạ tầng cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu chuyển dịch lao động 2.2.2 Những nguyên nhân Thứ nhất, do có sự suy giảm đáng kể đào tạo nghề (ĐTN) dài hạn, mất cân đối với đào tạo nghề ngắn hạn. Điều này có nguồn gốc từ những nỗ lực chưa đủ mức của chính ngành giáo dục và đào tạo. Thứ hai, do quy mô đào tạo ở các trường trung học, dạy nghề quá nhỏ, trên 50% các trường có quy mô đào tạo dưới 500 học sinh/năm. Quy mô nhỏ là lý do chính làm cho chi phí đào tạo trên một đơn vị đào tạo cao. Trước sức ép của nhu cầu đào tạo thực tế, nhiều trường rơi vào tình trạng quá tải. Thứ ba, từ lâu nay, chúng ta hầu như đào tạo rất ít cho đào tạo nghề. Trường sở và nơi ăn, ở của học sinh dột nát nhiều, số lượng người học giảm một nửa. Trang thiết bị dạy nghề lạc hậu cũ kỹ, nhiều trường hoàn toàn dùng thiết bị của 50 năm trở về trước. Thứ tư, về quản lý thì hầu như phân tán và buông lỏng. Sau ngày sáp nhập Tổng cục dạy nghề và Bộ Giáo dục và đào tạo, các cơ sở dạy nghề phải tự túc về nội dung, chương trình và phương tiện đào tạo, phải chạy lo tìm đủ môn sinh, hàng loạt trường phải chấp nhận tuyển gần như 100% người nộp đơn dự tuyển. Do đó chất lượng đào tạo kém. Trong khi đó thì hệ đại học dưới dạng khẩu hiệu “đa dạng hoá ngành, cấp học và hình thức học”, cùng với cách đào tạo theo kiều “mì ăn liền” của cá nhân và tổ chức khắp nơi nhảy ra kinh doanh lĩnh vực đào tạo làm cho các trường ĐTN vắng lạnh một cách dễ sợ. Cái buông lỏng nữa là Nhà nước không có quy định bắt buộcvề nội dung đào tạo, chương trình và thời gian đào tạo và kiểm tra việc thực hiện, kể cả với một số trường đã từng có một thời thực hiện khá nghiên ngặt. Một số người đi học thực chất chỉ là lấy bằng cấp chứ không phải lấy kiến thức. Thứ năm, chất lượng đội ngũ giáo viên còn bất cập. Tình trạng quá tải đã gây thiếu giáo viên cả về tương đối và tuyệt đối. Điều này làm cho không ít nơi giáo viên không có thời gian để nghiên cứu, bổ sung kiến thức thường xuyên và tình trạng “chạy sô” khá phổ biến.Nhưng theo một

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc112311.doc
Tài liệu liên quan