Đề tài Khủng hoảng của các nước và bài học rút ra cho Việt Nam

Có thể nói, Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 xảy ra vừa qua có mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng đối với hệ thống tài chính và kinh tế toàn cầu. Đâu là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế? Hậu quả của cuộc khủng hoảng? Bài học nào rút ra sau cuộc khủng? Đây là những câu hỏi được quan tâm hàng đầu hiện nay bởi tất cả các giới ở Việt Nam, từ những nhà nghiên cứu kinh tế, những nguời làm chính sách, cho tới hầu hết các cá nhân tham gia vào nền kinh tế.

Với đề tài Khủng hoảng của các nước và bài học rút ra cho Việt Nam nhóm 3 đi vào tìm hiểu Các cuộc khủng hoảng kinh tế (tài chính) của các quốc gia trên thế giới đặc biệt là cuộc Khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 nhằm tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng. Từ đó, cho phép chúng ta rút ra những bài học quý báu nhằm tận dụng được các cơ hội phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế. Vì tính phức tạp của đề tài, bài viết chỉ mong đóng góp thêm phần nào vào nhận thức chung về các vấn đề liên quan

 

doc34 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Khủng hoảng của các nước và bài học rút ra cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Có thể nói, Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 xảy ra vừa qua có mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng đối với hệ thống tài chính và kinh tế toàn cầu. Đâu là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế? Hậu quả của cuộc khủng hoảng? Bài học nào rút ra sau cuộc khủng? Đây là những câu hỏi được quan tâm hàng đầu hiện nay bởi tất cả các giới ở Việt Nam, từ những nhà nghiên cứu kinh tế, những nguời làm chính sách, cho tới hầu hết các cá nhân tham gia vào nền kinh tế. Với đề tài Khủng hoảng của các nước và bài học rút ra cho Việt Nam nhóm 3 đi vào tìm hiểu Các cuộc khủng hoảng kinh tế (tài chính) của các quốc gia trên thế giới đặc biệt là cuộc Khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 nhằm tìm hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng. Từ đó, cho phép chúng ta rút ra những bài học quý báu nhằm tận dụng được các cơ hội phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế. Vì tính phức tạp của đề tài, bài viết chỉ mong đóng góp thêm phần nào vào nhận thức chung về các vấn đề liên quan Phần I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 1.1 Tổng quát: - Khủng hoảng (Crises, depression, crash): Sự sụp đổ nặng nề của nền kinh tế. Người ta dùng từ Đại khủng hoảng (Great Crash) để chỉ sự sụp đổ nền kinh tế toàn cầu năm 1929. Hiện nay, một số người lại dùng từ Great Crash để chỉ cuộc khủng hoảng hiện nay. Nhiều người cho rằng cuộc suy thoái hiện nay bắt đầu từ khu vực tài chính (ngân hàng, bảo hiểm) cho nên gọi là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhưng nếu tình trạng suy thoái xảy ra trong các lĩnh vực sản xuất khác, làm cho thất nghiệp tăng cao, sản lượng công nghiệp, nông nghiệp giảm sút thì cuộc khủng hoảng sẽ được gọi là khủng hoảng kinh tế. - Về khái niệm khủng hoảng tài chính: có thể hiểu theo các cách khác nhau như sau: + Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. + Là cuộc khủng hoảng ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác + Hay- khủng hoảng tài chính, nói một cách đơn giản, là sự mất khả năng thanh khoản của các tập đoàn tài chính, dẫn tới sự sụp đổ và phá sản dây chuyền trong hệ thống tài chính. Một số dấu hiệu của khủng hoảng tài chính là: - Các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền. - Các khách hàng vay vốn, gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng. - Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định. 1.2 Các hình thức của khủng hoảng tài chính * Khủng hoảng ngân hàng Đây là tình trạng diễn ra khi các khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt có thể dẫn tới sự phá sản của ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên không lan rộng, nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên do lo ngại về sự thiếu hụt trong ngân sách. Lúc này, chính các ngân hàng sẽ trở thành nhân tố gây ra khủng hoảng tài chính. * Khủng hoảng trên thị trường tài chính Khủng hoảng trên thị trường tài chính thường xảy ra do hai nguyên nhân chính: do các chính sách của Nhà nước và do sự tồn tại của các “bong bóng” đầu cơ. Yếu tố đầu tiên phải nói đến, đó chính là các chính sách của Nhà nước. Khi nhà nước phát hành tiền nhằm trang trải cho các khoản thâm hụt ngân sách, điều này sẽ gây ảnh hưởng tới tỷ giá cố định. Người dân sẽ mất lòng tin vào bản tệ, và chuyển sang tích trữ bằng các loại ngoại tệ. Khi đó dự trữ ngoại tệ của Nhà nước sẽ cạn dần, Nhà nước buộc phải từ bỏ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng. Thêm vào đó, trên thị trường lại luôn tồn tại những “bong bóng” đầu cơ, ẩn chứa nguy cơ đổ vỡ. Khi hầu hết những người tham gia thị trường đều đổ xô đi mua một loại hàng hóa nào đó trên thị trường tài chính (chẳng hạn như cổ phiếu), nhưng không nhằm mục đích đầu tư lâu dài, mà chỉ mua với hi vọng sẽ bán ra với giá cao hơn và thu lợi nhuận, điều này đẩy giá trị của các hàng hóa này lên cao, vượt quá giá trị thực của nó. Tình trạng này xảy ra sẽ kéo theo những nguy cơ đổ vỡ trên thị trường tài chính, do các nhà đầu tư ngắn hạn kiểu trên luôn mua và bán theo xu hướng chung trên thị trường: họ mua vào khi thấy nhiều người cùng mua, tạo những cơn sốt ảo trên thị trường và bán ra khi có nhiều người cùng bán, gây tình trạng rớt giá. * Khủng hoảng tiền tệ Khi một quốc gia có đồng tiền mạnh đột ngột phá giá đồng tiền của mình, gây khủng hoảng tiền tệ. * Khủng hoảng tài chính trong các tập đoàn Kinh tế Các tập đoàn thường vướng vào khủng hoảng tài chính do 2 lý do chủ yếu: do các kế hoạch đầu tư không đúng đắn, không thu hồi được vốn đầu tư, dẫn tới việc không thanh toán được các khoản vay đầu tư và phá sản; và do bị hiệu ứng dây chuyền từ khủng hoảng chung, các doanh nghiệp không thể vay vốn đầu tư, hoặc các dự án đầu tư không thu hồi được vốn do tình trạng khủng hoảng. * Mối liên hệ giữa khủng hoảng ngân hàng, tiền tệ và hậu quả của các cuộc khủng hoảng. Vào những năm 90, các cuộc khủng hoảng tài chính ở những nước đang phát triển được mô tả với nét tiêu biểu là sự sụp đổ của các cơ chế tỷ giá hối đoái cố định và các trung gian tài chính như các ngân hàng. Có lập luận cho rằng các cuộc khủng hoảng này thực chất là khủng hoảng tiền tệ. Lập luận khác lại cho rằng đây là khủng hoảng ngân hàng vì cơ chế tỷ giá cố định không có vai trò nguyên nhân chính. Nhưng suy cho cùng thì khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tẹ có mối quan hệ rất chặt chẽ vì cả 2 liên quan đến việc giữ ổn định giá tài sản và cùng xuất hiện khi cam kết hỗ trợ ổn định giá trị đồng tiền, lạm phát trong nước không còn đáng tin cậy. Một khi sự hỗ trợ của chính phủ mất đi hoặc tạm ngừng thì kế hoạch ổn định tỷ giá sụp đổ, các ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán. Tìm hiểu nguyên nhân của khủng hoảng tiền tệ thì những nghiên cứu đầu tiên chỉ ra rằng chính sự mâu thuẫn trong chính sách của Chính phủ đã từng bước tấn công vào tỷ giá cố định bởi Chính phủ phát hành tiền để trang trải cho thâm hụt ngân sách. Người dân không tin vào bản tệ nên đã chuyển sang tích trữ tài sản ngoại tệ. Dự trữ ngoại hối của Chính phủ cạn dần. Chính phủ buộc phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định và tỷ giá sẽ tăng. Các nhà đầu cơ sẽ tranh nhau mua lượng dự trữ cuối cùng của Chính phủ. Cuộc chuyển giao khổng lồ này được xem là hình phạt cho những chính sách mâu thuẫn, trái ngược của Chính phủ. Mặc dù nguyên nhân trên đúng với nhiều cuộc khủng hoảng trong quá khứ nhưng không đúng với cuộc khủng hoảng gần đây ở Châu Á. Chính phủ các nước này đã giữ được cân bằng chi tiêu ngân sách và không theo đuổi quá mức tăng trưởng tín dụng. Thực ra, một vài mô hình khủng hoảng ở thế hệ thứ ba tập trung vào vai trò đảm bảo của Chính phủ trong việc tăng cường đầu tư chỉ đơn thuần đưa thông điệp của mô hình ở thế hệ thứ nhất vào một bộ những mâu thuẫn chính sách thôi. Thế hệ thứ hai của mô hình khủng hoảng tiền tệ đã nhận được sự quan tâm đáng kể sau cuộc tấn công vào đồng tiền chung châu Âu và đồng Pêso của Mêhicô ở đầu thập kỷ 1990. Mô hình này xuất phát từ cơ sở không có sự mâu thuẫn cơ bản nào về chính sách trước các cuộc khủng hoảng. Cơ sở của mô hình là sự tương tác giữa hành vi của Chính phủ và hành vi của khu vực tư nhân dẫn đến một vài kết quả có thể xảy ra. Về nguyên tắc, nền kinh tế có thể chuyển từ trạng thái cân bằng không chịu sự công kích sang trạng thái chịu sự công kích khi có sự chuyển dịch bất ngờ về kỳ vọng của thị trường. Thường thì nguồn gốc vấn đề là mâu thuẫn cơ bản giữa nhiều mục tiêu của Chính phủ. Ví dụ, Chính phủ muốn giữ ổn định giá cả hoặc ra hiệu cho thị trường về dự định theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt trong tương lai. Chính phủ có thể đạt các mục tiêu này với mức giá cố định. Mặt khác, nó cũng có thể hạn chế các nghĩa vụ trả nợ, giảm tỷ lệ thất nghiệm hay bơm vốn cho hệ thống ngân hàng nếu nó từ bỏ tỷ giá cố định để theo đuổi chính sách tiền tệ mở rộng. Nguyên nhân của khủng hoảng ngân hàng là gì? Gần 20 năm trước, Flôd và Garber đã điều chỉnh mô hình dự báo trước được cuộc tấn công vào tỷ giá hối đoái với trường hợp phá sản ngân hàng ở các nước có nền kinh tế đóng. Hai nhà khoa học đã mô tả tình trạng các ngân hàng chuyển đổi các tài sản nợ danh nghĩa cố định. Các ngân hàng nhất trí trả lãi không kỳ hạn đối với một đơn vị tiền dự trữ tương ứng với một đơn vị đồng bản tệ gửi tại NHTW. Khi không có bảo hiểm tiền gửi, các ngân hàng có thể duy trì kế hoạch ổn định lãi suất chừng nào tài sản của họ đủ trang trải các khoản tiền gửi. Flood và Garber cũng chỉ ra rằng phá sản ngân hàng cũng có thể là kết quả nhìn thấy trước của các chính sách không nhất quán. Chính sách theo đuổi giảm phát của NHTW sẽ phá huỷ các cam kết hoàn trả các khoản tiền gửi của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại phải mua tài sản mới để bù đắp cho những tổn thất gây ra chi phí nắm giữ các tài sản hiện tại vượt quá thu nhập mà nó đem lại. Như vậy, giảm phát làm giảm thu nhập và cuối cùng các NHTM không thể có lãi từ việc duy trì tài sản đảm bảo đầy đủ khả năng thanh khoản thì khủng hoảng ngân hàng xảy ra. Khi khủng hoảng ngân hàng xảy ra ở những nước có nền kinh tế đóng mà không có sự hỗ trợ của NHTW thì khủng hoảng sẽ không làm giảm tài sản quốc tế và trong nước của NHTW mà chỉ tạo ra sự chuyển đổi nguồn lực từ các ngân hàng sang các thành phần tư nhân. Như vậy, khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng tiền tệ giống nhau ở khía cạnh sau cùng cả hai đều làm giảm giá trị đồng tiền và xuất phát từ những chính sách không nhất quán. Tuy nhiên, khủng hoảng ngân hàng xuất phát từ chính sách của NHTW còn khủng hoảng tiền tệ bắt nguồn từ yếu tố chi tiêu Chính phủ. 1.3 Một số trường phái kinh tế về khủng hoảng tài chính Khủng hoảng tài chính được hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến cho nó không thể thực hiện được hai chức năng cơ bản nhất: (1) Ổn định giá trị đồng tiền hoặc các tài sản tài chính như một phương tiện giao dịch , cất trữ tài sản, và (2) là trung gian chuyển vốn tiết kiệm vào những dự án đầu tư có hiệu quả nhất. Hệ quả là nền kinh tế bị đẩy ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc làm, đi kèm với giảm phát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát. Có thể sơ bộ chia ra ba quan điểm chính về khủng hoảng tài chính: Nhóm thứ nhất là những người theo chủ thuyết tiền tệ (Monetarists View), dẫn đầu là Friedman và Schwartz (1963). Họ cho rằng, khủng hoảng tài chính là do sự hoảng loạn của hệ thống ngân hàng (banking panics), gây nên sự co hẹp cung tiền tệ, dẫn đến sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầu tư. Họ bỏ qua những nguyên nhân thực, như sự sụt giảm hiệu quả của nền kinh tế, sự suy sụp của nhiều doanh nghiệp. Vì vậy, theo họ, sự can thiệp của chính phủ là không cần thết, và thậm chí có hại, vì những doanh nghiệp đáng ra phải để cho bị phá sản, lại có thể được cứu vớt, gây nên sự gia tăng quá mức về cung tiền tệ và gây nên lạm phát. Đối lập với nhóm theo chủ thuyết tiền tệ là Keynesian View, dẫn đầu là Kindleberger (1978) và Misky (1972). Họ có quan niệm rộng hơn về khủng hoảng tài chính và tiền tệ, mà nó bao gồm sự sụt giảm của hầu hết giá trị cổ phiếu, sự vỡ nợ của nhiều công ty tài chính và phi tài chính, nạn giảm phát, đi kèm với sự rối loạn của thị trường ngoại hối. Những yếu tố này gây sự sụt giảm mạnh về tổng cầu đầu tư và tiêu dùng, nên cần phải có sự can thiệp của nhà nước. Điều đáng nói là họ không đưa ra một đặc trưng rõ ràng về nguồn gốc của khủng hoảng, để làm tiền đề cho một chính sách kích thích có hiệu quả. Vì vậy, sự can thiệp của chính phủ rất dễ dẫn đến lạm phát và trì trệ, như những người theo chủ thuyết tiền tệ đã lưu ý. Nhóm thứ ba nhấn mạnh tới bản chất rủi ro của hoạt động tài chính, dẫn đầu là Stiglitz và Weiss (1981). Theo họ, hoạt động của hệ thống tài chính, đặc biệt là ngân hàng, chịu rủi ro cao, do ngân hàng đầu tư hay tổ chức cho vay thường không nắm rõ thông tin về khả năng sinh lợi và mức độ rủi ro của dự án đầu tư bằng cá nhân hay tổ chức đi vay; tức là những người chủ dự án. Sự khác biệt này về thông tin (asymmetry of information), hay sự thiếu minh bạch về thông tin các dự án, khiến cho hệ thống tài chính có thể có vấn đề, bởi vì rằng: Ngân hàng có thể muốn ép lãi suất thực, cộng các phí dịch vụ cho vay tăng lên để bù cho rủi ro mất vốn có thể xẩy ra. Nhưng điều này lại khiến cho chỉ có những dự án có độ rủi ro cao nhất mới hy vọng có đủ khả năng sinh lãi đủ cao để trả nợ, nếu may mắn thành công. Ngược lại, nếu đó là dự án của những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với độ rủi ro ít (nhưng cũng chính vì vậy mà mức sinh lãi thấp hơn), thì sẽ khó có thể đi vay được vốn. Vì vậy, khi lãi suất cho vay tăng lên thì: - Sẽ có một tỷ lệ lớn hơn những chủ của các dự án với độ rủi ro cao hơn (như đầu cơ vào bất động sản, chứng khoán thời bong bóng) đi săn lùng vốn vay. Trong khi đó, những doanh nhiệp vừa và nhỏ, với những nhà đầu tư cẩn trọng, sẽ bị loại ra khỏi danh sách các ứng viên. Người ta gọi đây là sự chọn lầm phải điều nguy hại (adverse selection), theo Akerlof (1974). - Với những chủ dự án lớn đã vay được vốn, thì họ có xu hướng làm thay đổi bản chất dự án hay mục đích sử dụng vốn vay, khiến cho dự án mang tính đầu cơ cao hơn (hoặc có vẻ “quan trọng” hơn, để nhà nước không thể để cho bị thất bại). Do vậy, họ có thể giầu lên nhanh chóng, nếu việc đầu cơ thành công; và để mặc cho ngân hàng chịu tích tụ những khoản nợ xấu; hay xã hội phải gánh vác tổn thất qua gánh nặng cứu trợ ngân sách; nếu dự án bị thất bại. Người ta gọi đây là hiểm họa do sự vô trách nhiệm (moral hazard). Chính vì những lý do trên đây, những người theo trường phái kinh tế học thể chế (institutional economics) cho rằng, hoạt động của ngân hàng nói riêng, và hệ thống tài chính nói chung, phải được giám sát hết sức cẩn trọng, nhằm hướng các giao dịch tới sự an toàn (Aoki, 1991; Mc Kinnon, 1991). Ví dụ, với những dự án có độ rủi ro rất cao (nhưng cũng có thể là những cơ hội đầu tư có tiềm năng nhất về hiệu quả, chứ không phải đầu cơ), thì cần phải có những quỹ đầu tư đặc biệt nhằm thẩm định, giám sát, rót vốn ban đầu, và lập cơ chế chia sẻ rủi ro. Chẳng hạn như các quỹ đầu tư mạo hiểm (vetunture capital funds). Theo Stiglitz-Weiss, do rủi ro chọn lầm và hiểm họa của sự vô trách nhiệm (adverse selection and moral hazard), hệ thống các ngân hàng kinh doanh bằng cho vay lấy lãi, phải bị hạn chế, không được phép tham gia vào các lĩnh vực đầu tư có độ rủi ro quá cao này. Ngoài sự phân loại chức năng các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, và các quỹ đầu tư theo mức độ rủi ro của từng lĩnh vực đầu tư, thì còn cần phải có nhiều tổ chức trung gian khác, làm chức năng giám sát và cảnh báo rủi ro 1.4. Sơ lược một số cuộc khủng hoảng tài chính tiêu biểu trong quá khứ: 1.4.1 Đại khủng hoảng năm 1929-1933 Sau chiến tranh thế giới lần 1, Mỹ là nước thu đựoc nhiều lợi nhất. Vào những năm 1920, Mỹ trở thành nhà băng của thế giới, thành nhà sản xuất lương thực, sản xuất đồ dùng cho toàn thế giới nhưng sẽ mua ít nhất có thể những gì mà phần còn lại của thế giới sản xuất ra. Tất nhiên điều này tạo nên trạng thái cán cân thương mại rất có lợi cho Mỹ, những nó không thể tồn tại lâu. Mỹ thiết lập nhiều rào cản thương mại để bảo vệ hoạt động kinh doanh của những doanh nghiệp Mỹ, nhưng vấn đề ở chỗ nếu Mỹ không muốn mua hàng từ đối tác Châu Âu thì những đối tác đó lấy đâu ra tiền để mua hàng từ các đối tác Mỹ. Cho đến khi mà những đối tác Châu Âu thậm chí không còn đáp ứng được lãi suất cho những khoản vay từ nước Mỹ, họ không thể mua hàng nữa, thì hoạt động xuất khẩu của Mỹ sụt 30% và tiếp tục sụt giảm trong thời gian sau đó. Đây là một trong những yếu tố góp phần vào cuộc Đại khủng hoảng. Hoạt động đầu cơ với quy mô lớn cũng hình thành nhiều vào những năm 1920. Chỉ trong năm 1929, đã có một lượng cổ phần kỷ lục là 1,124,800,410 được giao dịch trên sàn NYSE. Từ đầu năm 1928 đến tháng 9 năm 1929, chỉ số công nghiệp Dow Jones tăng từ 191 điểm lên 38139 điểm. Không một nhà đầu tư nào có thể bỏ qua mức lợi nhuận như vậy. Có thể lấy ví dụ về công ty RCA, công ty này có cổ phiếu tăng từ 85 lên 420 chỉ trong năm 1928, mặc dù cổ phiếu này chưa từng trả cổ tức một lần nào. Nguy hiểm hơn, với sự tăng ổn định của giá cổ phiếu, người ta bắt đầu vay để mua chứng khoán. Chẳng hạn nhà đầu tư A có thể có 10 USD và vay 75 USD từ người môi giới của mình. Nếu anh ta bán cổ phiếu khi giá là 420$ ở thời điểm một năm sau, anh ta đã biến từ 10 USD đầu tư ban đầu thành 341.25 USD (420 trừ 75 và 5% lãi suất trả cho người môi giới). Tức là lợi suất lên đến 3400%. Con số này càng thúc đẩy "cơn điên" cổ phiếu. Cho đến giữa năm 1929, tổng lượng cho vay đang lưu hành của những đơn vị môi giới là hơn 7 tỷ USD, ba tháng sau con số này là 8,5 tỷ USD. Lãi suất thanh toán cho các khoản vay này cũng tăng nhanh không kém, đạt mức 20% vào năm 1929. Cơn bùng nổ đầu cơ này hoàn toàn chỉ dựa trên những niềm tin vô căn cứ, và nó trái ngườ với sự sụp đổ khủng khiếp vài tháng sau đó cũng chính ở cơ sở, sụp đổ bắt nguồn từ sự sợ hãi. Giá bắt đầu giảm từ tháng chín, nhưng khi đó nhìn chung nhà đầu tư nói chung vẫn rất lạc quan. Những nhà đầu cơ tiếp tục nhảy vào thị trường. Ngày thứ hai, 21/10/1929, giá bắt đầu giảm nhanh. Khối lượng giao dịch lớn khủng khiếp. Nhà đầu tư vô cùng hoang mang và sợ hãi. Nhận ra rằng giá bẳt đầu"rơi", chứ không còn tính được giảm bao nhiêu, nhiều người lao ra bán. Điều này làm cho sự sụp đổ diễn ra nhanh hơn. Giá có ổn định lại một chút vào ngày thứ ba và thứ tư, nhưng cho đến Ngày thứ Năm Đen Tối, 24/10/1929, mọi thứ đều vỡ tan. Hầu hết những nhà đầu tư lớn đều mất niềm tin vào thị trường. Tất cả nhà đầu tư đều đồng ý ở một điểm - đã hết tăng rồi. Thị trường có hồi phục lại một chút vào thứ Sáu và thứ Bảy khi một nhóm các ngân hàng lớn tham gia tham gia vào với nỗ lực cố gắng chặn lại sự sụp đổ của thị trường. Nhưng vào thứ hai tuần sau, ngày 28, giá tiếp tục giảm 13%. Ngày hôm sau, Thứ Ba Đen Tối, khối lượng lên đến 16,4 triệu cổ phần đã được giao dịch. Cổ phiếu giảm liên tục, thường xuyên không có người mua. Cuộc đại khủng hoảng 1929 bắt đầu từ Mỹ nhưng tác động của nó ảnh hưởng trên toàn thế giới. Những hoạt động kinh tế bắt đầu suy giảm từ mùa hè năm 1929 và đến năm 1933, GDP của Mỹ giảm hơn 25%, xóa đi mọi thành quả kinh tế đạt được của 1/4 thế kỷ trước đó. Sản lượng công nghiệp bị tác động mạnh nhất, giảm đến 50%. Nền kinh tế suy thoái liên tục đến năm 1933 thì bắt đầu cải thiện trong vòng 4 năm cho đến 1937. Sau đó tiếp tục có những giai đoạn điều chỉnh lên xuống nhưng cho đến 1940 mới đạt lại mức sản lượng kinh tế trước suy thoái. Mức thất nghiệp, không có thống kê chính thức, nhưng được chấp nhận chung là ở vào khoảng 25% vào năm 1933 và duy trì trên 14% vào những năm 1940. Tuy nhiên những con số này vẫn chưa phản ảnh hết sự thực bởi số lượng người không nhỏ, quá thất vọng, đã không còn động lực đi kiếm việc và không được tính vào thất nghiệp. Những người này thường về các vùng quê để tự kiếm sống. Hệ thống ngân hàng cũng chứng kiến những con số "hoảng loạn" khi người gửi tiền đua nhau đi rút. Nhiều nhà băng không chịu được sức ép này, một số khác buộc phải sáp nhập, số lượng ngân hàng tại Mỹ giảm 35% trong giai đoạn 1929 đến 1933. Tác động trực tiếp của cuộc đại khủng hoảng có thể chỉ nhằm vào một số vùng và ngành cụ thể, tuy nhiên tác động gián tiếp của nó - suy thoái, giảm sản lượng, thất nghiệp,... là những tác động xuất hiện ở tất cả các khu vực, ngành và lĩnh vực. Những người nông dân cũng phải chấp nhận giá nông sản của họ giảm trung bình còn một nửa. Cuộc khủng hoảng - sụp đổ cả thị trường, kéo theo 12 năm khủng hoảng trên phạm vi toàn thế giới và chỉ kết thúc khi người ta bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2. Cuộc khủng hoảng này được đánh giá là "tai họa tài chính" lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Bản thân sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, dù có quy mô lớn, vẫn rất nhỏ so với hậu quả kế tiếp của một thị trường được mô tả như một "nghĩa địa" và tác động hủy hoại của cuộc khủng hoảng. 1.4.2 Cuộc khủng hoảng tại châu Á: là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Khủng hoảng tiền tệ châu Á. Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng. Điểm đặc biệt của cuộc khủng hoảng này là ở tính lây lan nhanh chóng của nó. Không mất nhiều thời gian từ khi khủng hoảng xảy ra ở Thái Lan vào mùa hè năm 1997 cho tới khi nó nhanh chóng trở thành một hiện tượng lây lan loàn cầu ở các nền kinh tế mới nổi ở Châu Á và cả ở những châu lục khác như Nga và Mỹ Latinh. Tại Thái Lan, khủng hoảng xảy ra khi đồng baht của Thái Lan bị đổ vỡ sau quyết định thả nổi tỷ giá hối đoái của Chính phủ Thái Lan sau một thời gian dài "neo" đồng baht với đồng đôla Mỹ để khuyến khích xuất khẩu (do tỷ giá hối đoái ổn định và có lợi cho các nhà xuất khẩu). Thời gian trước khi xảy ra khủng hoảng, Thái Lan đã vay nợ nước ngoài rất nhiều với nhiều khoản đầu tư thiếu hiệu quả trên thị trường bất động sản và tăng trưởng dựa trên những nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường chứng khoán. Dự đoán trước khả năng kinh tế Thái Lan sụp đổ, các nhà đầu tư ngắn hạn nước ngoài nhanh chóng rút các khoản vốn ra khỏi nước này khiến hệ thống tài chính - tiền tệ của Thái Lan càng nhanh chóng sụp đổ. Đồng baht mất giá nhanh chóng khiến thu nhập từ xuất khẩu giảm mạnh trong khi gánh nặng nợ nước ngoài tăng trầm trọng. Các quốc gia khác trong khu vực cũng chịu ảnh hưởng lây lan khi các nhà đầu tư rút vốn ở các thị trường này, khiến cho thị trường chứng khoán và tỷ hối đoái đều tụt dốc không phanh, ảnh hưởng nặng nề nhất ngoài Thái Lan là Indonesia, Hàn Quốc, và trong chừng mực ít hơn là Malaysia, Hong Kong và Philippines. * Diễn biến chính cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 tại một số nước Châu Á - Thái Lan Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi. Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar. - Philippines Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng. Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá. Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng thống. - Hong Kong Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc110647.doc
Tài liệu liên quan