Đề tài Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Từ khi hoà bình được lập lại năm 1945, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến dần lên chủ nghĩa xã hội với đặc điểm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:" Đặc điểm to nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên Chủ nghĩa Xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản Chủ nghĩa".

Trước đây, trong một thời gian dài, ở nước ta cũng như các nước Xã hội Chủ nghĩa khác đã có những nhận thức không đúng về kinh tế hàng hoá, coi sản xuất hàng hoá là thuộc tính của Chủ nghĩa tư bản, dẫn đến sự kỳ thị với kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường; không chấp nhận nền kinh tế hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới do Đảng đề ra trước hết là đổi mới tư duy kinh tế đã khẳng định rằng quá độ quá độ lên Xã hội Chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không có nghĩa là bỏ qua sản xuất hàng hoá, mà trái lại nằm phát triển hàng hoá nhằm tăng trưởng kinh tế, thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Như vậy, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó các quan hệ kinh tế giữa cá nhân, các doanh nghiệp được thể hiện qua việc mua bán sản phẩm, dịch vụ trên thị trường thông qua giá cả thị trường. Vì vậy em đã chọn đề tài"Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam".

 

doc32 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 883 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Từ khi hoà bình được lập lại năm 1945, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến dần lên chủ nghĩa xã hội với đặc điểm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:" Đặc điểm to nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên Chủ nghĩa Xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản Chủ nghĩa". Trước đây, trong một thời gian dài, ở nước ta cũng như các nước Xã hội Chủ nghĩa khác đã có những nhận thức không đúng về kinh tế hàng hoá, coi sản xuất hàng hoá là thuộc tính của Chủ nghĩa tư bản, dẫn đến sự kỳ thị với kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường; không chấp nhận nền kinh tế hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới do Đảng đề ra trước hết là đổi mới tư duy kinh tế đã khẳng định rằng quá độ quá độ lên Xã hội Chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không có nghĩa là bỏ qua sản xuất hàng hoá, mà trái lại nằm phát triển hàng hoá nhằm tăng trưởng kinh tế, thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Như vậy, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó các quan hệ kinh tế giữa cá nhân, các doanh nghiệp được thể hiện qua việc mua bán sản phẩm, dịch vụ trên thị trường thông qua giá cả thị trường. Vì vậy em đã chọn đề tài"Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam". A. Lý luận chung về quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam Chương I Cơ sở hình thành nền kinh tế thị trường I.Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường 1.Quá trình chuyển kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá là hai hình thức tổ chức kinh tế - xã hội đã tồn tại trong lịch sử. Hai hình thức này được hình thành trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, trình độ phát triển và phạm vi của trao đổi. Trong nền kinh tế tự nhiên, người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. Tự sản xuất tự tiêu dùng là đặc điểm nổi bật của kinh tế tự nhiên. Mục đích của sản xuất là tạo ra những giá trị sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất, vì thế có thể nói quá trình sản xuất của nền kinh tế tự nhiên chỉ gồm hai khâu: sản xuất - tiêu dùng. Các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế tự nhiên đều manh hình thái hiện vật. Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích của sản xuất là trao đổi hay để mua bán. Mục đích đó được xác định trước quá trình sản xuất và có tính khách quan. Sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất đều gắn với thị trường. 1.2. Những tiền đề của quá trình chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá. Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá là quá trình kinh tế khách quan. Nó bắt đầu khi kinh tế tự nhiên phát triển đến trình độ làm xuất hiện những tiền đề của kinh tế hàng hoá. Trong lịch sử, những quan hệ hiện vật, tự nhiên và quan hệ hàng hoá - tiền tệ tồn tại đan xen và mâu thuẫn với nhau. Sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá chính là sự xuất hiện những tiền đề phủ định kinh tế hàng hoá. Mỗi bước phát triển kinh tế hàng hoá là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như vậy, trong quá trình vận động và phát triển, kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên và khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội độc lập. Quá trình xuất hiện, vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá diễn ra với sự tác động mạnh mẽ của những tiền đề sau: - Phân công lao động xã hội - Sự độc lập tương đối về kinh tế giữa nhữmg người sản xuất. - Lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. - Hệ thống thông tin và giao thông vận tải. Phân công lao động xã hội đã tạo ra những ngành, nghề sản xuất khác nhau. Do phân công lao động xã hội cho nên mỗi người chuyên làm một việc trong một ngành với một nghề nhất định và chuyên sản xuất ra một hoặc một số sản phẩm nhất định. Nhưng nhu cầu tiêu dùng của họ lại cần dùng nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu của mình, những người sản xuất phải lương tựa vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau. Phân công lao động xã hội làm nảy sinh những quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất với nhau. Trong điều kiện tư hữu về tư liệu sản xuất, những người sản xuất độc lập với nhau và có lợi ích kinh tế khác nhau. Do có phân công lao động xã hội và sự độc lập tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất, cho nên quan hệ giữa những người sản xuất là quan hệ mâu thuẫn: họ vừa liên hệ, phụ thuộc vào nhau vừa độc lập với nhau. Giải quyết mối quan hệ mâu thuẫn này tất yếu phải có quan hệ trao đổi dựa trên cơ sở giá trị, nghĩa là dựa trên cơ sở trao đổi ngang giá. Khi trao đổi trở thành tập quán và là một mục đích của sản xuất thì sản xuất hàng hoá ra đời . Phân công lao động xã hội phát triển thì quan hệ trao đổi cũng được mở rộng và ngày càng phức tạp. Phân công lao động xã hội làm xuất hiện thủ công nghiệp và tách nó ra khỏi ngành nông nghiệp, làm hình thành xu hướng công nghiệp thành thị dần dần tách khỏi nông nghiệp nông thôn. Phân công lao động xã hội phát triển cũng dần tới sự ra đời của ngành thương nghiệp. Khi thương nghiệp ra đời, quan hệ trao đổi có sắc thái mới. Người sản xuất và người tiêu dùng quan hệ với nhau qua người thứ ba là thương nhân. Việc mở rộng phạm vi xã hội hoá sản xuất đồng thời cũng kéo theo việc chuyên môn hoá ngành nghề. Quan hệ trao đổi được mở rộng và phát triển đòi hỏi hệ thống giao thông vận tải cũng phải mở rộng và phát triển. Đây là điều kiện vật chất làm tăng thêm các phương tiện trao đổi, mở rộng thị trường. Sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống giao thông vận tải có vai trò thúc đẩy sản xuất và lưu thông hành hoá phát triển cao hơn. Điều này dẫn đến sự ra đời của các hoạt động dịch vụ, chế biến… làm cho dân cư chịu sự chi phối của những quy luật phổ biến củn xuất và lưu thông hàng hoá. 2. Bước chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường. 2.1. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế thị trường chính là hình thức phát riển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù thị trường được phát triển và mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao hàm cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hoá là kinh tế thị trường. 2.2. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường ở Việt nam. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt nam, sự tồn tại của sản xuất hàng hoá là một tất yếu khách quan. Bởi vì, trong nền kinh tế nước ta lực lượng sản xuất xã hội còn thấp, đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, sự phân công lao động xã hội gắn với sự tồn tại nhiều chủ thể sở hữu khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập. Trong những điều kiện đó, việc trao đổi sản phẩm giữa các chủ thể sản xuất với nhau không thể thực hiện theo nguyên tắc naò khác là nguyên tắc trao đổi ngang giá, tức là thực hiện sự trao đổi hàng hoá thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hoá. ở nước ta trong thời kỳ quá độ mới phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thì phải xã hội hoá chuyên môn hoá lao động. Qua trình ấy chỉ có thể diễn ra một cách thuận lợi trong một nền kinh tế hàng hoá. Sản xuất càng xã hội hoá, chuyên môn hoá thì càng đòi hỏi phát triển sự hợp tác và trao đổi hoạt động trong xã hội, càng phải thông qua sự trao đổi hàng hoá giữa các đơn vị sản xuất để đảm bảo những nhu cầu cần thiết của các loại hoạt động sản xuất khác. Chỉ có đẩy mạnh sản xuất hàng hoá mới làm cho nền kinh tế nước ta phát triển năng động. Kinh tế tự nhiên, do bản chất của nó, chỉ duy trì tái sản xuất giản đơn. Trong cơ chế kinh tế cũ, vì coi thường quy luật giá trị nên các cơ sở kinh tế cũng thiếu sức sống vì động lực phát triển sản xuất. Sử dụng sản xuất hàng hoá là sử dụng quy luật giá trị, quy luật này buộc mỗi người sản xuất tự chịu trách nhiệm về hàng hoá do mình làm ra. Chính vì thế mà nền kinh tế trở lên sống động. Mỗi người sản xuất đều chịu sức ép buộc phải quan tâm sự tiêu thụ trên thị trường, sao cho sản phẩm của mình được xã hội thừa nhận và cũng từ đó họ mới có được thu nhập. Phát triển sản xuất hàng hoá có thể đào tạo ngày càng nhiều cán bộ quản lý và lao động. Muốn thu được lợi nhuận, họ cần phải vận dụng nhiều biện pháp để quản lý kinh tế, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, hạ giá thành sản phẩm, làm cho sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường, những nhân tài quản lý kinh tế và lao động thành thạo xuất hiện ngày càng nhiều và đó là một dấu hiệu quan trọng của tiến bộ kỹ thuật kinh tế. Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế hàng hoá là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó, chúng ta đã bước đầu khai thác được nhờ tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất trong xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, góp phần quyết định bảo đảm nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trong những năm 1991 - 1995 là 8,3% vượt mức đề ra ( 5,5 - 6% ). 2.3. Những điều kiện hình thnàh kinh tế thị trường. 2.3.1. Sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động. Trước hết cần khẳng định sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động là một tiến bộ lịch sử. Người lao động được tự do, anh ta có quyền làm chủ khả năng lao động của mình và là chủ thể bình thường trong việc thương lượng với người khác. Chủ nghĩa tư bản đã thực hiện được bước tiến bộ lịch sử đó trong khuôn khổ lợi dụng tính chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động để thuyết phục túi tiền của nhà tư bản. Vì vậy đã làm nảy sinh mâu thuẫn giữa nhà tư bản với lao động làm thuê. Trong điều kiện lịch sử mới - thời kỳ quá độ lên CNXH - không phải mọi người có sức lao động đem bán đều là những người vô sản. Do sự chi phối lợi kinh tế của chi phối cơ hội, những người lao động vẫn có thể bán sức lao động của mình cho người khác nếu như họ cảm thấy việc làm này có lợi hơn so với việc tổ chức quá trình sản xuất. Kinh tế thị trường là nền kinh tế phát triển. Nó có năng suất lao động cao. Ngoài những sản phẩm cần thiết còn có những sản phẩm thặng dư. Hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt. Nhờ có sự xuất hiện của hàng hoá lao động và thị trường sức lao động mà tiền tệ không chỉ đơn thuần là phương tiện lưu thông mà còn trở thành phương tiện làm tăng giá trị, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế . 2.3.2. Kinh tế thị trường là kinh tế tiền tệ, cho nên vai trò của tiền tệ vô cùng quan trọng. Để hình thành được nền kinh tế thị trường cần phải có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tương đối phát triển. Không thể có được kinh tế thị trường nếu như hệ thống tài chính, ngân hàng còn quá yếu ớt, hệ thống quan hệ tín dụng còn quá giản đơn không đáp ứng được nhu cầu về vốn cho sản xuất và kinh doanh. 2.3.3. Sự hình thành kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển. Trên cơ sở đó mới đảm bảo lưu thông tiền tệ được thuận lợi dễ dàng, mới tăng được phương tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao đổi. 2.3.4. Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta. Đây là điều kiện có tính then chốt để hình thành nền kinh tế thị trường. Nhà nước đã tạo ra môi trường và hành lang cho thị trường phát triển lành mạnh. Đồng thời nhà nước sử dụng những biện pháp hành chính cần thiết để phát huy những ưu thế và hạn chế nhữmg mặt tiêu cực của thị trường. Nhà nước thực hiện chính sách phân phối và điều tiết theo nguyên tắc kết hợp công bằng xã hội với hiệu quả kinh tế xã hội. Nhà nước còn thực hiện sự điều tiết nhằm xử lý hài hoà quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Với tác động của tất cả các tiền đề trên, nền kinh tế thị trường được xã hội hoá cao, các quan hệ kinh tế mang hình thái phổ biến là quan hệ hàng hoá - tiền tệ và nó được tiền tệ hoá. Các quy luật của kinh tế thị trường được phát huy tác dụng một cách đầy đủ. II. Thị trường - cơ chế thị trường. Đặc điểm của sự phân phối theo lao động trong nền kinh tế thị trường. 1. Thị trường. Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vậy thị trường là gì? Theo nghĩa ban đầu - nghĩa nguyên thủy, thị trường gắn liền với một địa điềm nhất định. Nó là nơi diến ra các quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá. Thị trường có tính không gian và thời gian. Theo nghĩa này, thị trường có thể là hội thợ các địa dư hoặc các khu vực tiêu thụ phân theo các mặt hàng, ngành hàng. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú, thị trường được mở rộng. Thị trường được hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn. Nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. Tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng lưu thông trên thị trường. Nói tới thị trường, trước hết phải nói tới các nhân tố cơ bản cấu thành thị trường đó là hàng và tiền ( H và T ) người mua, người bán. Từ đó hình thành các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, mua - bán, cung - cầu và giá cả hàng hoá. Nói tới thị trường là nói tới tự do kinh doanh, tự do mua bán, thuận mua vừa bán, tự do giao dịch. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng. 2. Cơ chế thị trường Nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường. Sự hoạt động của quy luật giá trị biểu hiện : Giá cả thị trường lên xuống quanh giá thị trường của hàng hoá, nghĩa là sự hình thành giá cả thị trường phải dựa trên cơ sở giá cả thị trường. Ngoài giá trị thị trường, sự hình thành giá cả thị trường còn chịu sự tác động của quan hệ cung - cầu hàng hoá. Tính quy luật của quan hệ giữa giá cả thị trường với giá trị trong sự tác động của quan hệ cung - cầu được biểu hiện: Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ lớn hơn giá trị thị trường. Sự vận động của giá cả thị trường cũng có tác động tới quan hệ cung - cầu hàng hoá. Nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó giảm xuống, nó sẽ kích thích mức cầu, làm cho mức cầu về thị trường hàng hoá này tăng lên. Đồng thời giá cả giảm xuống lại hạn chế mức cung làm cho mức cung giảm xuống. Ngược lại nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó tăng lên, nó sẽ kích thích mức cung, làm cho mức cung tăng lên, vậy có thể nhận biết được quan hệ cung - cầu qua giá cả thị trường. Quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị trường là biểu hiện của quan hệ giữa những người mua và người bán cũng như quan hệ giữa những người sản xuất và những người tiêu dùng. Trên thị trường, người bán luôn muốn bán hàng hoá của mình với giá cao, người mua lại luôn muốn mua hàng với giá thấp. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả thị trường là kết quả của sự thoả thuận giữa người mua với người bán. Giá cả thị trường điều hoà được quan hệ giữa người mua với người bán. Quy luật lưu thông tiền tệ xác định khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhằm bảo đảm sự hoạt động nhịp nhàng của cơ chế thị trường. Việc thừa nhận hoặc thiếu tiền đều dẫn tới những tác động tiêu cực. Nếu thiếu tiền, hàng hoá không lưu thông được. Nếu thừa tiền sẽ gây nên tình trạng lạm phát, giá cả hàng hoá tăng vọt. Thị trường bất ổn định. Nói tới kinh tế thị trường cần phải nói tới cạnh tranh. Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm giành phần sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi cho mình để thu lợi nhuận cao. Cạnh tranh là môi trường tồn tại của cơ chế thị trường. Nó đòi hỏi mỗi chủ thể kinh tế phải chuẩn bị cho mình khả năng cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Sự tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường là yêu cầu khác quan đối với mỗi xã hội còn tồn taị nền kinh tế hàng hoá. Coi nhẹ hay bỏ qua vai trò của nền kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân thất bại trên lĩnh vực kinh tế. Trong lịch sử cơ chế thị trường có được không gian rộng lớn ở giai đoạn cạnh tranh tự do tư bản chủ nghĩa. Vì vậy tác động của ciư chế thị trường được phát triển khá sớm. Cơ chế thị trường được coi là : bàn tay vô hình" điều tiết sự vận động của nền kinh tế hàng hoá. 3. Đặc điểm của sự phân phối theo lao động trong nền kinh tế thị trường. Trước đây, quy luật phân phối theo lao động được nhận thức và vận dụng vào thực tiễn trong điều kiện nền kinh tế hiện vật. Việc chuyển sang nền kinh tế hàng hoá phát triển theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa không phải định tính tất yếu khách quan của quy luật phân phối theo lao động trong các hình thức của các thnàh phần kinh tế Xã hội Chủ nghĩa, vì cơ sở của phương thức phân phối này vẫn là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường, sự phân phối theo lao động có đặc điểm mới, biểu hiện tập trung ở mức thu nhập không thống nhất trong phạm vi chế độ công hữu. Sự biến động của thị trường: thị trường là hình thức đầy biến động khó ai có thể dự báo được một cách chính xác. Mọi sự biến động trên thị trường cuối cùng đều biểu hiện tập trung quan hệ cung - cầu. Sự biến động trong quan hệ cung - cầu là yếu tố khách quan của thị trường tác động trực tiếp tới mức thu nhập của các chủ thể sản xuất kinh doanh và do đó tác động trực tiếp tới mức phân phối theo lao động của từng cơ sở. Trong sự biến động nào có những cơ sở sản xuất kinh doanh đạt mức thu nhập cao và ngược lại. Sự biến động trong phân phối theo lao động và sự khác nhau về mức phân phối thu nhập của các thành viên của các cơ sở khách nhau cũng là điều không thể trách khỏi. Do những tác động của quy luật phân phối theo lao động trong nền kinh tế thị trường cho nên đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước nhằm xử lý tốt mối quan hệ giữa lợi ích toàn dân, lợi ích của cơ sở sản xuất kinh doanh và lợi ích của cá nhân người lao động. Không thể chỉ chú trọng lợi ích này mà xem nhẹ lợi ích kia. Nhưng trong bất cứ tình huống nào, sự can thiệp của Nhà nước cũng không được triệt tiêu động lực sản xuất kinh doanh của các chủ thể là lợi ích kinh tế của cơ sở ngày càng nhiều. Do vậy, một mặt, Nhà nước cần khống chế mức lương tối thiểu phù hợp với từng thời điểm lịch sử; mặt khác, cần có sự điều tiết hợp lý, vừa khuyến khích cơ sở sản xuất kinh doanh nâng cao hiệu quả kinh tế hơn nữa, vừa ngăn chặn sự chênh lệch quá đáng về mức thu nhập trong nội bộ các cơ sở thuộc chế độ công hữu, giữa tiền công và tiền lương của các đơn vị sản xuất kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp. * * * Chương II Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta. Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là xác định nội dung của thể chế thị trường, định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Đây là vấn đề vừa phức tạp vừa cấp bách, bởi lẽ nếu không có thể chưa đúng với các đặc trưng cơ bản nhất làm định hướng sẽ kéo dài tình trạng mò mẫm, không xác định được lộ trình tổng quát và mục tiêu cuối cùng của bước chuyển. Chúng ta đang có nhiều cách phân tích, lý giải, bình luận khác nhau khi nhằm vào sự vận động của nền kinh tế hiện nay. Để có một cái nhìn tương đối thống nhất về đặc điểm cơ chế vận hành của thị trường hiện nay, cũng như luận giải đặc trưng mô hình thị trường hướng tới cần có cách tiếp cận chung. Để phân tích các đặc điểm và đặc trưng của cơ chế thị trường trên cơ sở nhìn lại thực tiễn những năm đổi mới, đồng thời có liên hệ đến bước đi, những quá trình có quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đang tìm con đường tương tự. Với cách tiếp cận trên, em xin được nên lên một vài đặc trưng lớn cảu cơ chế thị trường hiện nay ở nước ta. I. Sự phát triển kinh tế phải gắn liền sản xuất với các vấn đề xã hội. Chúng ta từng bước thực hiện vì quá trình mang tính quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế tạp trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước với tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là khâu trung tâm đột phá, từng bước tiến tới một cơ chế thị trường đích thực. Cơ chế đó phát huy vai trò điều tiết cảu thị trường hình thành bước đầu một thị trường cạnh tranh, làm cho hàng hoá được lưu thông suốt, cung cầu được cân đối, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng thiếu, giá cả được ổn định dần, lạm phát được đẩy lùi và tiến tới ngăn chặn. Cơ chế thị trường đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tính tự chủ sáng tạo của hộ kinh tế và chủ doanh nghiệp. Ngay phần lớn các doanh nghiệp cũng đã giải phóng khỏi các chỉ tiêu pháp lệnh để thích ứng theo nhu cầu của thị trường. Cơ chế này đã thúc đẩy việc phải xử lý những vấn đề sở hữu với thừa nhận và đánh giá cao những thành tựu của chính sách kinh tế nhiều thành phần, chuyển từ thái đọ kỳ thị phân biệt đối xử với kinh tế tư nhân sang chính sách đối xử bình đẳng, đồng thời cũng xác định những biện pháp nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế quốc doanh cho phù hợp với thực tiễn nước ta. Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa không thể chỉ dừng lại ở các tốc độ tăng trưởng mà đi kèm với nó phải không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống với tiền lương và thu nhập thực tế tăng trưởng mạnh y tế, giáo dục phát triển, sự phân hoá giàu nghèo không làm phương hại lớn tới phúc lợi xã hội hay làm đảo lộn vị trí xã hội tương đối của đa số dân chúng. Cơ chế thị trường không thể dẫn đến sự xuống cấp, thậm chí tha hoá trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội, các quan hệ về đạo đức truyền thống xã hội. Trên khía cạnh này, thành tựu của mấy năm chuyển đổi chẳng những không nhiều thậm chí còn đánh mất đi một số giá trị dã đạt được trước đây. Nhận thấy được điều đó, Nhà nước đã từng bước can thiệp sâu rộng vào nền kinh tế nhằm phát triển nó phải gắn liền sản xuất với các vấn đề xã hội. II. Phát triển kinh tế với tốc độ cao, luôn bền vững ổn định gắn liền với sự ổn định chính trị. Chúng ta chủ trương chuyển sang kinh tế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải cách kinh tế, mặt khác cũng nhận thức nó phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính trên cơ sở đổi mới quản lý của Nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nó cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường mà tiếp tục ổn định chính trị, đưa cải cách tiến lên bước phát triển mới. Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định định hướng Xã hội Chủ nghĩa là không thay đỏi, tuy nhiên đã có những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Khẳng định, chủ nghĩa xã hội có thể sử dụng các công cụ phổ biến là chủ nghĩa tư bản đã từng sử dụng như thị trường, các quan hệ hàng hoá tiền tệ, quy luật giá trị vào mục tiêu định hướng của mình. Xuất phát từ thực tiễn thị trường nước ta đang trong bước hình thành và phát triển, còn những yếu tố mất ổn định. Từ chỗ nền kinh tế về thực chất đã từ lâu là nền kinh tế nhiều thành, nên đã không chủ chương tư nhân hoá tràn lan, mà trái lại chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và xây dựng kinh tế quốc doanh thành thực làm chỗ dựa của Nhà nước ở các khâu và lĩnh vực then chốt, để làm ổn định và định hướng thị trường. Mặc dù còn rất nhiều thiếu sót và yếu kém, nhất là trong điều hành kinh tế vĩ mô và gần đây nhất là nạn tham nhũng khá phổ biến trong bộ máy quản lý Nhà nước các cấp. Nhưng nhìn chung tính ổn định và theo hướng đổi mới tiến đến một Nhà nước pháp quyền là nhân tố quan trọng đảm bảo cho thành công của cuộc cải cách. Đảng ta đã khẳng định vai trò Nhà nước trong việc đảm bảo các chính sách xã hội, xử lý hài hoà giữa tăng trưởng, phát triển và cân bằng ổn định giữa phát triển kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội và công bằng xã hội. Phân tích sâu vào luận điểm này, ta lại thấy đêr tiếp tục thực hiện phương châm ổn định để phát triển thì bộ máy Nhà nước ta phải đổi mới nhiều hơn nữa. Nhận thức rõ vai trò của mình trong điều kiện đổi mới, đặc biệt cần phải thay đổi chất lượng, tác phong của bộ máy, chuyển từ tác phong chỉ huy mệnh lệnh sang tác phong hỗ trợ, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho thị trường phát triển, đưa bộ máy thoát khỏi tình trạng "cửa quan" và nạn tham nhũng. Điều đó nói lên tầm quan trọng của Nhà nước trong hoạt động của thị trường nước ta. III. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thể chế kinh tế của nước ta là thể chế của những chủ thể tự chủ do kinh tế thị trường theo pháp luật, các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh, vừa liên kết hợp tác và phát triển đạt được trình độ xã hội hoá cao. Tín hiệu thị trường ngày càng đóng vai trò trực tiếp hướng dẫn sản xuất kinh doanh lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả cũng như đối với việc phân phối tài nguyên, tài sản quốc gia dưới sự điều khiển vĩ mô của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh được củng cố, phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế cũng như an ninh quốc phòng, ở các lĩnh vực du lịch xã hội cần thiết mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không sinh lãi hoặc ít lãi. Có thể nói, sự cần thiết của tư nhân hoá trong nền kinh tế h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50499.doc
Tài liệu liên quan