Đề tài Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNT Đồng Nai

Một trong những biện pháp quản lý chất lượng tín dụng tại Ngân Hàng

Ngoại Thương là tuân thủ đầy đủ quy trình cho vay theo qui định của NHNT

TW. Quy trình cho vay bao gồm những công đoạn cụ thể. Để thực hiện tốt quy

trình tín dụng nhằm hạn chế và phân tán rủi ro, đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải

thực nghiêm chỉnh và tuần tự. Nếu mộttrong những công đoạn không thực hiện

đúng thì sẻ có ảnh hưởng đến các công đoạn còn lại của qui trình, vì giữa các

công đoạn qui trình có quan hệ hữu cơ với nhau.

Việc tuân thủ và thực hiện đúng, đầy đủ quy trình là một trong những biện

pháp quản trị rủi ro một cách cụ thể để giảm tối thiểu rủi ro tín dụng có thể xảy

ra. Tuy nhiên, trong thực tế,không phải lúc nào quy trình cũng được thực hiện

một cách đúng đắn, nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Các yếu tố

này chính là những nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho cho vay hiện nay tại NHNT

Đồng Nai. Cụ thể như:

Ở giai đoạn trước khi cho vay:Việc gặp và tư vấn cho khách hàng không

không chính xác làm cho khách hàng quản lý vốn vay không hiệu quả, kinh

doanh không có lợi nhuận và khách hàng sẽ gặp khó khăn khi trả nợ vay đúng

hạn; hoặc Việc thẩm định hồ sơ cho vay đòi hỏi về trình độ, năng lực của người

cán bộ tín dụng (CBTD)ngân hàng. Nếu CBTD khôngcó năng lực chuyên môn,

44

thẩm định yếu kém, dẫn đến việc ra quyết định cho vay không chính xác, sẽ kéo

theo sự không chính xác cácgiai đoạn sau và từ đó rủi ro tín dụng xảy ra.

Ở giai đoạn trong khi cho vay:Đòi hỏi người cán bộ phải kiểm tra sự

chính xác của chứng từ, số tiền vay có phù hợp với chứng từ thanh toán

không .Nếu khách hàng cố tình giả mạo chứng từ, dẫn đến sử dụng vốn sai mục

đích và từ đó cũng dẫn đến rủi ro tín dụng

pdf73 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 812 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNT Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ø hạn nhiều lần không rõ lý do chính đáng. (4) Sự sút giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. (5) Chậm thanh toán các khoản lãi đến hạn. 51 (6) Thanh toán nợ gốc không đầy đủ, đúng hạn. (7) Mức độâ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt nhu cầu dự kiến. (8) Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn. (9) Có dấu hiệu cho thấy khách hàng trong chờ vào thu nhập bất thường không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính hoặc từ hoạt động được đề xuất trong phương án xin vay. (10) Có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn, đặc biệt từ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng. (11) Sử dụng tài trợ ngắn hạn cho họat động trung dài hạn. (12) Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ giá cao với mọi điều kiện. 3.2.1.2 Nhóm dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ ngoài ngân hàng. Nhóm dấu hiệu này có tác động trực tiếp đến chất lượng tín dụng nhưng với độ “trễ” lớn hơn. Các dấu hiệu này được rút ra từ chính bản thân hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng và không dễ dàng nhận biết nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ sâu sát của cán bộ tín dụng. Nhóm này bao gồm 9 dấu hiệu sau: (1) Độ lệch giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng. (2) Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt động của khách hàng, như: sự gia tăng đột biến của tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu; tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh và thanh toán tức thời có dấu hiệu sụt giảm liên tục; giảm các khoản phải trả và tăng nhanh các khoản phải thu, hàng tồn kho với cường độ lớn, sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên, giảm quỹ tiền mặt, tăng doanh thu nhưng giảm lợi nhuận hoặc không có….. 52 (3) Xuất hiện ngày càng nhiều các chi phí bất hợp lý như phát triển đột biến chi phí quảng cáo, tiếp khách… (4) Thay đổi thường xuyên cơ cấu quản trị và điều hành. (5) Xuất hiện bất đồng và mâu thuẩn trong bộ máy quản trị và điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý. (6) Khó khăn trong quản lý phát triển sản phẩm và dịch vụ mới. (7) Xuất hiện dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: Sẵn sàng từ bỏ các hợp đồng nhỏ nhưng có khả năng thu được tỷ suất lợi nhuận cao để tìm kiếm các hợp đồng có giá trị lớn với các bạn hàng có tên tuổi đù lợi nhuận có khả năng thấp hơp; sẵn sàng cắt giảm lợi nhuận để đạt các hợp đồng lớn, theo đuổi chiến lược “muợn thương hiệu”, “nước nổi thuyền nổi”. (8) Xuất hiện hội chứng sản phẩm đẹp: Mãi mê theo đuổi sản phẩm không thích hợp về mặt thời gian và năng lực hiện tại mà không chú ý đến các yếu tố khác. (9) Những thay đổi về chính sách của nhà nước như tác động của thuế, xuất nhập khẩu, thay đổi các biến số kinh tế vĩ mô: tỷ giá, lãi suất, thay đổi công nghệ sản xuất,… tác động bất lợi đến chiến lược, kế họach sản xuất kinh doanh của khách hàng. 3.2.2 Nhóm giải pháp về xử lý khoản tín dụng, khi xuất hiện dấu hiệu của các khoản nợ có vấn đề. Do tác động của dấu hiệu cảnh báo đến chất lượng tín dụng là trực tiếp với mức độ không giống nhau, đối với các dấu hiệu cảnh báo từ xa, mức độ tác động từ từ và có tính chất dài hạn hơn so với dấu hiệu cảnh báo sớm. Vì vậy các giải pháp xử lý khoản tín dụng khi xuất hiện các dấu hiệu cảnh báo được chia làm 2 nhóm: Nhóm giải pháp phòng ngừa và giải pháp thanh lý. 53 3.2.2.1 Giải pháp phòng ngừa. Giải pháp này để ứng phó với nhóm các dấu hiệu cảnh báo từ xa. Chức năng chính là xếp hạng, phân loại, giám sát danh mục tính dụng. Có thể khẳng định, trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh đã rất sôi độäng, nhạy cảm và biến đổi khôn lường, nhưng hoạt động kinh doanh của ngân hàng còn sôi động và nhạy cảm hơn. Trên thế giới hiện nay chưa có một chuẩn mực thống nhất trong việc phân loại và xếp hạng danh mục tín dụng, công việc này phụ thuộc đặc thù môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường kinh doanh của từng nước. Tuy nhiên, về cơ bản, việc xếp hạng, phân loại và giám sát danh mục tín dụng xin được đề nghị mà NHNT xây dựng cần đạt đến 5 mục đích chính: (1) Cho phép có một nhận định chung về danh mục tín dụng của ngân hàng; (2) Phát hiện sớm các khoản tín dụng có khả năng bị tổn thất hay đi chệnh hướng khỏi chính sách tín dụng; (3) Có một chính sách định giá tín dụng chính xác; (4) Xác định rõ khi nào thì cần tăng cường sự giám sát hoặc có hoạt động điều chỉnh khoản tín dụng và ngược lại; (5) Làm cơ sở để xác định mức dự phòng rủi ro. Cơ sở của phương pháp xếp hạng và phân loại danh mục tín dụng dựa trên những dữ liệu đã có và tầm quan trọng của từng dữ liệu, được thể hiện qua các trọng số tham gia vào quá trình tổng hợp đánh giá. Nhìn chung đây là công việc rất phức tạp, mất nhiều thời gian, công sức…… đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều lĩnh vực chuyên ngành 3.2.2.2 Nhóm các giải pháp thanh lý. Đối với nhóm dấu hiệu cảnh báo sớm đòi hỏi ngân hàng đưa ra các quyết sách nhanh chóng và kịp thời nhằm giảm tối thiểu tổn thất có thể có. Để đạt 54 được mục tiêu này, trước hết cần lên kế hoạch cụ thể, chi tiết về việc gặp gỡ khách hàng. Có thể khái quát mô hình “ngăn ngừa và xử lý khoản tín dụng có vấn đề”theo nhóm giải pháp thanh lý qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1: “Ngăn Ngừa Và Xử Lý Khoản Tín Dụng có vấn đề.” Để đảm bảo việc gặp gỡ khách hàng đạt hiệu quả cao, cán bộ quản lý tín dụng phải nhanh chóng nắm bắt được tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của khách hàng, thông tin tóm tắt về lịch sử khoản tín dụng, các yếu tố rủi ro tiềm ẩn chính, các dấu hiệu, diễn biến gần nhất….Trên cơ sở các thông tin nắm được, phối hợp với bộ phận tín dụng rà soát, hòan thiện lại hồ sơ tín dụng nhằm đảm bảo tính hợp lệ về mặt pháp lý, tính đầy đủ về mặt hình thức, đặc biệt là hồ sơ của tài sản đảm bảo. Khoản tín dụng có vấn đề. Chuyển bộ phận QLTD Lên kế hoạch gặp gỡ KH Lập phương án khắc phục Thực thi phương án khắc phục Chuyển lại bộ phận tín dụng theo dõi bình thường Nếu chấp nhận Nếu thành công Nếu không thành công Chuyển bộ phận Quản lý Rủi Ro Chuyển bộ phận Quản lý Rủi Ro Nếu không chấp nhận 55 Trên cơ sở buổi gặp gỡ khách hàng, cán bộ quản lý tín dụng xác định trách nhiệm và khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính của khách hàng, qua đó đề xuất phương án xử lý. Phương án này phải thỏa mãn 4 điều kiện sau: (1) Những đánh giá chính thức của ngân hàng về những khó khăn đối với khỏan tín dụng. (2) Các biện pháp cần thiết để giải quyết vấn đề này; (3) Các hình thức tiến hành các biện pháp nêu trong phương án; (4) Kế họach về thời gian mà các họat động này cần đạt được. Tùy thuộc vào năng lực tài chính, nguồn vốn và năng lực quản trị của nhân viên ngân hàng, cũng như mức độ khó khăn, rủi ro về khỏan tín dụng, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính đã cam kết với ngân hàng và thiện chí của khách hàng, cũng như chi phí bỏ ra để thực hiện việc xử lý so với số tiền thu về; thái độ của các chủ nợ khác của khách hàng; mức độ nghiêm trọng của khoản tín dụng xét theo khía cạnh, mà ngân hàng sẽ lựa chọn giải pháp phù hợp. Xếp theo cấp độ rủi ro tăng dần thì có 8 giải pháp được đề nghị như sau: (1) Bổ sung thêm tài sản đảm bảo; (2) Gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ, cơ cấu lại khỏan nợ; (3) Tư vấn cho khách hàng các giải pháp đẩy mạnh thu hồi các khoản phải thu chậm trả, kiểm sóat hàng tồn kho thông qua giảm giá bán hay tăng mức chiết khấu cho đại lý, tư vấn về chiến lược sản xuất kinh doanh trong thời gian tới, thu hẹp sản xuất kinh doanh… (4) Lọai bỏ một số họat động không sinh lợi; (5) Thực hiện đánh giá lại sản phẩm, thay đổi phương thức bán, tăng sản phẩm mới; (6) Bán bớt một phần doanh nghiệp; (7) Cho vay thêm; Bán nợ; 56 (8) Phát mại tài sản đảm bảo, khởi kiện. 3.2.3 Nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNT Đồng Nai. 3.2.3.1 Hoàn thiện kỷ thuật thu hồi các khỏan nợ có vấn đề. Nếu khoản tín dụng rơi vào nợ có vấn đề (do hiện nay chưa đủ khả năng để phân tích nguyên nhân), phải lập tức đưa ra biện pháp chế tài có tính pháp lý và đơn điệu. Kết cục là kết quả không cao, và nợ cho vay đã không quay về. Do vậy, giải pháp đề nghị cho kỷ thuật thu hồi nợ theo hai bước sau: Bước 1: Phân tích nguyên nhân : Xét xem nguyên nhân nợ có vấn đề có phải do lừa đảo hay do rủi ro xảy ra?. Nếu rủi ro thì do rủi ro gì? có phải từ phía khách hàng không?. Từ đó đưa ra biện pháp ứng phó với từng nguyên nhân cụ thể, bao gồm từ thấp đến cao. Sau đó đưa ra các biện pháp khai thác như: tư vấn cho khách hàng; khắc phục nguyên nhân đã phát hiện như: sát nhập, bán tài sản thu hồi nợ, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, thay đổi bộ máy nhân sự; kéo dài thời hạn của khoản vay; giảm hoặc xoá lãi suất nhằm tìm cách "kéo" được nợ gốc với thời hạn đã định; cho vay tiếp nếu doanh nghiệp còn có thể tin được hoặc doanh nghiệp chứng tỏ khả năng phục hồi, điều kiện kinh doanh tổng quát, thuận lợi cho việc phục hồi. Bước 2: Đưa ra các biện pháp thanh lý bao gồm: Ngưng cho vay một phần hay toàn bộ; chuyển nợ quá hạn với lải suất cao theo luỹ tiến; thông báo khả năng mất chi trả cho khách hàng; phát mải tài sản đảm bảo; truy tố trước toà án. Các biện pháp thanh lý có mức độ tăng dần và được áp dụng tuỳ từng nguyên nhân và nên áp dụng biện pháp khai thác trước nếu không có kết quả mới áp dụng biện pháp này. 3.2.3.2 Hoàn thiện hệ thống thông tin phục vụ cho việc ra quyết định trong qủan trị tín dụng. 57 Nếu hệ thống thông tin không đủ dữ kiện hoặc không chính xác thì việc phân tích đối với khách hàng chỉ dừng lại ở góc độ lý thuyết. Như vậy, hệ thống thông tin kinh tế như một sự khởi đầu đối với quyết định tín dụng của ngân hàng, vì thế, việc hoàn thiện hệ thống thông tin là vô cùng cần thiết và nên theo hai hướng sau: Một là: Nguồn thông tin tín dụng ngân hàng, không chỉ ở một nguồn nào chắc chắn được mà phải căn cứ vào nhiều nguồn như: - Từ chính hồ sơ của khách hàng là Báo cáo tài chính được xác nhận có kiểm toán các cấp tuỳ loại khách hàng. - Từ điều tra tại chỗ với phương pháp khác nhau, tùy đối tượng điều tra, cụ thể: phỏng vấn hoặc tự ghi. Từ các nội dung có được ngoài việc kiểm chứng các số liệu, độ tin cậy của vốn, tài sản bảo đảm tín dụng và có thể xác định yếu tố không định lượng: không khí văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp, thái độ, động cơ vay, chất lượng điều hành… - Từ chứng từ lưu giữ tại ngân hàng như chi tiết về số dư tiền gửi, lịch sử các món vay trước và từ phía khách hàng của khách hàng (đối với khách hàng mới). - Nguồn thông tin bên ngoài từ các tổ chức tín dụng, từ các nhà cung ứng, tiêu thụ sản phẩm. Qua đó, ngân hàng có thể có đựơc các vấn đề thanh toán, chất lượng, số lượng sản phẩm cho đến sự tin cậy, uy tín và khả năng của doanh nghiệp. Nguồn thông tin từ trung tâm thông tin và phòng ngừa rủi ro. Hai là: Cần hoàn thiện hệ thống thông tin tại chính ngân hàng: - Nguồn thông tin từ báo cáo tài chính phải có kiểm toán và ngân hàng phải có hệ thống thông tin phân tích báo cáo tài chính. 58 - Tài liệu phân tích phải lưu trữ thống nhất và có qui luật bắt buộc trong cho vay. - Không nên quá phụ thuộc vào đánh giá tài chính vì tình hình tài chính của khách hàng có thể thay đổi. 3.2.3.3 Nâng cao chất lượng tín dụng của cán bộ tín dụng. Trong bất kỳ một doanh nghiệp hiện đại nào trong nền kinh tế thị trường đều quan tâm đến công tác đào tạo và phát triển con người, vì con người là nền tảng của sự phát triển của doanh nghiệp. Để hoàn thiện công tác quản trị họat động kinh doanh ngân hàng nói chung và họat động quản trị rủi ro tín dụng nói riêng, đòi hỏi NHNT Đồng Nai cũng phải đặc biệt hết sức quan tâm đến và coi trọng yếu tố con người. NHNT Đồng Nai cần tổ chức các khóa đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao chất lượng tín dụng cho đội ngũ CBTD cả về trình độ và phẩm chất đạo đức, biết xử lý công việc nhanh chóng chính xác; phân tích thẩm định tốt để ra quyết định cho vay đúng đắn, vừa đáp ứng nhu cầu phục vụ khách hàng vừa đảm bảo an toàn vốn tín dụng cho ngân hàng. Theo đó, CBTD không chỉ thực hiện tốt nghiệp vụ chuyên môn mà còn giỏi ở công tác: marketing, tư vấn cho khách hàng. 3.2.4 Giải pháp ước tính tổn thất tín dụng có dự liệu (Expected Loss). Khi nói đến rủi ro tín dụng, các ngân hàng đều đã xác định cho mình là khi đã cho vay thì đều tính toán và chấp nhận một mức rủi ro có thể xảy ra đối với món vay mà ngân hàng đồng ý đầu tư. Trong họat động tín dụng, người ta thường nhắc đến hai loại tổn thất trong cho vay có thể xảy ra: tổn thất có dự liệu (Expected Loss) và tổn thất không có dự liệu (unexpected loss). 59 Tổn thất không dự liệu là tổn thất xảy ra bất ngờ, hoàn toàn nằm ngoài dự kiến của ngân hàng. Để ứng phó với tổn thất không dự liệu, ngân hàng phải có tiềm lực về vốn. Mặc dù các tổn thất không dự liệu có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động ngân hàng, nhưng trong quản lý rủi ro, người ta thường quan tâm nhiều hơn tổn thất có dự liệu. Vì ngân hàng hầu như không kiểm soát các tổn thất không dự liệu, nhưng lại hoàn toàn kiểm soát được tổn thất có dự liệu. Cách đơn giản để tính tổn thất có dự liệu (Expected Loss - EL) là căn cứ vào mức tổn thất tín dụng bình quân xảy ra trong một năm trước đó, có cân nhắc các thay đổi về thị trường, về tiềm lực của ngân hàng.… Do vậy, NHNT Đồng Nai có thể tiếp cận tổn thất có dự liệu theo phương pháp mới, đó là lập mô hình tính toán dựa trên hệ thống cơ sở dự liệu nội bộ (Internal Ratings Based approach- IRB), theo công thức sau: o Theo số tiền: EL= PD*ED*LGD o Theo tỷ lệ %: EL%=PD*LG Trong công thức này có bốn thông số chính cần quan tâm: (1) Xác suất không trả nợ (Probability of Default - PD) là xác suất khách hàng không trả được nợ trong vòng một năm; (2) Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả đươc nợ (Exposuse At Default -EAD); (3) Tỷ trọng tổn thất ước tính (Loss Given Default - LGD) là tỷø trọng mà phần vốn ngân hàng dự tính sẽ bị mất trên tổng dư nợ của khách hàng không trả đươc nợ; (4) Kỳ hạn của khoản vay (Maturity-M): Với mỗi một kỳ hạn xác định, tổn thất có thể dự liệu EL có thể được tính toán khác nhau. 60 Có một khái niệm cần được chú ý là “tình trạng không trả được nợ của khách hàng –Default”. Thông thường, tình trạng không trả được nợ xảy ra khi xuất hiện ít nhất một trong các dấu hiệu sau: - Ngân hàng xác định rằng khách hàng khó có khả năng trả toàn bộ khoản nợ (gồm gốc, lãi, phí); - Ngân hàng đã xếp khoản vay vào danh mục nợ xấu; - Đã quan hệ hơn 90 ngày nhưng khách hàng vẫn chưa trả; - Khách hàng đã làm thủ tục tuyên bố phá sản. Do đó việc xác định mức độ tổn thất phụ thuộc rất nhiều vào “tình trạng không thể trả được nợ “. Không ít trường hợp việc xác định một khách hàng không trả được nợ theo một trong những dấu hiệu trên có thể đưa ra mức tổn thất bằng 0, tức là ngân hàng không chịu bất kỳ khoản tổn thất nào. Sau đây là các yếu tố chính trong các công thức trên: Yếu tố 1: Xác suất không trả được nợ (Probability of Default - PD): Cơ sở tính xác suất này là các số liệu về các khoản nợ trong quá khứ của khách hàng, bao gồm các khoản nợ đã trả, nợ trong hạn và nợ không thu hồi được. Để tính toán xác suất này đòi hỏi các ngân hàng phải có số liệu dư nợ của khách hàng trong vòng 5 năm. Các số liệu thông thường được xếp thành 3 nhóm: - Nhóm 1: Nhóm số liệu tài chính: Số liệu tài chính của khách hàng đánh giá của các tổ chức xếp hạng của khách hàng. - Nhóm 2: Nhóm số liệu định tính: Dữ liệu về ngành lĩnh vực sản xuất kinh doanh của khách hàng, trình độ quản trị kinh doanh. - Nhóm 3: Nhóm dữ liệu về dấu hiệu cảnh báo: các hiện tượng xảy ra không thường xuyên, thường báo hiệu khả năng không trả được nợ của khách hàng. 61 Để tính được xác suất này, NHNT Đồng nai cần phải cập nhập dữ liệu và xây dựng một mô hình định sẵn và có thể tư vấn thêm từ bên ngoài để hoàn thiện mô hình. Căn cứ vào xác suất không trả được nợ, ngân hàng có thể xếp hạng độ tin cậy của khách hàng và thông qua xếp hạng ngân hàng có thể ứng dụng hữu ích: ra quyết định hợp lý việc cho vay hay không cho vay; xác định mức lãi suất cho vay với từng khách hàng sao cho hợp lý với độ tin cậy thấp thì lãi suất cao….. Sau khi xem xét cơ cấu khách hàng xếp hạng theo độ tin cậy, từ đó có thể định giá chất lượng công việc của bộ phận tín dụng để có điều chỉnh phù hợp. Yếu tố 2:Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả đươc nợ (Exposuse at Default -EAD). Đối với các khoản vay có kỳ hạn thì việc xác định EAD không có gì khó khăn, nhưng đối với những khoản tín dụng theo hạn mức, việc xác định EAD phức tạp hơn: Đòi hỏi ngân hàng cũng phải thu thập dữ liệu quá khứ để tính EAD trên mô hình định sẵn. EAD được xác định theo công thức sau: EAD=Dư nợ bình quân + LEQ* Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân Trong đó: LEQ (Loan Equivalent Exposure) là tỷ trọng phần vốn chưa sử dụng có nhiều khả năng khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ. Tích số “LEQ*hạn mức tín dụng chưa sử dụng” chỉ phần dư nợ dự kiến sẽ được khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ ngoài mức dư nợ bình quân. Thông thường tại thời điểm không trả được nợ, khách hàng thường có xu hướng rút vốn vay tới mức gần xấp xĩ với hạn mức tín dụng được cấp. Như vậy: - EAD cho thấy sự nguy hiểm của khách hàng tìm cách nhanh chóng rút thêm vốn vay khi nhận thấy nguy cơ không thể trả được nợ của mình. - Người ta cho rằng, khi tình hình tài chính xấu đi, khách hàng gặp khó khăn trong việc huy động các nguồn vốn và thường tìm cách rút thêm 62 tiền vay để phục vụ nhu cầu chi trả. Nếu có quy định trong hợp đồng tín dụng thì ngân hàng cũng có thể tự bảo vệ mình thông qua cắt giảm hạn mức tín dụng, một khi ngân hàng nhận thấy nguy cơ không trả được nợ của khách hàng. Về thực chất, LEQ sẽ được xác định từ cuộc đua giữa khách hàng và ngân hàng. Nếu khách hàng nhanh hơn LEQ sẽ cao, ngược lại LEQ sẽ thấp. - Một yếu tố cũng ảnh hưởng LEQ là kỳ hạn tín dụng. Thời gian đến ngày đáo hạn càng dài thì LEQ sẽ cao. Ngoài ra, cũng cần xem các yếu tố ảnh hưởng đến LEQ như: loại hình kinh doanh của khách hàng, khả năng của khách hàng tiếp cận thị trường tài chính để mua bán các giấy tờ có giá, tỷ lệ dư nợ sử dụng so với hạn mức,.. Yếu tố 3: Tỷ trọng tổn thất ước tính (Loss Given Default - LGD). LGD không chỉ bao gồm tổn thất khoản vay mà còn cả lãi suất đến hạn nhưng không thanh toán được và các chi phí khác liên quan đến việc xử lý nợ. LGD được tính toán như sau: LGD =(EAD-số tiền có thể thu hồi)/EAD Trong đó số tiền có thể thu hồi bao gồm các khoản tiền mà khách hàng trả và tiền thu từ xử lý tài sản đảm bảo. Có 3 cách chủ yếu để xác định tỷ trọng tổn thất ước tính (LGD): (1) Xác định LGD dựa vào thị trường: Nếu các khoản tín dụng có thể được mua bán trên thị trường, người ta có thể xác định LGD của một khoản tín dụng căn cứ vào giá của khoản tín dụng đó một thời gian ngắn sau khi nó được xếp vào diện không trả được nợ. Giá của khoản tín dụng sẽ là ước tính của thị trường về tổng giá trị hiện tại của tất cả các luồng tiền có thể thu hồi từ khoản tín dụng trong tương lai. 63 (2) Xác định LGD căn cứ vào việc xử lý khoản tín dụng không trả được nợ. Phương pháp này thường phức tạp hơn phương pháp căn cứ thị trường. Khi áp dụng phương pháp này, NHNT cần xác định các luồng tiền trong tương lai, khoản thời gian dự kiến sẽ thu được luồng tiền, và chiết khấu các luồng tiền. (3) Xác định LGD căn cứ vào giá các trái phiếu nhiều rủi ro trên thị trường. Tuy nhiên, phương pháp này chủ yếu được áp dụng để ước lượng tổn thất dự tính cho các sản phẩm trên thị trường tài chính. 3.2.5 Giải pháp áp dụng mô hình định giá quyền chọn trong công tác quản trị rủi ro tín dụng. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm rủi ro trong tín dụng là điều hết sức quan trọng. Vì thế việc nghiên cứu và ứng dụng các mô hình quản lý rủi ro tín dụng trên cơ sở những thành tựu của khoa học tài chính là hết sức cần thiết. Chính vì lẽ đó, việc ứng dụng mô hình định giá quyền chọn trong quản lý rủi ro tín dụng tại NHNT Đồng Nai là tất yếu. Thông thường khi món vay được đầu tư, nếu khách hàng đầu tư vốn vay có hiệu quả thì giá trị tài sản khách hàng đó sẽ tăng lên và dĩ nhiên là họ có khả năng hoàn trả vốn cho ngân hàng. Nhưng ngược lại, khoản vay sẽ gặp rủi ro nếu khách hàng bị thua lỗ dẫn đến phá sản. Ơû nước ta, khi một doanh nghiệp bị phá sản thường bị nhắc đến khía cạnh tiêu cực, còn với các nước phát triển, việc phá sản được coi là quyền của doanh nghiệp khi gặp hoàn cảnh khó khăn. Đứng dưới góc độ một ngân hàng, một khoản tín dụng giống như một giao dịch bán quyền chọn (write a put option) trên tài sản của bên đi vay và giá trị của quyền chọn “vỡ nợ” (default) trên một 64 món vay là hàm số của 5 yếu tố: thị giá của tài sản (A), mức độ dao động của nó (δ), các khoản nợ (L), lãi suất (r), và kỳ hạn nợ (t), ta có công thức: Giá trị quyền chọn vỡ nợ trên một món vay=f(A, L, r, δ, t) Dựa theo phương trình trên ta thấy thị giá (A) và độ dao động (δ) của bên đi vay không thể xác định trực tiếp được mà được xác địnhgián tiếp. Gọi giá trị khoản vay OL, giả sử món vay được cho vay với kỳ hạn một năm. Nếu đến hạn, thị giá tài sản của bên đi vay là OA2 > OL thì bên vay sẳn sàng hoàn trả món vay và thu vào một phần lợi nhua

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf42769.pdf
Tài liệu liên quan