Đề tài Một số giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn Thị xã Bắc Giang

ở bất kỳ quốc gia nào thuế luôn giữ một vai trò rất quan trọng. Thuế không chỉ là công cụ tập trung chủ yếu nguồn thu cho NSNN mà thuế còn là một công cụ hữu hiệu để nhà nước tiến hành điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế góp phần điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối.

Một chính sách thuế đúng đắn được nghiên cứu thận trọng phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế có thể mang lại sự phồn vinh và ổn định lâu dài cho đất nước. Ngược lại, một hệ thống thuế lạc hậu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát phát triển của nền kinh tế. Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, hệ thống thuế đang được hoàn thiện đảm bảo nguồn lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đưa nền kinh tế phát triển đúng hướng. Luật thuế GTGT được quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp lần thứ 11 (họp từ 2/4/1997 đến 10/5/1997) có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999 thay thế luật thuế doanh thu là một trong những bước đột phá có tính chất quyết định của công cuộc cải cách thuế bước II ở nước ta. Luật thuế GTGT ra đời nhằm đảm bảo nguồn thu cho NSNN, tránh hiện tượng đánh trùng thuế, đảm bảo công bằng giữa các thành phần kinh tế, góp phần hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.

Sau 5 năm đưa vào hoạt động thuế GTGT đã cho thấy hiệu quả của nó. Tuy nhiên trong quá trình thực thi còn nhiều bất cập: sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật, sự quản lý chồng chéo của các cơ quan chức năng cũng như sự nhận thức của các cơ sở kinh doanh còn chưa cao do đó thất thu thuế còn lớn, đặc biệt trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.

Với chuyên ngành mình học, trong thời gian thực tập tại Chi cục thuế Bắc Giang, em đã lựa chọn đề tài: “ Một số giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn Thị xã Bắc Giang”

Qua việc nghiên cứu công tác quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực Thị xã Bắc Giang từ năm 2001 trở lại đây, Em hy vọng trong một chừng mực nào đó đưa ra được một số ý kiến thích hợp trong việc tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.

Nội dung chủ yếu của đề tài gồm ba chương:

Chương 1: Thuế GTGT và sự cần thiết phải tăng cường quản lý thuế GTGT đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.

Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn Thị xã Bắc Giang.

Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn Thị xã Bắc Giang.

 

doc93 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 964 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Một số giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn Thị xã Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu ở bất kỳ quốc gia nào thuế luôn giữ một vai trò rất quan trọng. Thuế không chỉ là công cụ tập trung chủ yếu nguồn thu cho NSNN mà thuế còn là một công cụ hữu hiệu để nhà nước tiến hành điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế góp phần điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối. Một chính sách thuế đúng đắn được nghiên cứu thận trọng phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế có thể mang lại sự phồn vinh và ổn định lâu dài cho đất nước. Ngược lại, một hệ thống thuế lạc hậu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát phát triển của nền kinh tế. Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, hệ thống thuế đang được hoàn thiện đảm bảo nguồn lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đưa nền kinh tế phát triển đúng hướng. Luật thuế GTGT được quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp lần thứ 11 (họp từ 2/4/1997 đến 10/5/1997) có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999 thay thế luật thuế doanh thu là một trong những bước đột phá có tính chất quyết định của công cuộc cải cách thuế bước II ở nước ta. Luật thuế GTGT ra đời nhằm đảm bảo nguồn thu cho NSNN, tránh hiện tượng đánh trùng thuế, đảm bảo công bằng giữa các thành phần kinh tế, góp phần hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Sau 5 năm đưa vào hoạt động thuế GTGT đã cho thấy hiệu quả của nó. Tuy nhiên trong quá trình thực thi còn nhiều bất cập: sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật, sự quản lý chồng chéo của các cơ quan chức năng cũng như sự nhận thức của các cơ sở kinh doanh còn chưa cao do đó thất thu thuế còn lớn, đặc biệt trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Với chuyên ngành mình học, trong thời gian thực tập tại Chi cục thuế Bắc Giang, em đã lựa chọn đề tài: “ Một số giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn Thị xã Bắc Giang” Qua việc nghiên cứu công tác quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực Thị xã Bắc Giang từ năm 2001 trở lại đây, Em hy vọng trong một chừng mực nào đó đưa ra được một số ý kiến thích hợp trong việc tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Nội dung chủ yếu của đề tài gồm ba chương: Chương 1: Thuế GTGT và sự cần thiết phải tăng cường quản lý thuế GTGT đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn Thị xã Bắc Giang. Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn Thị xã Bắc Giang. Chương I Thuế GTGT và sự cần thiết phải tăng cường quản lý thuế GTGT đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh I. Mốt số vấn đề cơ bản về thuế gTGT 1. Khái niệm và đặc điểm thuế GTGT 1.1. Khái niệm thuế GTGT Giá trị gia tăng là phần giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Thuế GTGT tiếng Anh là Value Added Tax (VAT), tiếng Pháp là Taxe sur la Valeur Ajoutee (TVA) là loại thuế được tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. 1.2. Đặc điểm thuế GTGT Là một sắc thuế của hệ thống thuế, thuế GTGT cũng mang đặc điểm chung của hệ thống thuế: - Tính cưỡng chế và tính pháp lý cao: Đặc điểm này được thể chế hoá trong pháp luật của mỗi quốc gia - Thuế là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp: Khác với các khoản vay, nhà nước thu thuế từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân nhưng không phải hoàn trả lại trực tiếp cho người nộp thuế sau một khoảng thời gian với một khoản tiền mà họ đã nộp vào ngân sách Nhà nước. Ngoài đặc điểm chung của một hệ thống thuế, thuế GTGT còn mang những đặc điểm riêng: - Do thuế tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nên đối tượng nộp thuế phải là các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có giá trị tăng thêm, nhưng thực chất phần thuế mà họ nộp là do người mua hàng hoá, dịch vụ phải thanh toán. Vì vậy thuế GTGT là thuế gián thu, đây cũng là chính sách thuế tốt xét về mặt “trách nhiệm chính trị” - Thuế GTGT có phạm vi thu thuế rất rộng, đối tượng phải nộp thuế là toàn bộ các cơ sở hoạt động sản xuất, kinh doanh kể cả gia công, chế biến và hoạt động dich vụ có thu tiền, thuế GTGT được thu đối với các sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ trong nước, kể cả hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, một số hàng hoá và dịch vụ cũng có thể được miễn thuế GTGT. Các hàng hoá, dịch vụ miễn thuế được quy định tuỳ thuộc vào mỗi nước trong từng thời kỳ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ một nước nào khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, đồng thời cũng phải rà soát lại phạm vi và thuế suất của các chính sách thuế khác. - Thuế GTGT không đánh vào đầu tư vì thuế nằm ngoài giá trị tài sản cố định và giá thành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Người mua phải trả thêm tiền thuế GTGT và tiền thuế này sẽ được tách riêng để khấu trừ khi tính thuế GTGT phải nộp ở giai đoạn sau. - Một đặc điểm quan trọng của thuế GTGT là cho dù sản phẩm có trải qua bao nhiêu giai đoạn thì tổng số thuế phải nộp cũng không thay đổi. Đó chính là số thuế mà người tiêu dùng cuối cùng phải trả. Tổng thuế GTGT phải nộp của 1 sản phẩm = Thuế suất X Giá mua của người tiêu dùng cuối cùng Thuế GTGT ở mọi khâu nhiều hay ít tuỳ thuộc vào GTGT ở khâu đó, vì vậy thuế GTGT không làm tăng giá đột biến khi sản phẩm trải qua nhiều giai đoạn sản xuất, lưu thông, cung ứng dịch vụ nên không gây xáo trộn lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. - Thuế GTGT là loại thuế mang tính trung lập cao. Xét về cơ bản, thuế GTGT không can thiệp sâu vào mục tiêu khuyến khích hay hạn chế sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ, tiêu dùng theo ngành nghề cụ thể, không gây phức tạp trong việc xem xét từng mặt hàng, ngành nghề, có thuế suất chênh lệch nhau nhiều, không khuyến khích việc hội nhập doanh nghiệp theo chiều dọc để tránh thuế. Mục tiêu của thuế GTGT không phải để trực tiếp điều chỉnh sự chênh lệch về thu nhập hay tài sản như thuế thu nhập, thuế tài sản. Vì thế, thuế GTGT thường ít mức thuế suất, số đối tượng được miễn giảm rất hạn chế, đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng và ít gây sự rối loạn hay méo mó. - GTGT của hàng hoá, dịch vụ phát sinh là căn cứ để tính số thuế GTGT phải nộp. Điều quan trọng là phải xác định một cách đúng đắn phần GTGT thực sự phát sinh qua mỗi giai đoạn sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ đến tiêu dùng. Để thực hiện được điều đó, các cơ sở sản xuất, kinh doanh cần phải áp dụng nghiêm ngặt chế độ sử dụng hoá đơn, chứng từ. Các đối tượng nộp thuế cần có đầy đủ hoá đơn đầu ra và hoá đơn đầu vào tương ứng. - Thuế suất thuế GTGT căn cứ vào loại hàng hoá, dịch vụ chứ không phân biệt ngành nghề và giá trị sử dụng của hàng hoá, dịch vụ. 2. Nội dung cơ bản của luật thuế GTGT Luật thuế GTGT ở nước ta được ban hành ngày 10 tháng 5 năm 1997 và không ngừng được bổ sung hoàn thiện, nội dung cơ bản: 2.1. Đối tượng chịu thuế GTGT Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam (bao gồm cả hàng hoá, dịch vụ mua của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài). 2.2. Đối tượng nộp thuế GTGT Các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá, mua dịch vụ từ nước ngoài chịu thuế GTGT (gọi chung là người nhập khẩu) đều là đối tượng nộp thuế GTGT. 2.3. Căn cứ tính thuế GTGT Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. 2.3.1. Giá tính thuế GTGT Giá tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ được xác định cụ thể như sau: - Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra hoặc cung ứng cho đối tượng khác là giá bán chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB là giá bán đã có thuế TTĐB nhưng chưa có thuế GTGT. Giá tính thuế đối với các loại hàng hoá, dịch vụ bao gồm cả khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở kinh doanh được hưởng, trừ các khoản phụ thu và phí cơ sở kinh doanh phải nộp ngân sách nhà nước. Trường hợp cơ sở kinh doanh áp dụng hình thức giảm giá bán thì giá tính thuế GTGT là giá bán đã giảm ghi trên hoá đơn. - Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu (nếu có), cộng thuế TTĐB (nếu có). Giá nhập khẩu tại cửa khẩu làm căn cứ tính thuế GTGT được xác định theo các quy định về giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu. - Sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu, tặng hoặc để trả thay lương (trừ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại, quảng cáo theo quy định tại Nghị định số 32/1999/NĐ-CP ngày 05/5/1999 của Chính phủ về khuyến mại quảng cáo thương mại, hội chợ triển lãm thương mại không phải tính thuế GTGT), giá tính thuế GTGT được xác định theo giá tính thuế của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại cùng thời điểm phát sinh các hoạt động này. - Đối với sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cơ sở kinh doanh xuất để tiêu dùng không phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hoặc cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT thì phải tính thuế GTGT đầu ra. Giá tính thuế tính theo giá bán của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại cùng thời điểm phát sinh. Đối với hàng hoá luân chuyển nội bộ như xuất hàng hoá để chuyển kho nội bộ, xuất vật tư, bán thành phẩm để tiếp tục quá trình sản xuất trong một cơ sở sản xuất, kinh doanh không phải tính, nộp thuế GTGT. - Đối với dịch vụ do phía nước ngoài cung ứng cho các đối tượng tiêu dùng ở Việt Nam, giá tính thuế GTGT là giá dịch vụ thanh toán cho phía nước ngoài. - Dịch vụ cho thuê tài sản như cho thuê nhà, văn phòng, xưởng, kho tàng, bến, bãi, phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị…giá tính thuế GTGT là giá cho thuê chưa có thuế. Trường hợp cho thuê theo hình thức thu tiền thuê từng kỳ hoặc thu trước tiền thuê cho một thời hạn thuê thì thuế GTGT tính trên số tiền thu từng kỳ hoặc thu trước, bao gồm cả các khoản thu dưới hình thức khác như thu tiền để hoàn thiện, sửa chữa, nâng cấp nhà cho thuê theo yêu cầu của bên thuê. Giá cho thuê tài sản do các bên thoả thuận được xác định theo hợp đồng. Trường hợp pháp luật có quy định về khung giá thuê thì giá thuê được xác định trong phạm vi khung giá quy định. - Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp, giá tính thuế là giá bán trả một lần chưa có thuế GTGT của hàng hoá đó (không bao gồm lãi trả góp), không tính theo số tiền trả góp từng kỳ. - Đối với gia công hàng hoá, giá tính thuế là giá gia công chưa có thuế GTGT, bao gồm: tiền công, tiền nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và các chi phí khác để gia công do bên nhận gia công phải chịu. - Đối với xây dựng, lắp đặt: + Trường hợp xây dựng, lắp đặt có bao thầu nguyên vật liệu thì giá tính thuế bao gồm cả giá trị nguyên vật liệu chưa có thuế GTGT. + Đối với trường hợp xây dựng, lắp đặt không bao thầu nguyên vật liệu thì giá tính thuế là giá trị xây dựng, lắp đặt không bao gồm giá trị nguyên vật liệu chưa có thuế GTGT. + Trường hợp xây dựng, lắp đặt thực hiện thanh toán theo hạng mục công trình hoặc giá trị khối lượng xây dựng, lắp đặt hoàn thành bàn giao thì giá tính thuế tính theo giá trị hạng mục công trình hoặc giá trị khối lượng công việc hoàn thành bàn giao chưa có thuế GTGT. - Đối với các cơ sở kinh doanh được Nhà nước giao đất xây nhà, cơ sở hạ tầng kỹ thuật để bán, để chuyển nhượng gắn với chuyển quyền sử dụng đất, giá tính thuế GTGT đối với nhà, cơ sở hạ tầng bán ra hoặc chuyển nhượng là giá bán, giá chuyển nhượng chưa có thuế, trừ tiền sử dụng đất theo giá đất quy định khi giao đất. Đối với cơ sở kinh doanh được Nhà nước cho thuê đất để đầu tư cho thuê cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế khác theo quy định của Chính phủ để cho thuê lại, giá tính thuế là giá cho thuê chưa có tuế GTGT, trừ giá thuê đất phải nộp NSNN. - Đối với hoạt động kinh doanh bất động sản, giá tính thuế GTGT đối với nhà, hạ tầng gắn với đất được trừ giá đất theo giá do UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định tại thời điểm bán bất động sản. - Đối với dịch vụ đại lý tầu biển, dịch vụ môi giới, uỷ thác xuất nhập khẩu và dịch vụ khác hưởng tiền công hoặc tiền hoa hồng, giá tính thuế là tiền công hoặc tiền hoa hồng được hưởng chưa có thuế GTGT. - Đối với vận tải, bốc xếp, giá tính thuế là giá cước vận tải, bốc xếp chưa có thuế GTGT, không phân biệt cơ sở trực tiếp vận tải, bốc xếp hay thuê lại. - Đối với hàng hoá, dịch vụ có tính đặc thù dùng các chứng từ như tem bưu chính, vé cước vận tải, vé xổ số kiến thiết…ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì giá chưa có thuế được xác định như sau: Giá chưa có thuế GTGT = Giá thanh toán (tiền bán vé, bán tem…) 1+ (%) thuế suất của hàng hoá, dịch vụ đó Đối với dịch vụ du lịch theo hình thức lữ hành , hợp đồng ký với khách hàng theo giá trọn gói (ăn, ở, đi lại) thì giá trọn gói được xác định là giá đã có thuế để tính thuế GTGT và doanh thu của cơ sở kinh doanh. Trường hợp giá trọn gói bao gồm các khoản không chịu thuế GTGT như chi vé máy bay vận chuyển khách du lịch từ nước ngoài vào Việt Nam, từ Việt Nam đi nước ngoài, các chi phí ăn, nghỉ, tham quan ở nước ngoài (nếu có chứng từ hợp pháp) thì các khoản chi này được tính giảm trừ trong giá (doanh thu) tính thuế GTGT. - Đối với dịch vụ cầm đồ, giá tính thuế là tiền phải thu từ dịch vụ này bao gồm tiền lãi phải thu từ cho vay cầm đồ và chênh lệch thu được từ bán hàng cầm đồ {doanh thu bán hàng phát mại trừ (-) phần phải trả khách hàng (nếu có), trừ (-) số tiền cho vay}. - Đối với sách, báo, tạp chí bán theo đúng giá phát hành (giá bìa) theo quy định của Luật Xuất bản thì giá bán đó được xác định là giá đã có thuế GTGT để tính thuế GTGT và doanh thu của cơ sở (đối với loại chịu thuế GTGT). Các trường hợp bán không theo giá bìa thì thuế GTGT tính trên giá bán ra. - Đối với hoạt động in, giá tính thuế là tiền công in. Trường hợp cơ sở in thực hiện các hợp đồng in, giá thanh toán bao gồm cả tiền công in và tiền giấy in thì giá tính thuế bao gồm cả tiền giấy. - Đối với dịch vụ đại lý giám định, đại lý xét bồi thường, đại lý đòi người thứ ba của dịch vụ kinh doanh bảo hiểm, giá tính thuế là tiền công hoặc tiền hoa hồng được hưởng, bao gồm cả khoản phí tổn cơ sở kinh doanh bảo hiểm thu được. 2.3.2. Thuế suất thuế GTGT. - Thuế suất 0%: áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, không phân biệt đối tượng xuất khẩu. - Thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ thiết yếu phục vụ trực tiếp cho sản xuất và tiêu dùng như: nước sạch phục vụ sinh hoạt, lương thực, thuốc chữa bệnh, đồ chơi trẻ em, thực phẩm tươi sống… - Thuế suất 10% áp dụng cho các hàng hoá còn lại, là những hàng hoá, dịch vụ thông thường và những hàng hoá dịch vụ có giá thanh toán cao như: dầu mỏ, khí đốt, sản phẩm điện tử, dịch vụ khách sạn, du lịch, vàng bạc, đá quý… 2.4. Phương pháp tính thuế GTGT. 2.4.1. Phương pháp khấu trừ thuế: Đối tượng áp dụng là các đơn vị, tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp thành lập theo Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác. Công thức xác định thuế GTGT phải nộp: Số thuế GTGT Phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Thuế GTGT đầu ra bằng (=) giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra nhân với (x) thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ phải tính và thu thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, Thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Trường hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi giá chưa có thuế và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn, chứng từ. Thuế GTGT đầu vào bằng (=) tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ (bao gồm cả tài sản cố định) dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT. Số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam không thuộc các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 2.4.2. Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT Đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên GTGT là: các cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không thuộc các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ. Xác định thuế GTGT phải nộp: Số thuế GTGT phải nộp = GTGT của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế x Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó GTGT của hàng hoá, dịch vụ = Doanh số của hàng hoá, dịch vụ bán ra - Giá vốn của hàng hoá, dịch vụ bán ra Phương pháp xác định GTGT làm căn cứ tính thuế GTGT phải nộp đối với từng cơ sở kinh doanh như sau: -Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán thì GTGT được xác định căn cứ vào giá mua, giá bán ghi trên chứng từ (đối tượng nộp thuế có kê khai). - Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ hoá đơn, chứng từ bán hàng hoá, dịch vụ, xác định được đúng doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ theo hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ nhưng không có đủ hoá đơn mua hàng hoá, dịch vụ thì GTGT được xác định bằng doanh thu nhân (x) với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu. - Đối với cá nhân (hộ) kinh doanh chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ hoá đơn mua, bán hàng hóa, dịch vụ thì cơ quan thuế căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ ấn định mức doanh thu tính thuế; GTGT được xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu. 3. Vai trò của thuế GTGT. -Thuế GTGT không thu trùng lắp, không gây ra hiện tượng đánh trùng thuế cho nên góp phần khuyến khích chuyên môn hoá để nâng cao năng suất chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. -Thuế GTGT thuộc loại thuế đánh vào tiêu dùng, được áp dụng rộng rãi, có phạm vi đối tượng thu rất rộng (Thu vào mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ) do đó tạo ra nguồn thu lớn cho NSNN. -Thuế GTGT góp phần khuyến khích mạnh mẽ việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu, vì hàng hoá xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0% và được hoàn trả lại toàn bộ số thuế GTGT đã thu ở khâu trước. Đồng thời nó còn kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn của hàng hoá nhập khẩu mục đích bảo vệ sản xuất kinh doanh nội địa. -Thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện tốt việc hạch toán và thực hiện mua bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ cho phép chống trốn lậu thuế, nâng cao tính hiệu quả, nâng cao tính tự giác của đối tượng kinh doanh. -Thuế GTGT góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế ở nước ta, thúc đẩy mở rộng hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Với vai trò trên của thuế GTGT cho thấy mục đích việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu là tạo thuận lợi cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh phát triển, chứ không nhằm tăng mức động viên cho NSNN hay gây khó khăn cho các doanh nghiệp. II. Kinh tế ngoài quốc doanh và sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 1. Đặc điểm của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. - Đặc điểm cơ bản của khu vực ngoài quốc doanh là mang tính sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, tính tư hữu cao và hoạt động theo cơ chế thị trường với mục đích chính là mưu cầu lợi nhuận. Khu vực ngoài quốc doanh bao gồm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ kinh doanh cá thể. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gồm: Doanh nghiệp tư nhân, công ty THNH, công ty cổ phần và các đơn vị theo hình thức HTX. - Sự phát triển của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thường mang tính tự phát và có nhiều biến động phụ thuộc vào cung cầu thị trường hàng hoá, vào những chính sách của Nhà nước trong việc khuyến khích hay hạn chế phát triển. - Quy mô sản xuất kinh doanh trong các đơn vị thường nhỏ, vốn thường tập trung chủ yếu ở các ngành thương mại, dịch vụ, sản xuất tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, khách sạn đặc biệt là dịch vụ. . .Tuy nhiên số lượng các đơn vị sản xuất kinh doanh trong khu vực này rất lớn. Các đơn vị này hoạt động ở các ngành có tính năng động cao nên dễ dàng chuyển hướng kinh doanh, dễ thích nghi với hoàn cảnh và yêu cầu của nền kinh tế. - ý thức chấp hành pháp luật của các đơn vị thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thường không cao thể hiện qua việc thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ mua bán hàng hoá chưa đầy đủ, không theo đúng quy định của Nhà nước, nếu có chỉ mang tính chất đối phó. Việc giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ chủ yếu bằng tiền mặt, rất ít trường hợp thanh toán qua ngân hàng, do đó công tác kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn. 2. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Với mục tiêu đưa nước ta nhanh tróng trở thành một nước công nghiệp hoá hiện đại hoá, kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI tháng 12 năm 1986 Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong những năm qua chúng ta đã có nhiều cố gắng để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đảng và Nhà nước tạo ra những hành lang pháp lý thuận lợi giúp cho các thành phần kinh tế phát huy hiệu quả của mình. Nhờ những chủ trương, chính sách đúng đắn của Nhà nước, khu vực tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển với cơ cấu đa dạng. Sự hình thành và phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh giữ vai trò không thể phủ nhận đối với nền kinh tế, nhất là trong tình hình nước ta hiện nay. Bằng những chính sách ưu tiên và động viên hợp lý đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, một phần lớn vốn nhàn rỗi trong xã hội đã được đưa vào kinh doanh đúng mục đích và có hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế đất nước, đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Với quy mô và hình thức kinh doanh ngày càng phong phú, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang góp phần rất lớn trong việc tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động. ở nước ta hàng năm có khoảng 1,5 triệu người đến độ tuổi lao động. Nếu như chỉ thông qua thành phần kinh tế quốc doanh thì sẽ không đủ cung cấp việc làm cho những người này, gây ra tình trạng thất nghiệp và hậu quả sẽ rất lớn. Nhờ sự phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với mọi loại hình, mọi quy mô, mọi loại ngành nghề nên đã sử dụng hết số lao động này và trên cơ sở đó tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Cùng tồn tại đan xen với thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế ngoài quốc doanh là nhân tố xúc tác quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của thành phần kinh tế quốc doanh nói riêng. Với số lượng cơ sở kinh doanh đông đảo kinh tế ngoài quốc doanh đã trở thành các đơn vị dịch vụ trung gian, đại lý tiêu thụ sản phẩm hoặc tham gia sản xuất gia công một phần một số khâu, một số công đoạn của quá trình kinh tế cho các doanh nghiệp Nhà nước. Kinh nghiệm cho thấy ở các nước đang phát triển, cơ chế thị trường và kinh tế ngoài quốc doanh đã trở thành động lực kích thích kinh tế phát triển nhanh hơn so với sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào quá trình kinh tế. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn thu cho NSNN. Với số lượng đơn vị kinh doanh đông đảo, ở mọi lĩnh vực mọi ngành nghề đã đem lại một nguồn thu lớn cho NSNN (Trên 4000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và trên 2 triệu hộ kinh doanh cá thể). Đây là tiềm năng rất lớn của nền kinh tế. Nếu có cơ chế quản lý tốt thì mức động viên từ khu vực kinh tế này sẽ ổn định và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thu NSNN. Xuất phát từ vị trí, vai trò cũng như tầm quan trọng của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh với toàn xã hội nói chung và đối với nền kinh tế quốc dân nói riêng, Đảng và Nhà nước đang tạo mọi điều kiện để thành phần kinh tế này ngày càng phát triển và đưa nó trở thành một thành phần kinh tế quan trọng tạo ra hiệu quả kinh tế và xã hội cao cho đất nước, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng nền kinh tế nhanh chóng đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại. 3.Sự thất thu thuế GTGT và hậu quả của thất thu thuế trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong những năm gần đây, nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ đã khuyến khích các thành phần kinh tế tham giá tích cực vào hoạt động sản xuất kinh doanh làm tăng lượng hàng hoá cho xã hội và tăng lợi nhuận cho người kinh doanh đặc biệt trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, từ đó thu hút và tạo ra hàng triệu việc làm cho người lao động, đồng thời góp phần làm thay đổi đáng kể cơ cấu ngành sản xuất, phân công lao động trong nền kinh tế nước ta. Nhưng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc47.doc
Tài liệu liên quan