Đề tài Nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của nước ta hiện nay

Không thể có một quốc gia nào trên thế giới tồn tại độc lập, phát triển có hiệu quả mà không có mối quan hệ nào với các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Bởi vì ngày nay hai phạm trù thực tiễn tồn tại khách quan đó là: Quan hệ hàng hoá tiền tệ và sự trao đổi này đã ra khỏi phạm vi của một quốc gia và sự tồn tại của các quốc gia độc lập có chủ quyền. Cho nên quan hệ kinh tế giữa các nước mang tính tất yếu khách quan.

Toàn cầu hoá là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại . Cách đây hơn 150 năm,Các Mác đã dự báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành hịên thực.Theo ông,xu hướng toàn cầu hoá,mà trước hết là toàn cầu hoá kinh tế,bắt nguồn từ quá trình xã hội hoá lao động,xã hội hoá sản xuất và cùng với nó là việc mở rộng nền sản xuất hàng hoá.Đối với Việt Nam,trong quá trình đổi mới,Đảng ta đã khẳng định: Nội lực là nhân tố quyết định ,nhưng ngoại lực cũng là nhân tố rất quan trọng cho sự phát triển đất nước.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996)đà nêu rõ :”Trong hoàn cảnh mới ,chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở,đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại ,hướng mạnh về xuất khẩu”.

 

doc18 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1110 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu: Không thể có một quốc gia nào trên thế giới tồn tại độc lập, phát triển có hiệu quả mà không có mối quan hệ nào với các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Bởi vì ngày nay hai phạm trù thực tiễn tồn tại khách quan đó là: Quan hệ hàng hoá tiền tệ và sự trao đổi này đã ra khỏi phạm vi của một quốc gia và sự tồn tại của các quốc gia độc lập có chủ quyền. Cho nên quan hệ kinh tế giữa các nước mang tính tất yếu khách quan. Toàn cầu hoá là một xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại . Cách đây hơn 150 năm,Các Mác đã dự báo xu hướng này và ngày nay đã trở thành hịên thực.Theo ông,xu hướng toàn cầu hoá,mà trước hết là toàn cầu hoá kinh tế,bắt nguồn từ quá trình xã hội hoá lao động,xã hội hoá sản xuất và cùng với nó là việc mở rộng nền sản xuất hàng hoá.Đối với Việt Nam,trong quá trình đổi mới,Đảng ta đã khẳng định: Nội lực là nhân tố quyết định ,nhưng ngoại lực cũng là nhân tố rất quan trọng cho sự phát triển đất nước.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996)đà nêu rõ :”Trong hoàn cảnh mới ,chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở,đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại ,hướng mạnh về xuất khẩu”. I.Lý luận chung : 1.Khái niệm về kinh tế đối ngoại: Kinh tế đối ngoại là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân,bao gồm nhiều ngành kinh tế ,qua đó một quốc gia tham gia vaò sự trao đổi quốc tế và phân công lao động quốc tế.Kinh tế đối ngoại gồm tổng thể các hoạt động,các quan hệ kinh tế,tài chính và khoa học_kĩ thuật của một nước với các nước khác và các tổ chức kinh tế quốc tế. Sự phát triển của hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi nước đã đưa kinh tế đối ngoại trở thành một lĩnh vực phong phú,đa dạng và quan trọng.Kinh tế đối ngoại chỉ có thể phát triển bền vững và mở rộng hoạt động trên cơ sở một chiến lược và những chính sách nhất quán với sự quản lí vĩ mô của nhà nước . Lĩnh vực kinh tế đối ngoại luôn biến động và gắn liền với những biến động về chính trị và kinh tế thế giới.Xu hướng hiện nay là kinh tế đối ngoại không ngừng được mở rộng trong quá trình hội nhập,mỗi nước đang tích cực tham gia vào hợp tác và phân công lao động quốc tế. Nội dung chủ yếu trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam bao gồm : -Ngoại thương -Đầu tư vốn nước ngoài vào Việt Nam -Đầu tư vốn của Việt Nam ra nước ngoài -Hợp tác và chuyển giao công nghệ -Hoạt động của các dịch vụ có thu ngoại tệ 2.Chức năng và nhiệm vụ của kinh tế đối ngoại: 2.1.Chức năng của kinh tế đối ngoại: -Thực hiện tham gia vào sự phân công lao động quốc tế và sự trao đổi mậu dịch quốc tế,tạo cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới. -Bảo đảm sự phát triển nhanh chóng và cân đối cho nền kinh tế quốc dân. -Khai thác triệt để các lợi thế so sánh của từng nước, nhằm đạt quy mô tối ưu cho các ngành sản xuất, tạo điều kiện xây dựng một số ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy các nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu, nâng cao tốc độ tăng trưởng và hiệu quả của nền kinh tế quốc dân. -Sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tạo thêm việc làm, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ, nâng cao đời sống của nhân dân. 2.2.Nhiệm vụ của kinh tế đối ngoại: -Tạo nguồn vốn từ kinh tế đối ngoại Thông qua các hoạt động kinh tế đối ngoại(đầu tư trực tiếp và gián tiếp, xuất-nhập khẩu, chuyển giao công nghệ, hoạt động cuả các dịch vụ có thu ngoại tệ) để tăng tích luỹ đầu tư phát triển xã hội, góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học kĩ thuật cho đất nước, từng bước thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa nước ta với các nước trên thế giới. -Góp phần đổi mới cơ cấu kinh tế: Thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý về ngành cũng như trên địa bàn lãnh thổ, giải quyết mối quan hệ và lợi ích phát triển giữa toàn cục với bộ phận, cả nước với từng vùng, phát huy sức mạnh của từng vùng, đầu tư có trọng điểm ở từng thời kỳ và gắn với thị trường thế giới.Các thành phần kinh tế được động viên tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại theo sự qui định và phân công hợp lý, thống nhất, lấy sản xuất làm khâu trung tâm(bảo đảm cho kinh tế quốc doanh giữ được vai trò chủ đạo trong cơ chế kinh tế nhiều thành phần, tham gia kinh tế đối ngoại).Thông qua kinh tế đối ngoại sẽ chuyển dần lao động từ khu vực I sang khu vực II và III đồng thời nâng dần tỷ trọng khu vực II và III trong GDP. -Góp phần cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, tăng thêm dự trữ ngoại tệ . Hoạt động kinh tế đối ngoại về cơ bản dựa trên lợi thế so sánh, tất yếu phải mang lại hiệu quả kinh tế, kinh doanh phải có lãi. Phần lãi góp vào việc tăng thêm dự trữ ngoại tệ, bảo đảm cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Thông qua nguồn thu thuế, phí, lệ phí hoạt động đa dạng của kinh tế đối ngoại đã và đang góp phần tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. 3.Tính tất yếu phải nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của nước ta hiện nay: Nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan là xu thế của thời đại ngày nay của mọi quốc gia trên thế giới do: - Do cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát triển hết sức mạnh mẽ với những nội dung:tự động hoá,vật liệu mới,công nghệ mới…tạo ra nhiều thành tựu khoa học công nghệ mới đòi hỏi phải được áp dụng sản xuất ở mọi doanh nghiệp mọi quốc gia nó tạo ra những ngành nghề mới mà không có một quốc gia nào trên thế giới có đầy đủ những yếu tố đầu vào để sản xuất nó ,hơn nữa đầu ra của các sản phẩm đó cũng không phải tiêu thụ ở trong nước hoặc trong một số ít nước khác mà phải tiêu thụ ở nhiều nước .Do đó sự phát triển khoa học công nghệ,thúc đẩy quá trình phân công lao động mở rộng phát triển vượt ra khỏi phạm vi từng quốc gia mang tính quốc tế.Khi đó lực lượng sản xuất ngày càng mang tính quốc tế hoá cao các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau trong qúa trình phát triển .Vì vậy muốn phát triển ,muốn nền kinh tế đạt hiệu quả cao ,phát triển ,ổn định,bền vững thì các quốc gia phải mở rộng quan hệ với bên ngoài . - Do lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế tức là trong nền kinh tế lực lượng sản xuất mang tính quốc tế hoá cao thì các quốc gia đều bằng mọi cách phát huy các lợi thế trong nước tranh thủ những thế mạnh từ bên ngoài để sản xuất những sản phẩm chi phí thấp nhất hiệu quả cao nhất. - Do sự phát triển mạnh mẽ của thị trường thế giới muốn phát huy được thế mạnh tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài phải giao lưu mở rộng quan hệ kinh tế với nhau. II. Thực trạng kinh tế đối ngoại 1.Những thành tựu về kinh tế đối ngoại: 1.1.Ngoại thương: 1.1.1.Xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu được mở rộng, cùng với sự gia tăng về qui mô, chủng loại, các loại hình thị trường. Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2005 ước đạt gần 23,5 tỷ USD, tăng 21,1% so với cùng kì năm 2004, trong đó xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn FDI (không kể dầu thô)ước đạt gần 7,9 tỷ USD, tăng 22,5% và chiếm 33,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nếu tính cả dầu thô thì xuất khẩu của khu vực có vốn FDI ước đạt gần 13,3 tỷ USD, tăng 26,5% so với cùng kì năm 2004.Trong đó, một số mặt hàng xuất khẩu vẫn đạt mức tăng trưởng cao là dầu thô đạt 13,3 triệu tấn, tương đương với 5,45 tỷ USD( tăng 33% so với cùng kỳ năm 2004) do giá thế giới tăng cao (tăng 46% so với cùng kỳ), tuy nhiên lượng dầu thô xuất khẩu lại giảm 9,3%; sản phẩm gỗ tăng 47,4%, sản phẩm nhựa tăng 46%; than đá tăng 35,6%;hàng điệ tử, vi tính và linh kiện tăng 34%; rau quả tăng 34,8; dây điện và dây cáp điện tăng 30%; gạo tăng 32,6%. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng của hàng công nghiệp, dịch vụ, hàng chế biến, giảm tỷ lệ hàng xuất khẩu thô sơ chế. Nhiều sản phẩm đã đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD như dầu thô, dệt may, thuỷ sản, giày dép; lần đầu tiên các sản phẩm như: gỗ, hàng điện tử đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD. Cơ cấu thị trường đã chuyển dịch theo hướng tích cực, trước đây chủ yếu tập trung ở các nước ASEAN, nay mở rộng sang các nước như Hoa Kỳ,EU, Nhật Bản. Hiện nay Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng cao nhất so với các thị trường khác trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Nhờ có cơ chế chính sách thương mại ngày càng thông thoáng, đang được bổ sung hoàn thiện theo các quy định quốc tế, hoạt động xuất khẩu đã thu hút được đông đảo các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia; ngoài doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân trong nước và nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào mức tăng trưởng xuất khẩu nói chung của cả nước . Thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Việt Nam xác định thực hiện Chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thực tiễn 20 năm đổi mới vừa qua đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối này. 1.1.2. Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu 9 tháng đầu năm 2005 ước đạt gần 27,4 tỷ USD, tăng 19,2% so cùng kỳ năm 2004; trong đó các doanh nghiệp có vốn FDI nhập khẩu đạt 9,8 tỷ USD, tăng 23%. Các mặt hàng nhập khẩu tăng trong 9 tháng đầu năm là: linh kiện, phụ tùng ô tô (+80,2%), linh kiện, phụ tùng xe máy (+26,4%), vi tính, điện tử , linh kiện(+35,8%),hoá chất các loại(+30%), giấy (+23%), bông (+20%), vải (+18,7%), xăng dầu các loại (+8,2%). Hoạt động nhập khẩu về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu phát triển, góp phần nâng cao năng lực sản xuất trong nước và góp phần to lớn thúc đẩy tăng xuất khẩu của cả nước. Quy mô và tốc độ nhập khẩu tăng. Cơ cấu hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị và nguyên nhiên vật liệu (chiếm tỷ trọng trên 90% tổng kim ngạch nhập khẩu). Nhập khẩu cung ứng đủ máy móc, thiết bị,phụ tùng cho đầu tư, mở rộng sản xuất; nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và kinh doanh; do sản xuất hàng hoá trong nước phát triển nên nhập khẩu hàng hoá phục vụ tiêu dùng trực tiếp chiếm tỷ trọng nhỏ. 1.2.Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam : Với kết quả thu hút đầu tư nước ngoài trong 10 tháng đầu năm, mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài năm 2005 về cơ bản đã về đích, đánh dấu sự phục hồi rõ nét nhất dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực. Trong 10 tháng đầu năm 2005, 659 dự án mới được cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 2,98 tỷ USD, 403 lượt dự án tăng vốn mở rộng đầu thêm khoảng 1,6 tỷ USD, tổng vốn đăng ký mới và tăng vốn đã đạt con số 4,58 tỷ USD, tăng 41,7% so với cùng kỳ năm trước, vượt 2% so với mục tiêu đề ra cho cả năm (4,5 tỷ USD).Cùng với việc gia tăng nguồn vốn đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục khởi sắc. Trong 10 tháng đầu năm 2005, doanh thu của khu vực đầu tư nước ngoài đạt 18,9 tỷ USD, tăng 35,4% so với cùng kỳ. 1.3.Hợp tác và chuyển giao khoa học công nghệ: Trong những năm qua hoạt động hợp tác quốc tế (bao gồm cả chuyển giao công nghệ) đã có nhiều thành tựu, đem lại hiệu quả to lớn đối với công cuộc giải phóng dân tộc và kiến thiết đất nước.Với phương châm vừa tăng cường nội lực vừa tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ cùng nhiều hình thức phong phú, đa dạng khác, nền khoa học - công nghệ quốc gia đã không ngừng lớn mạnh, trực tiếp làm ra nhiều sản phẩm cho đời sống kinh tế - xã hội,làm giàu thêm tiềm năng tri thức, trí tuệ Việt Nam, có những đóng góp đáng kể cho khoa học – công nghệ thế giới.Trong thời gian vừa qua, hợp tác quốc tế về khoa học – công nghệ đã chứng tỏ vai trò và vị trí quan trọng của mình với những thành tựu chủ yếu như sau: Tiếp thu và cập nhập tri thức mới của thế giới, tiếp cận với nền khoa học hiện đại và công nghệ tiên tiến, trang bị kiến thức chuyên môn cho nhiều thế hệ các cán bộ khoa học – công nghệ, đồng thời học hỏi, thu nhận được nhiều phương pháp, kinh nghiệm tổ chức quản lý khoa học và tiến hành nghiên cứu của nước ngoài; Giới thiệu, quảng bá các thành tựu khoa học, tiềm năng của khoa học và công nghệ, những vấn đề cấp bách của Việt Nam với nước ngoài nhằm tăng cường hiểu biết, thúc đẩy hợp tác quốc tế về khoa học- công nghệ và về các lĩnh vực liên quan… Sau khi nước ta trở thành thành viên chính thức của ASEAN(năm 1995), thành viên APEC(năm 1998) và ký hiệp định Thương mại với Mỹ(năm 2000)…,các hoạt động hợp tác, giao lưu quốc tế, trong đó có lĩnh vực hợp tác, giao lưu quốc tế, trong đó có lĩnh vực hợp tác chuyển giao khoa học – công nghệ đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. 2.Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân: 2.1.Ngoại thương: 2.1.1.Xuất khẩu: Tỷ trọng xuất khẩu nguyên vật liệu hàng nông sản hàng công nghiệp chế biến gia công chiếm tỷ trọng cao, tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến công nghệ cao tuy có gia tăng nhưng còn thấp, hiện nay mới chiếm 38%. Hơn nữa, tỷ lệ giá trị gia tăng trong tổng giá trị của hàng hoá xuất khẩu còn thấp, điều này cho thấy nến kinh tế Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào công nghiệp phụ trợ vốn chưa được phát triển trong nước, còn mang nặng tính chất gia công chế biến, xuất khẩu nguyên vật liệu thô là chủ yếu. Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp và bản thân nền kinh tế. Xét về các tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng tổ chức tiêu thụ và thương hiệu của doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của nước ta thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới. Những ưu thế của nước ta về nguyên vật liệu dồi dào, sức lao động rẻ đang vấp phải cạnh tranh quốc tế gay gắt, nhất là của Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước trong khu vực hiện nay. Tình trạng nhập siêu liên tục gia tăng với quy mô tuyệt đối. Năm 2005 mới qua 4 tháng đã nhập siêu 1.176 triệu USD cao gấp 1,2 lần mức nhập siêu của cùng kỳ năm 2004 nhập siêu qua 4 tháng ở mức gần 19%. Sự yếu kém về xuất khẩu có nguyên nhân cuả việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, chúng ta chưa tạo được những ngành kinh tế chủ lực dựa trên các lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh của đất nước.Mặt khác, một số chính sách liên quan đến tăng trưởng xuất khẩu cần được bổ sung hoàn thiện trong điều kiện mới. Cụ thể, chính sách bảo hộ thị trường trong nước chưa khuyến khích các doanh nghiệp tận dụng cơ hội để kinh doanh các sản phẩm trong nước. 2.1.2.Nhập khẩu: Nhập khẩu lớn về nguyên, nhiên liệu, nhất là nguyên liệu gia công sản xuất các ngành như dệt may, giày dép. Điều đó thể hiện sự phụ thuộc đáng kể của sản xuất vào thị trường cung cấp ở nước ngoài. Sự phụ thuộc về đầu vào này khiến cho nền kinh tế gặp bất lợi mỗi khi giá các nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu chủ yếu của nước ta tăng cao trên thị trường thế giới (như xăng dầu, phôi thép, phân bón, chất dẻo nguyên liệu…), làm tăng chi phí sản xuất trong nước, giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Thị trường nhập khẩu của Việt Nam vẫn là thị trường châu Á- Thái Bình Dương nên công nghệ, máy móc, thiết bị nhập khẩu đa số là công nghệ trung gian; thị trường Âu - Mỹ còn chiếm tỷ trọng chưa cao nên chưa tiếp cận được nhiều công nghệ nguồn, công nghệ cao ; hơn nữa, do thiếu vốn nên nhiều doanh nghiệp phải nhập khẩu hàng đã qua sử dụng, mức độ lạc hậu khá lớn, ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng, giá thành sản xuất, làm giảm chất lượng hàng xuất khẩu, hạn chế khả năng cạnh tranh, hơn nữa còn gây tác hại tới môi trường. Do vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế còn yếu, nhiều trường hợp phải chịu những đối xử bất bình đẳng của các nước lớn, do Việt Nam vẫn chưa là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Giá nhiều mặt hàng nhập khẩu chủ chốt trên thế giới tăng, giá dầu thô leo thang dẫn đến giá nhiều nguyên liệu dẫn xuất cuả dầu thô cũng tăng giá, nhu cầu gia tăng ở nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới là những yếu tố làm giá hàng nhập khẩu tăng. Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu hợp lý để đáp ứng nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng trong nước tăng. 2.2. Đầu tư nước ngoài: Từ năm 2000 đến nay, vốn FDI vào Việt Nam đã phục hồi nhưng còn chậm và chưa bền vững. Có nhiều nguyên nhân lý giải tình trạng suy giảm và chậm phục hồi của FDI vào Việt Nam, trong đó nguyên nhân quan trọng là hệ thống pháp luật và chính sách về FDI của Việt Nam còn nhiều qui định không tạo thuận lợi, thậm chí gây khó khăn cho hoạt động FDI, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.Đây chính là các rào cản pháp lý đối với hoạt động FDI tại Việt Nam. 2.3.Hợp tác và chuyển giao khoa học công nghệ: Quan hệ hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ chủ yếu mang tính chất đơn cực, đối tác chính là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây(với một số chương trình / dự án chưa phải là lớn của các cơ quan Liên hợp quốc, của Pháp, Ấn Độ, Thuỵ Điển, Hà Lan,...Hình thức hợp tác chủ yếu về khoa học – công nghệ trước thời kỳ Đổi mới là song phương, chủ yếu diễn ra giữa Nhà nước ta với một số nước và tổ chức quốc tế, do đó có đặc điểm tập trung và bao cấp, không khuyến khích các quan hệ trực tiếp giữa các tổ chức, cá nhân và với thành phần tư nhân. III.Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của nước ta hiện nay: 1.Thực hiện cải cách hành chính theo hướng gọn nhẹ, có hiệu lực Giải pháp này đã được nhận thức rất rõ ràng ở Việt Nam. Hiện nay, những cải cách kiểu này đang được thí nghiệm ở thành phố Hồ Chí Minh theo cơ chế quản lý “một cửa”đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Kết quả thực hiện thể hiện rất rõ triển vọng thành công, được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ, đặc biệt là giới doanh nghiệp; tiết kiệm đáng kể những chi phí, thời gian không cần thiết; giảm rõ rệt nạn tiêu cực, quan liêu,v.v… Tuy nhiên, đây mới chỉ là bước đầu, trong thời gian tới việc vận dụng mở rộng trong cả nước có thành công được hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự chỉ đạo thống nhất, có định hướng rõ ràng của cấp lãnh đạo từ Trung ương tới địa phương, trong đó cũng phải kể tới sự hưởng ứng nhiệt tình của quần chúng. 2.Hoàn thiện hệ thống luật pháp một cách đồng bộ, phù hợp với hệ thống luật pháp và thông lệ quốc tế Yêu cầu đặt ra đối với hệ thống luật pháp hiện nay là việc thông qua và ban hành luật phải kèm theo các văn bản dưới luật- các văn bản hướng dẫn thực hiện với mức độ cụ thể, chi tiết để có thể thi hành được.Đồng thời, phương pháp giáo dục tuyên truyền cần có những thay đổi phù hợp nhằm nâng cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết và thi hành luật pháp (như tăng cường hơn nữa môn học giáo dục pháp luật ở các cấp nhà trường, mở các lớp đào tạo ngắn hạn đủ để nắm bắt những thông tin quan trọng nhất của những luật mới ban hành đến từng cấp cơ sở của các ngành, các địa phương, v.v…). Việc thi hành pháp luật cần có sự trợ giúp của các cơ quan chức năng, của các trung tâm tư vấn và có sự kiểm soát chặt chẽ từ trên xuống ,giảm thiểu tinh trạng hiểu sai, áp dụng sai hoặc theo kiểu “phép vua thua lệ làng”.Việc ban hành luật đã khó nhưng việc áp dụng nó một cách nhất quán,đồng bộ,công minh còn khó hơn.Bởi vậy vấn đề quan trọng là cần tăng cường pháp chế đi đôi với việc soạn thảo và ban hành hệ thống văn bản pháp luật, từ các cơ quan lập pháp đến hành pháp và tư pháp. 3.Xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội Điều kiện này đã được đề cập đến từ lâu nay ở Việt Nam, nhưng kết quả đạt được hoàn toàn chưa hẳn như chúng ta mong muốn. Hệ thống cơ sở hạ tầng đã có cải thiện, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại của đất nước (phát triển thương mại và đầu tư quốc tế).Đó là do thiếu quy hoạch tổng thể, đồng thời những quy hoạch chi tiết cụ thể cho từng bộ phận, từng vùng không được tuân thủ thực hiện nghiêm ngặt nên vốn đầu tư nhiều khi không sử dụng hoàn toàn theo mục đích ban đầu, chất lượng công trình không bảo đảm, những vùng hoặc lĩnh vực cần được ưu tiên có khi lại không được thực hiện trước. Chính vì vậy các bước lập quy hoạch ,kế hoạch xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng hiện cần phải qua sự kiểm soát, chỉ đạo trực tiếp của chính phủ từ cấp Trung ương đến địa phương và đến cơ sở thực hiện. 4.Bảo đảm việc đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ của người lao động Trước hết cần nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, đồng thời thực hiện cải cách cơ chế tuyển dụng nhân công - sử dụng người đúng mục đích, đúng năng lực. Bước đầu tiên cần khôi phục hệ thống các trường dạy nghề để đào tạo tay nghề cho đội ngũ lao động phổ thông. Nếu chỉ hoàn toàn dựa vào khả năng trong nước thì mục tiêu đào tạo nghề phù hợp với thực tế và yêu cầu sử dụng khó có thể thực hiện được vì chúng ta thiếu vốn đầu tư, thiếu những chuyên gia lành nghề, đặc biệt là những nghề đòi hỏi kỹ thuật cao như công nghệ hoá dầu, điện tử lắp ráp ô tô,…Một trong những cách tháo gỡ ở đây là thực hiện mô hình liên doanh liên kết giữa các trường,trung tâm dạy nghề của Việt Nam với các tổ chức hoặc các công ty, tập đoàn quốc tế nhằm kết hợp được các yếu tố về vốn, con người, cơ sở vật chất, địa bàn giữa hai bên cùng đào tạo hay cùng sử dụng số học viên ssau khi ra trường. 5.Giải pháp về thu hút nguồn vốn từ bên ngoài Mặc dù tích luỹ trong nước tăng đáng kể, nhu cầu tài trợ từ bên ngoài của Việt Nam vẫn lớn.Với mức tổng dư nợ nước ngoài cao và khả năng trả nợ nước ngoài của Việt Nam trong trung hạn vẫn còn hạn chế, phần lớn nhu cầu tài chính bên ngoài này cần phải ở dưới dạng nguồn vốn FDI và dưới dạng tài trợ với điều kiện ưu đãi. Việt Nam vẫn là một nước được các nhà đầu tư nước ngoài chú ý vì có một đội ngũ lao động siêng năng và chăm chỉ làm việc, vừa gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á(ASEAN) và đang xin gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO).Tuy nhiên, không thể tự nhiên và đảm bảo rằng sẽ có một nguồn vốn FDI đáng kể trong trường hợp hiện nay với các diễn biến trong khu vực Đông Nam Á.Vì vậy, Chính phủ cần phải đặc biệt chú tâm đến việc tháo gỡ các hạn chế về luật lệ và hành chính, nhất là về chế độ thương mại và đầu tư đang làm vướng mắc việc triển khai các dự án hướng về xuất khẩu. Nếu có cải cách một cách kiên quyết và triển khai nhanh chóng, môi trường quốc tế vẫn thuận lợi, luồng vốn FDI có thể chiếm đến trên 50% nhu cầu tài chính của Việt Nam. Nhưng nếu luồng FDI này sẽ giảm xuống thấp hơn dự đoán, mặc dù đã có nhiều cố gắng cải cách trong nước, Việt Nam cần phải chấp nhận một mức tăng trưởng thấp thay vì cố gắng duy trì tăng trưởng nhanh bằng cách vay mượn với điều kiện không ưu đãi. Trong khuôn khổ đẩy mạnh cải cách của Chính phủ, nguồn tài trợ phát triển chính thức(ODA) vẫn đóng vai trò to lớn và quan trọng. Tuy có một luồng FDI lớn, Việt Nam vẫn cần có một nguồn ODA đáng kể để có thể đạt được các mục tiêu phát triển trung hạn. Do nghĩa vụ trả nợ lớn, Việt Nam cần tiếp tục duy trì một chiến lược vay nợ thận trọng, kiểm soát chặt các khoản nợ nước ngoài, đặc biệt là các khoản nợ không ưu đãi. Gần đây, Chính phủ muốn khai thác các nguồn vốn không ưu đãi. Gần đây, Chính phủ muốn khai thác các nguồn vốn không ưu đãi nhằm hỗ trợ các mục tiêu tăng trưởng. Nhưng nỗ lực tăng tốc độ tăng trưởng thông qua việc tạo ra một khối lượng lớn về nợ không ưu đãi như vậy có thể sẽ phương hại đến sự ổn định kinh tế vĩ mô. Về trung hạn, Chính phủ cần tiếp tục hạn chế các khoản vay nợ không ưu đãi của khu vực nhà nước nhằm đảm bảo sự nhất quán giữa nghĩa vụ trả nợ với các mục tiêu lạm phát, thâm hụt ngân sách và cán cân thanh toán. Trong điều kiện đó, Chính phủ cần xử lý một cách thận trọng trong việc phát hành các trái phiếu quốc tế của mình. Chính phủ cũng cần phải tăng cường khả năng quản lý nợ nước ngoài. Hiện nay, cả hai khuôn khổ luật lệ và hành chính của việc quản lý nợ nước ngoài rất yếu kém. Các nghị định và quy định về quản lý nợ nước ngoài, nhất là Nghị định 58/CP, cần phải được xem xét lại. Đồng thời với việc xem xét lại khuôn khổ luật lệ hiện nay về quản lý nợ nước ngoài, Chính phủ cần phải tăng cường và làm rõ hơn trách nhiệm hành chính trong việc quản lý nợ nước ngoài. Một bước quan trọng là việc thành lập một cơ chế phối hợp liên bộ cho việc quản lý nợ nước ngoài. Gần đây, Chính phủ đã bắt đầu việc dự thảo một chương trình hành động cho quản lý nợ nước ngoài, gồm cả cải cách về luật và hành chính. Cần dành ưu tiên cho việc hoàn thành kế hoạch hành động và triển khai kế hoạch này. Viện trợ kỹ thuật cho việc triển khai kế hoạch hành động này sẽ có vai trò quan trọng cho thành công của kế hoạch này. Kết luận: Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, kinh tế đối ngoại đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ, tham gia có hiệu quả vào sự phân công lao động và trao đổi mậu dịch quốc tế, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế quốc dân cũng như các lĩnh vực liên quan đến kinh tế đối ngoại.Để đẩy nhanh quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực trong bối cảnh toàn cầu hoá, Việt Nam đã và đang thực hiện những giải pháp tích cực để thực hiện đường lối phát triển kinh tế đối ngoại, tiếp thu những kinh nghiệm thương mại, kinh tế và khoa học, công nghệ tiên tiến của các nước, tạo điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, mỗi nước có những lợi thế về tài nguyên, vị trí địa lý, về vốn, công nghệ, lao động rất khác nhau, ngoài ra có những đặc điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội rất riêng biệt. Cho nên để phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại có hiệu quả nhất, trong từng giai đoạn phát triển tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế trong và ngoài nước mà hoạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc111049.doc
Tài liệu liên quan