Đề tài Nghi lễ tang ma trong đời sống của người Thổ ở Giai Xuân, Tân Kỳ

Trước khi mang đi chôn, linh hồn người chết được đưa đithăm anh em. Đây là

nghi lễđểchào anh em họhàng, làng xóm trước khi vềthếgiới bên kia. Trong

nghi lễnày, họhàng, làng xóm ai được mời thì đến và người mời phải chuẩn bị

một bữa cơm đểchia tay. Đồng bào dùng rơm hoặc vải bện thành hình nhân thay

cho người chết. Hình nhân được cáng bằng võng đến từng nhà, những người

khiêng cáng phải là con cháu nội tộc, không được dùng người ngoài.

Đến mỗi nhà, thầy Mo thay mặt người chết cảm ơn tình cảm của chủnhà và

chào vĩnh biệt. Chủnhà khóc lóc kểlại công đức của người chết và tỏlòng tiếc

thương của mình. Thăm họhàng, làng xóm xong, người chết được đưa đến bến

sông, cánh đồng, giếng nước., tại đây những người thân trong gia đình thay mặt

người chết kểlại những kỷniệm của người chết.

pdf10 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1002 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Đề tài Nghi lễ tang ma trong đời sống của người Thổ ở Giai Xuân, Tân Kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghi lễ tang ma trong đời sống của người Thổ ở Giai Xuân, Tân Kỳ Tang ma là một hình thức tín ngưỡng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, góp phần phản ánh đặc trưng văn hoá, phong tục tập quán cổ truyền của từng cộng đồng tộc người. Bài viết này giới thiệu về nghi lễ tang ma của người Thổ ở Giai Xuân, Tân Kỳ, Nghệ An, góp phần tái hiện phần nào bức tranh sinh hoạt văn hoá xã hội tộc người của người Thổ trước đây nói chung và người Thổ ở Giai Xuân, Tân Kỳ hiện nay nói riêng. Qua đó đưa ra những ý kiến đóng góp vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc xây dựng đời sống văn hoá mới đối với các dân tộc miền núi, nhằm đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, thực hiện hiệu quả cuộc cách mạng văn hoá tư tưởng rộng khắp ở các v Tang ma là một hình thức tín ngưỡng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, góp phần phản ánh đặc trưng văn hoá, phong tục tập quán cổ truyền của từng cộng đồng tộc người. Bài viết này giới thiệu về nghi lễ tang ma của người Thổ ở Giai Xuân, Tân Kỳ, Nghệ An, góp phần tái hiện phần nào bức tranh sinh hoạt văn hoá xã hội tộc người của người Thổ trước đây nói chung và người Thổ ở Giai Xuân, Tân Kỳ hiện nay nói riêng. Qua đó đưa ra những ý kiến đóng góp vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc xây dựng đời sống văn hoá mới đối với các dân tộc miền núi, nhằm đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, thực hiện hiệu quả cuộc cách mạng văn hoá tư tưởng rộng khắp ở các vùng dân tộc thiểu số, từ đó góp phần gìn giữ và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp trong đời sống cộng đồng tộc người. Dân tộc Thổ là một cộng đồng cư dân gồm nhiều nhóm địa phương như Kẹo, Mọn, Cuối, Đan Lai, Ly Hà, Tày Poọng. Theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/1999, cộng đồng Thổ ở nước ta có 68.394 người (chiếm 0,09% dân số cả nước), hiện nay cư trú ở miền núi Nghệ An và Thanh Hoá, đây vốn là giao điểm của các luồng di cư xuôi ngược trong tiến trình lịch sử. Do những biến động lịch sử, xã hội khác nhau, những nhóm người Mường từ vùng miền Tây Thanh Hoá di chuyển vào phía Nam gặp gỡ với người Việt từ các huyện ven biển Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Thanh Chương ngược lên hoà nhập với cư dân địa phương ở đây. Những người tha hương cùng chung cảnh ngộ ấy ngày một hoà nhập vào nhau thành một cộng đồng chung - Dân tộc Thổ (Nguyễn Văn Huy (2001), tr. 162). Ở Nghệ An, dân tộc Thổ có 56.345 người (1/4/1999) sinh sống ở các huyện Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Quỳ Hợp, Con Cuông và Tương Dương. Trong đó, huyện Tân Kỳ là nơi cộng đồng người Thổ sống tập trung đông nhất, chủ yếu ở 3 xã Giai Xuân, Tân Hợp và Tân Xuân với số dân 14.642 người, chiếm khoảng 10% dân số toàn huyện. Người Thổ nơi đây được chia làm hai nhóm địa phương với một số nét khác biệt về ngôn ngữ và đặc trưng sinh hoạt văn hoá trong đời sống cộng đồng tộc người là Thổ Mọn và Thổ Cuối. Theo gia phả của một số dòng họ người Thổ nơi đây cho biết, Thổ Mọn thực chất vốn là người Mường di cư từ vùng Thanh Hoá vào, Thổ Cuối được coi là cư dân tại chỗ (Nguyễn Đình Lộc (1993), tr.36) với địa bàn cư trú chủ yếu là xã Giai Xuân. Xưa kia, nghi lễ tang ma của người Thổ ở Giai Xuân rất phức tạp và tốn kém, phải giết trâu mổ lợn, cúng bái linh đình. Một đám tang ở vùng Giai Xuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 phải giết tới 12 con trâu (Nguyễn Văn Huy (2001), tr. 163). Cũng như nhiều dân tộc anh em khác, họ cho rằng đám tang là nghi lễ để tiễn đưa linh hồn của người chết sang một thế giới khác. Thế giới đó chưa phải là hết mà người chết lại tiếp tục một cuộc sống mới. Người Thổ nơi đây cũng có quan niệm về con người có ba hồn bảy vía hoặc ba hồn chín vía như người Kinh. Với những quan niệm như trên, người Thổ đã chuẩn bị cho một lễ tang rất chu đáo, cẩn thận và cũng rất phức tạp, tốn kém nhằm tiễn đưa linh hồn người chết về với thế giới bên kia. 1. Quá trình chuẩn bị tang lễ * Báo tang Khi trong gia đình có người chết, chủ nhà lập tức phải sắm một lễ nhỏ gồm: cau, trầu và một chai rượu đến báo với Trùm làng(*). Trùm làng đánh ba hồi chín tiếng trống (có làng đánh đồng thời cả cồng và trống) để báo hiệu cho cả làng biết trong làng có người vừa mới qua đời. Đồng thời chủ nhà cũng phân công người đi báo tin cho con cháu, họ hàng ở những nơi xa biết để cùng đến tổ chức tang lễ, cắt đặt mọi việc cho đám tang như mời thầy Mo, mời phường nhạc, làm quan tài, làm nhà mồ, sắm sửa áo tang, khăn tang... Biết tin có người chết, mọi người trong làng đều đến viếng. Nếu là anh em, bà con, thông gia hoặc bạn bè thân thiết thì đem theo bốn chai rượu, một thúng gạo và một con lợn để giúp gia chủ làm cỗ bàn mời khách đến chia buồn cùng gia đình. Nếu là dân làng bình thường thì đến thắp nén hương, có thể mang theo tiền để biếu chủ nhà hoặc không mang gì cả. Những người đến viếng có thể ở lại đám tang, phụ giúp chủ nhà làm một số công việc lặt vặt trong đám tang hoặc chỉ để chia sẻ làm vơi đi không khí tang tóc trong gia đình. * Quan tài Quan tài được làm bằng một cây gỗ to bổ đôi, sau đó khoét ruột rỗng như hình lòng máng. Có khi quan tài đã được gia đình chuẩn bị từ trước nhưng cũng có nhiều gia đình khi có người chết mới lên rừng chặt cây để làm quan tài. Gỗ để làm quan tài thường là các loại gỗ Săng Vì, Mặm, Lội... theo quan niệm “Nhất Săng Vì, nhì cây Lội”, phía ngoài được đẽo hình lục lăng hoặc đốc vát khum khum. Quan tài được làm đơn giản, được đánh dấu phần ngọn và gốc để khi tiến hành nhập quan không bị nhầm lẫn đầu và chân người chết, nửa dưới thường có một lỗ khoét sẵn (ống xí) để nước bên trong rỉ ra nếu như quàn xác lâu ngày trong nhà. Sau khi đặt thi hài người chết và quần áo vào quan tài, người ta cho gắn quan tài bằng một chất keo làm bằng cám trộn với đất sét. Khi đi chôn, quan tài được đặt trên sáu đòn ngang và hai đòn dọc, do mười sáu người khiêng. * Lượm Khi mọi công việc đã chuẩn bị xong xuôi, chủ nhà mời thầy Mo chọn giờ tốt để lượm xác. Chọn được giờ tốt là tiến hành lượm ngay chứ không chờ con cháu về đông đủ. Những nhà nghèo thường tiến hành lượm xác ở dưới nhà, lượm xong thì “kê cối kê chày” để đặt quan tài rồi chuẩn bị để đi chôn ngay. Với nhà giàu thì thi hài được tắm tửa, thay quần áo mới (còn quần áo cũ được chôn theo), sau đó được đưa ra nằm trên chiếc chiếu ở gian giữa trên sàn nhà, đầu quay vào phía trong, mặt đắp vuông vải trắng. Lúc này, chủ nhà mới mời thầy Mo chọn giờ tốt để tiến hành lượm. * Quàn Thi hài người chết thường được quàn tại nhà từ một đến ba ngày. Xưa kia, tục quàn xác trong nhà có nơi kéo dài hàng tháng, thông thường là hàng tuần, rất mất vệ sinh (Ngô Văn Lệ (1998), tr. 47) với cỗ bàn chè chén liên tục, phức tạp và tốn kém. Vì vậy những nhà nghèo thường lượm xong rồi đi chôn luôn, vì nếu quàn lâu sẽ không đủ điều kiện làm mâm cỗ. Người Thổ Cuối trước kia có khi quàn thi hài tại nhà đến một tháng để chuẩn bị đầy đủ cho đám tang hoặc để đợi con cháu về đông đủ. Trong lúc quàn xác, úp bốn chiếc bát xuống đất ở bốn góc của quan tài, đồng bào quan niệm làm như vậy để hút bớt mùi hôi từ tử thi bốc ra. Xác quàn lâu ngày, bắt đầu phân hủy nên nước chảy ra, họ lấy ống bương hứng để chôn cùng xác. Khi xác cha mẹ còn quàn trong nhà, con cái trong khi ăn không được ăn bằng bát mà phải ăn bốc, ăn trầu cũng phải súc miệng thật sạch. Đồng bào quan niệm, khi xưa, cha mẹ nuôi con tay bồng, tay bốc, ăn trầu phải súc miệng thật sạch để mớm cơm cho con, bây giờ cha mẹ chết, con cái phải làm như vậy để trả ơn công lao cha mẹ. * Nhà vẹ (nhà mồ) Nhà mồ được làm bằng gỗ hoặc tre nứa, xung quanh đan bằng nứa hoặc dán giấy, mái lợp bằng tranh, được dựng lên phía trên mộ ngay sau khi chôn cất. Từ khi nhà mồ được dựng lên cho đến khi hỏng, không sửa sang và cũng không làm lại cái mới. * Nhạc tang Nhạc trong đám tang người Thổ sử dụng các loại nhạc cụ như trống, kèn, cồng, chiêng, sau này chịu ảnh hưởng của người Kinh nên có thêm nhị, não bạt... Trong khi cúng, người Thổ chỉ dùng trống, cồng và chiêng. Có một điều đặc biệt trong nhạc tang của người Thổ nơi đây là nhạc thường có tiết tấu nhanh, mạnh nhằm gợi nhớ những hoạt động của người chết khi còn sống. Mặc dù là nhạc tang nhưng không ảm đạm, thê lương để nhằm xua đi không khí tang tóc, làm vơi bớt nỗi buồn cho những người còn sống, tiếp thêm sức mạnh cho những người thân vượt qua đau thương, mất mát. 2. Các nghi thức trong lễ tang * Lễ xí vọng Nghi lễ này được tổ chức để toàn thể con cháu trong gia đình, họ hàng và bà con làng xóm tiễn đưa linh hồn người chết đi ra mắt các thế lực ở cõi âm, đồng thời cầu mong các vị giúp đỡ cho nhanh chóng hoà nhập với cuộc sống mới. Đây được coi như lễ ra mắt của người chết đối với thế giới bên kia. Lễ xí vọng được tổ chức vào buổi tối trước ngày đưa tang. Thời điểm tổ chức phải được căn cứ theo tuổi của người chết để chọn được giờ tốt, tránh xảy ra hiện tượng trùng tang. Giờ tổ chức lễ xí vọng có liên quan mật thiết với giờ đưa tang. Theo quan niệm của đồng bào, ban đêm tổ chức vào mấy giờ thì ban ngày đến giờ đó phải tiến hành đưa tang. * Múa “lang bang” Múa “lang bang” là một trò diễn xướng của người sống để chia tay người chết. Đây là những hình ảnh tượng trưng cho những trò chơi khi xưa mà người chết thường tham dự và tưởng nhớ công lao người đã khuất. Nghi lễ này thường được tổ chức vào hai hoặc ba giờ sáng, con cháu nội ngoại đi xung quanh nhà múa những động tác tượng trưng. Trước đây, nghi lễ này thường do những người thân trong gia đình tiến hành nhưng ngày nay chỉ có những người trong ban nhạc mới biết làm. * Lễ thăm anh em (thăm ún dôộng eng) Trước khi mang đi chôn, linh hồn người chết được đưa đi thăm anh em. Đây là nghi lễ để chào anh em họ hàng, làng xóm trước khi về thế giới bên kia. Trong nghi lễ này, họ hàng, làng xóm ai được mời thì đến và người mời phải chuẩn bị một bữa cơm để chia tay. Đồng bào dùng rơm hoặc vải bện thành hình nhân thay cho người chết. Hình nhân được cáng bằng võng đến từng nhà, những người khiêng cáng phải là con cháu nội tộc, không được dùng người ngoài. Đến mỗi nhà, thầy Mo thay mặt người chết cảm ơn tình cảm của chủ nhà và chào vĩnh biệt. Chủ nhà khóc lóc kể lại công đức của người chết và tỏ lòng tiếc thương của mình. Thăm họ hàng, làng xóm xong, người chết được đưa đến bến sông, cánh đồng, giếng nước..., tại đây những người thân trong gia đình thay mặt người chết kể lại những kỷ niệm của người chết. * Lễ rửa bát Trước khi đưa tang, gia đình tổ chức lễ rửa bát, chuẩn bị các vật dụng cần thiết trong cuộc sống hàng ngày như mâm, bát, đũa, ấm chén... đưa theo đám tang và bỏ bên mộ chứ không chôn cùng. Đây là những vật dụng gửi cho người chết để khi sang thế giới bên kia sử dụng. * Lễ cắt tóc phân tang (cắt xắc) Nghi lễ này để những người thân trong gia đình trả ơn cho người chết. Những người thân theo thứ bậc lần lượt đến trước bàn thờ, thầy Mo thay mặt kể về lòng biết ơn của họ đối với người quá cố. Khi cúng xong, thầy Mo cắt một món tóc trên đầu mỗi người. Tóc của tất cả mọi người được đốt tại mộ sau khi chôn cất xong. * Lễ “tơm kem” Trước khi đưa tang, lễ “tơm kem” được tổ chức để cầu mong các thần linh, tổ tiên tha thứ và xoá bỏ mọi tội lỗi cho người chết trước khi về với thế giới bên kia. Đây là nghi lễ có ý nghĩa rửa sạch mọi tội lỗi để người chết sang thế giới bên kia được bình an, thanh thản. Thầy Mo thay mặt cầu xin cho đến khi được thần linh, tổ tiên đồng ý thì mới được tiến hành mang xác đi mai táng. * Đưa tang Khi đưa tang, quan tài khiêng theo hướng đầu đi trước, chân đi sau đến gần mồ mới quay ngược trở lại. Hướng mồ phải do chủ gia đình chọn sao cho thoáng đãng và thường xuôi theo dòng nước chảy. Trên đường ra nghĩa địa, thường có các chặng nghỉ chân. Đến chặng cuối tổ chức trò diễn đấu vật để tưởng nhớ thời thơ ấu người chết đã từng chơi để vĩnh biệt. * Mai táng Đến huyệt, khi chôn, thầy Mo đốt “lá Triệu” ghi rõ họ tên, ngày tháng năm sinh và tóm tắt tiểu sử người chết. Đây như một tờ giấy giới thiệu cho Thổ công để xin gia nhập vào cõi âm. Chôn xong, bày một lễ cúng để chia tay lần cuối giữa người sống và người chết, cuối cùng những người thân trong gia đình vái vĩnh biệt rồi ra về. * Thờ cúng Buổi sáng sau ngày mai táng, gia đình làm lễ đưa cơm cho người chết, đồng thời thấy vật dụng nào cần thiết còn thiếu thì bổ sung thêm cho người chết sao cho thật chu đáo. Mỗi ngày, gia đình làm một mâm cơm cúng đặt lên bàn thờ mời người chết về hưởng. Đến ngày thứ bảy, nếu gia đình có điều kiện thì làm lễ đốt bài vị cho người chết còn nhà nghèo chỉ cần đốt bài vị và rước lên nhập với tổ tiên ở bàn thờ chung của gia đình. Trong khi mai táng, người Thổ tiến hành “đào sâu chôn chặt” chứ không tiến hành bốc mộ, sang tiểu như một số dân tộc khác. Người Thổ nơi đây không tổ chức cúng giỗ mà chỉ cúng cho người chết cùng tổ tiên vào các ngày rằm, ngày tết. Sau ba năm, con cháu không phải để tang. Ngày nay, với những biến đổi mạnh mẽ trong đời sống kinh tế, văn hoá - xã hội, mặt bằng dân trí của người dân ngày càng được nâng cao, nhờ những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được tuyên truyền rộng rãi trong cộng đồng tộc người Thổ và sự giao lưu, tiếp xúc văn hoá mạnh mẽ giữa các tộc người cùng sinh sống nơi đây, tập quán ứng xử với người chết ở đồng bào đã thay đổi đáng kể. Theo nếp sống mới, nghi lễ tang ma của đồng bào ngày nay đã đơn giản và đỡ tốn kém hơn trước rất nhiều. Người Thổ không còn giết trâu, mổ lợn, cúng bái dài ngày linh đình tốn kém. Dù cho con cháu đã có mặt đầy đủ hay chưa thời gian quàn xác cũng chỉ còn từ 1 đến 2 ngày chứ không để lâu, mất vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người và môi trường sinh thái. Các nghi lễ phức tạp khác cũng dần bị mai một hoặc được đơn giản hoá đi, nhiều khi chỉ mang hình thức tượng trưng. Như vậy, cùng với quá trình phát triển của lịch sử, các phong tục tập quán của người Thổ nơi đây đã có nhiều biến chuyển. Có những thay đổi mang tính tích cực, tiến bộ, nhưng bên cạnh đó cũng đã làm mất dần đi bản sắc văn hoá của tộc người. Do vậy, các cấp chính quyền và đồng bào nơi đây cần có những chính sách, những biện pháp cụ thể để nhằm loại bỏ những hủ tục, đồng thời giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp trong đời sống văn hoá tộc người./. (*) Người đứng đầu, quản lý các công việc của làng bản Tài liệu tham khảo Nguyễn Văn Huy (chủ biên), Bức tranh văn hoá các dân tộc Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001. Ngô Văn Lệ (chủ biên), Văn hoá các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, TP Hồ Chí Minh, 1998. Nguyễn Đình Lộc, Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An, Nxb Nghệ An, 1993. Đặng Văn Lung (chủ biên), Phong tục tập quán các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội, 1999. Lê Ngọc Thắng, Lâm Bá Nam, Bản sắc văn hoá các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội, 1990. Viện Dân tộc học, Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978. Bùi Minh Thuận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflich_su_vhoa_23__0738.pdf