Đề tài Phân tích những nguyên nhân và diễn biến thực tiễn về lạm phát của Việt Nam giai đoạn năm 2010 và những tháng đầu năm 2011

Lịch sử đã chứng minh trong quá trình phát triển kinh tế các quốc gia đã từng đối mặt với lạm phát, nhưng không phải lúc nào lạm phát cũng gây ra những tác động tiêu cực, trong nền kinh tế thị trường, nhiều quốc gia còn sử dụng lạm phát một con số làm động lực để kích thích nền kinh tế phát triển. Nước ta từ tháng 12 năm 2007, do tác động của tinh hình phát triển kinh tế chung của hội nhập khu vực và thế giới, chỉ số giá tiêu dùng cho đến nay vẫn ở mức 2 con số. Chính phủ đã đưa ra các biện pháp để kiềm chế lạm phát. Vì vậy tình hình có dịu đi xong vẫn chưa ổn định, giá cả vẫn ở mức cao và chưa trở về mức khi chưa có lạm phát. Tình hình lạm phát năm 2010 và những tháng đầu năm 2011 đã và đang có những diễn biến trái chiều với sự dự đoán và có nhiều biến động do ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới cũng như các chính sách kinh tế trong nước.

Tìn”h Hình Lạm phát của Việt Nam hiện nay- là một chủ đề cần phải được đưa ra bàn luận nghiên cứu về mặt lý luận thực tiễn, từ đó đưa ra những giải pháp can thiệp một cách linh hoạt có hiệu quả, tham khảo các ý kiến thực hiện các chính sách vĩ mô của nước ta trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Đó cũng chính là lý do chúng tôi lựa chọn chủ đề này để trong đổi với các bạn!!!

 

doc8 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1176 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đề tài Phân tích những nguyên nhân và diễn biến thực tiễn về lạm phát của Việt Nam giai đoạn năm 2010 và những tháng đầu năm 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Lịch sử đã chứng minh trong quá trình phát triển kinh tế các quốc gia đã từng đối mặt với lạm phát, nhưng không phải lúc nào lạm phát cũng gây ra những tác động tiêu cực, trong nền kinh tế thị trường, nhiều quốc gia còn sử dụng lạm phát một con số làm động lực để kích thích nền kinh tế phát triển. Nước ta từ tháng 12 năm 2007, do tác động của tinh hình phát triển kinh tế chung của hội nhập khu vực và thế giới, chỉ số giá tiêu dùng cho đến nay vẫn ở mức 2 con số. Chính phủ đã đưa ra các biện pháp để kiềm chế lạm phát. Vì vậy tình hình có dịu đi xong vẫn chưa ổn định, giá cả vẫn ở mức cao và chưa trở về mức khi chưa có lạm phát. Tình hình lạm phát năm 2010 và những tháng đầu năm 2011 đã và đang có những diễn biến trái chiều với sự dự đoán và có nhiều biến động do ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới cũng như các chính sách kinh tế trong nước. Tìn”h Hình Lạm phát của Việt Nam hiện nay- là một chủ đề cần phải được đưa ra bàn luận nghiên cứu về mặt lý luận thực tiễn, từ đó đưa ra những giải pháp can thiệp một cách linh hoạt có hiệu quả, tham khảo các ý kiến thực hiện các chính sách vĩ mô của nước ta trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Đó cũng chính là lý do chúng tôi lựa chọn chủ đề này để trong đổi với các bạn!!! MỤC TIÊU Đề tài này nhằm mục đích phân tích những nguyên nhân và diễn biến thực tiễn về lạm phát của Việt Nam giai đoạn năm 2010 và những tháng đầu năm 2011, đồng thời là tác động và lý luận về các giải pháp giảm thiểu lạm phát để ổn định và phát triển kinh tế của một quốc gia. Đặc biệt là đề tài sẽ dùng mô hình VECM để đưa ra các dự báo về tình hình lạm phát trong thời gian tới. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU. 1. Một số thuật ngữ cơ bản liên quan đến lạm phát 2. Nguyên nhân và diễn biến của lạm phát năm 2010 và 3 tháng đầu năm 2011 3. Tác động của lạm phát đến tình hình kinh tế nước ta 4. Các giải pháp 5. Mô hình VECM NỘI DUNG CHÍNH 1. Một số thuật ngữ cơ bản liên quan đến lạm phát: * Lạm phát là gì? Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng động loạt. Khi tính mức độ lạm phát người ta sử dụng chỉ số giá tiêu dùng -CPI ( consumer price index) * CPI là gì? Chỉ số này phản ánh mức thay đổi giá cả của một giỏ hàng hóa tiêu dùng so với năm gốc cụ thể. 2. Nguyên nhân và diễn biến của lạm phát năm 2010 và 2 tháng đầu năm 2011 a. Giai đoạn năm 2010: Hình bên cho thấy từ năm 2004 VN đã trải qua giai đoạn lạm phát cao hơn, dao động lớn hơn và kéo dài hơn so với các đối tác thương mại của mình. Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008-2009 đã góp phần làm giảm lạm phát ở VN từ cuối năm 2009, giá quốc tế giảm cùng với tổng cầu giảm đã giúp VN đảo ngược xu thế đáng ngại so với năm 2008. Khi các gói kích cầu của chính phủ gia tăng từ quí II năm 2009, cung tiền cũng có dấu hiệu tăng mạnh và tín dụng cũng có dấu hiệu tương tự. Các ngân hàng thương mại thiếu tiền mặt đều cố gắng tăng lãi suất để thu hút tiền gửi. Vì vậy cuộc cạnh tranh lãi suất bắt đầu khiến cho lãi suất bị đẩy lên cao ( vượt trần lãi suất do các khoản phí vay). Diễn biến CPI năm 2010 như hình chiếc cốc, tạo bởi mức chênh lệch giữa tháng tăng đỉnh và đáy lên đến hơn 1,5%, khá tương đồng với năm 2007. Hai điểm cao nhất đều được tạo thành từ mức tăng xấp xỉ 2% của tháng 2 và tháng 12, trong khi đáy kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8, chỉ quanh mức 0%, xác định kỷ lục ngược với xu thể kể trên. Diễn biến CPI năm 2010 hình thành nên hai thời điểm thay đổi của cảm nhận về lạm phát, sau các cú đột biến “lao dốc” và “bốc đầu”. Lo ngại lạm phát một lần nữa được “treo” vào mức tăng 1,98% của tháng 12/2010. - Tết Canh Dần rơi vào đầu tháng 2/2010, các mức tăng CPI hai tháng đầu năm đều trên 1% và tiến gần 2% cũng không phải quá bất thường, nhưng khác biệt trong năm nay lại rơi vào tháng 3, khi chỉ số giá tiêu dùng không chịu xuống mạnh như các năm trước. Trong tháng 3 bắt đầu có những đột biến: +/ NHNN công bố tỷ giá VND/ USD tăng 2% ở mức giá trần là 19.000 +/ Đồng loạt áp dụng từ ngày 1/3: giá than bán cho điện tăng đến 47% tùy loại, giá điện tăng 6,8%, giá nước sạch tại Tp.HCM tăng khoảng 50%. +/ Một tác động khác gây ảnh hưởng lớn đến giá cả và tâm lý người dân, ngay trước ngày các viên chức trở lại làm việc sau kỳ nghỉ Tết kéo dài, trưa 21/2, giá xăng đột ngột được điều chỉnh tăng khoảng 3,6%. +/ Tiếp theo các diễn biến này, gas, xi măng, sắt thép… cũng kéo nhau tăng giá. +/ Ngay sau đó, từ ngày 15/3 những thông tin về khả năng CPI tháng sau Tết tăng cao đã được một số nguồn tin dự báo sớm. Con số chính thức sau đó chốt lại mức tăng 0,75%, chỉ kém năm 2008 đột biến nhưng tương đương năm 2004 và 1996.  +/ Do lo ngại đột ngột dấy lên. Nửa cuối tháng 3, thị trường chứng khoán chứng kiến giai đoạn xụt giảm mạnh, chỉ số VNIndex về đáy vào ngày 31/3, ở mức dưới 500 điểm, mất khoảng 6% so với đỉnh 15/3. Mục tiêu được Chính phủ đặt ra lúc này là ổn định nền kinh tế, đặc biệt là kiềm chế lạm phát, tăng trưởng cung tiền cả năm giới hạn ở 20% so với cuối năm 2009; tăng trưởng tín dụng 25%. - Trái với suy luận trong khoảng 5 tháng từ tháng 4 đến tháng 8, chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng rất thấp, về gần sát mức 0% (tháng 7 chỉ tăng 0,06% so với tháng 6). Xét về cao độ, các mức tăng này lập kỷ lục về độ thấp kể từ 2004. +/ Sức mua tăng đột ngột thể hiện ở tổng mức bán lẻ đi lên trong tháng 4 và đến tháng 5 đạt mức tăng gần 27% so với cùng kỳ +/ Mức tăng trưởng đi xuống dần và đến tháng 10/2010, giá trị sản xuất công nghiệp đã giảm 3,4% so với tháng 9. +/ trong suốt giai đoạn từ đầu tháng 5 đến cuối tháng 8, VN-Index kéo một đường dài sụt giảm. Đạt đỉnh vào ngày 5/5 ở gần 549 điểm, sau 4 tháng liên tục đi xuống, đến 25/8 VN-Index chạm đáy ở mức 427 điểm, mất trên 22%. - Trong 4 tháng cuối năm, chỉ số giá tiêu dùng liên tục duy trì ở mức cao. Có tới 3 tháng đạt kỷ lục về cao độ, cho thấy sức nóng của lạm phát đã ở gần. +/ Ngày 9/8, giá xăng dầu sau một thời gian dài được giữ cố định đã điều chỉnh tăng lên khoảng 2,5%, đẩy CPI tháng 9 vào vòng thử thách mới. +/ ngày 18/8, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa VND với USD lên mức 18.932 VND (tăng gần 2,1%) và giữ nguyên biên độ tỷ giá +/-3%. +/ Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội kéo dài 10 ngày cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chỉ số giá tiêu dùng tháng 10. Lại thêm lũ lụt diễn ra liên miên tại miền Trung kéo dài thêm chuỗi tác động đễn chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn cuối năm. +/ Khoảng trung tuần tháng 10, thị trường lại ghi nhận các đợt leo thang của giá vàng và USD, trong bối cảnh xu hướng CPI đã bắt đầu tăng cao +/ chính sách tiền tệ đã nới lỏng hơn, giá trị sản xuất công nghiệp tháng 11 đã tăng 4,9% so với tháng 10 và dự kiến tháng 12 này còn tăng khoảng 6% so với tháng trước. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến cũng giảm dần về mức 28% tăng hơn so với cùng kỳ, chốt tại đầu tháng 12/ +/ Trong khi đó, thị trường chứng khoán cũng trải qua giai đoạn đi ngang, VN-Index dao động trong khoảng hẹp kéo dài từ giữa tháng 9 đến đầu tháng 11, sau đó xuất hiện dấu hiệu đi lên. Nhưng trước sức nóng của lạm phát tăng cao, đến đầu tháng 11, tín hiệu thắt chặt lại xuất hiện. Ngày 5/11, các lãi suất chủ chốt được điều chỉnh tăng thêm 100 điểm cơ bản. Cung tiền và tín dụng cũng thu hẹp tốc độ tăng, chốt lại cả năm M2 còn tăng 23%, tín dụng tăng 27,65% so với cuối năm 2009.  +/ Thể hiện trên VN-Index, từ giữa tháng 12 đến nay, chỉ số thị trường đang trong chuỗi giảm điểm liên tiếp, hướng tới ngưỡng hỗ trợ 467 điểm. Nhìn trong cả năm 2010, diễn biến CPI gần như song hành cùng những thay đổi chính sách vĩ mô và can thiệp thì trường từ cơ quan chức năng. Những ngày năm mới đang đến cũng đóng lại một năm lạm phát không đạt chỉ tiêu, nhưng còn neo lại những đoán định về hướng điều chỉnh chính sách có thể xuất hiện trong đầu năm tới. b/ Giai đoạn 3 tháng đầu năm 2011: - Mức lạm phát tháng 1 năm 2011 là 1,74% - Chỉ số giá tiêu dùng cả nước trong 2 tháng đầu năm tăng tổng cộng 3,78% chủ yếu do tác động của Tết. Như vậy, nếu tính toán một cách cơ học, tại thời điểm này, người ta đã “nhìn thấy” lạm phát tăng khoảng 6%. So với mục tiêu khống chế CPI dưới 7% mà Quốc hội phê chuẩn cuối năm ngoái, dư địa cho 10 tháng còn lại chỉ còn trên dưới 1% - Các chuyên gia kinh tế cho rằng, việc Việt Nam có thể giữ được lạm phát năm 2010 ở mức dưới 7% là điều khó trở thành hiện thực Từ diễn biến của quá trình lạm phát trên ta có thể kết luận 3 nguyên nhân chủ yếu của quá trình lạm phát hiện nay là: - Chạy theo chỉ thị: +/ Do được mệnh danh là “nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN“ nên nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc vào kế hoạch và chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua chỉ thị của Đảng, trọng tâm của nền kinh tế là các con số tăng trưởng hàng năm. Để đạt chỉ tiêu đã đề ra, nhà nước khuyến khích đầu tư và các doanh nghiệp quốc doanh được tạo điều kiện mượn nợ ngân hàng dễ dàng cho các dự án đầu tư. Ngoài lĩnh vực kinh doanh chính, các doanh nghiệp còn đầu tư vào các lĩnh vực thiếu chuyên môn, đặc biệt vào các lĩnh vực bất động sản hoặc có nhiều rủi ro như cổ phiếu, v.v… +/ Vì chạy đua với con số tăng trưởng nên nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua tăng trưởng nhờ đầu tư nước ngoài, không phải vì tiêu thụ nên tăng trưởng không bền vững và ẩn chứa rủi ro. +/ Việt Nam vây mượn tiền vốn nước ngoài đã thúc đẩy nhu cầu tiền nước ngoài cao hơn tiền nội địa đưa đến áp lực giảm giá trị đồng tiền trong nước và làm tăng trưởng lạm phát. Những rủi ro nêu trên có thể được điều chỉnh nếu hiệu quả đầu tư cao. Để đo lường hiệu quả đầu tư của một quốc gia, các chuyên gia thường dùng hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio) được tính bằng: tổng số vốn đầu tư chia cho tổng số tăng trưởng GDP. Do cách tính này, tăng trưởng GDP càng cao thì hệ số ICOR càng nhỏ. - Thâm hụt mậu dịch: +/ Việt Nam xuất cảng chủ yếu quần áo dầu thô ,  giầy dép , sản phẩm nông, lâm nghiệp và hải sản.Những mặt hàng nhập vào Việt Nam nhiều nhất là máy móc và đồ phụ tùng , sắt và thép , tơ sợi , hàng điện tử và computer. +/ Nhập cảng nhảy vọt đưa đến người giàu có lợi dụng cơ hội Việt Nam vào WTO đặt mua hàng hóa xa sỉ như máy bay, xe hơi đắt tiền v.v…, thêm vào đó sự yêu chuộng hàng hoá nước ngoài của dân chúng xuất phát từ ý thức vọng ngoại, không tin tưởng vào hàng hoá nội địa. Sau 24 năm “đổi mới“ Việt Nam vẫn không thoát ra khỏi nền kinh tế gia công và nông nghiệp. Việt Nam vẫn lệ thuộc vào xuất khẩu và phải nhập khẩu hàng hoá, máy móc để cho dân chúng tiêu dùng. - Thâm hụt ngân sách: +/ Các khoản thu chính của nhà nước Việt Nam là từ thuế và lệ phí, bán dầu thô, viện trợ và vay nước ngoài.  Cuộc khủng hoảng kinh tế làm nhà nước giảm các khoản thu từ thuế và bán dầu thô, đồng thời nhà nước phải chi phí để kích cầu nên thâm hụt ngân sách quốc gia. +/ Để chi phí cho thâm hụt ngân sách quốc gia, nhà nước buộc phải mượn thêm nợ. Nếu nhà nước mượn được nợ của người dân trong nước thì vấn đề tương đối không nghiêm trọng, vì tiền lưu truyền trong nội địa của một nền kinh tế. Trường hợp Việt Nam, nhu cầu vốn cao hơn tổng số tiền tiết kiệm của người dân trong nước nên thâm hụt ngân sách làm nhu cầu vốn càng cao hơn và qua đó nhu cầu muợn vốn từ nước ngoài cũng tăng lên. +/ Tiền lãi và tiền mượn nợ được trả bằng tiền thuế thu từ nhân dân trong nước. Do số tiền thu thuế có giới hạn, nếu không tăng thuế thì những hoạt động của nhà nước buộc phải thu hẹp (không gian chi tiêu). Nếu tiền lãi không được trả cho chủ nợ hàng năm thì tiền nợ mỗi ngày mỗi cao hơn. Thêm vào đó, tiền nợ trong quá khứ và tiền nợ trong tương lai chồng chất mỗi ngày mỗi cao đã đẩy quốc gia rơi vào vòng luẩn quẩn khó thoát khỏi cơn nợ như hiện nay. +/ Những rủi ro xảy ra trong trường hợp thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài cao là do áp lực giảm giá trị đồng tiền nội địa dẫn đến tăng lãi xuất và tăng lạm phát. Ngoài ra, gây áp lực giảm khả năng tín dụng của quốc gia (rating code) đã làm tăng lãi xuất tín dụng. Các nguyên nhân trên đã làm tăng giá sản phẩm và lạm phát tăng vụt trong những tháng qua. ----------------------------- Tình hình lạm phát ở việt nam trong thời gian qua Người thực hiện : Nguyễn Xuân Cương Lớp: KI3 Nội dung thực hiện: phân tích những tác động của lạm phát tới các khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội Kiến thức giáo khoa: Lạm phát có ảnh hưởng nhất định đến đời sống kinh tế - xã hội Phân phối lại thu nhập và của cải Người có tài sản, người vay nợ có lợi vì giá tài sản tăng lên trong khi giá trị đồng tiền thì giảm xuống Người làm công ăn lương, người gửi tiền, người cho vay bị thiệt Lãi xuất thực + tỷ lệ tăng giá = lãi suất danh nghĩa Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm Lạm phát vừa phải khi chưa đạt mức toàn dụng có lợi Đường cong Phillips Các tác động khác Lạm phát cao và không dự đoán được dẫn đến mất cân đối ( đầu tư ngắn hạn, hàng hóa có giá tăng cao ) Đầu cơ tích trữ hàng hóa làm lưu thông rối loạn Tỷ giá hối đoái tăng gây bất lợi cho nhập khẩu Ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống tín dụng, nguồn tiền gửi ngân hàng giảm Khó khăn cho hoạt động đầu tư do những dự báo thiếu chính xác Hao mòn giá trị thực của những khoản công phí Sức sản xuất giảm ảnh hưởng nguồn thu ngân sách Thực tế xã hội: Chỉ số giá sản xuất Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất nông lâm thủy sản quý 1 năm 2011 tăng 23,12% so với quý 1 và 9,69% so với quý 4 năm 2010. Trong đó các sản phẩm chăn nuôi tăng 13,3% và 12,24% tương ứng. Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công nghiệp quý 1 năm 2011 tăng 14,9% so với quý 1 và 5,05% so với quý 4 năm 2010. Trong đó điện nước tăng 9,3% và 1,6% tương ứng. Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý 1 năm 2011 tăng 15,23% so với quý 1 và 5,91% so với quý 4 năm 2010. Trong đó các nguyên liệu nông nghiệp lâm nghiệp và thủy sản tăng 21,1% và 10,46% tương ứng. Chỉ số giá xuất khẩu quý 1 năm 2011 tăng 9,89% so với quý 1 và 4,48% so với quý 4 năm 2010.Trong đó hàng tiêu dùng tăng 7,17% và 2,46% tương ứng. Chỉ số giá nhập khẩu quý 1 năm 2011 tăng 7,99% so với quý 1 và 3,38% so với quý 4 năm 2010. Trong đó sản phẩm từ dầu thô tăng 12,77% và 7,01% tương ứng. Chỉ số giá cước vận tải quý 1 năm 2011 tăng 11,47% so với quý 1 và 5,86% so với quý 4 năm 2010.Trong đó vận tải hàng hóa tăng 11,65% và 5,5% tương ứng. Chỉ số giá tiêu dùng, vàng và dollar mỹ 3 tháng đầu năm 2011 2011 Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 2010 Tháng 1 Tháng 12 Tháng 2 Tháng 12 Tháng 3 Tháng 12 Chỉ số giá tiêu dùng 112,17 101,74 112,31 103,87 113,89 106,12 Chỉ số giá vàng 133,87 99,95 136,17 99,6 141,27 104,58 Chỉ số giá dollar mỹ 109,45 99,68 110,11 100,62 112,05 103,7 Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2011 tăng 2,17% so với tháng trước. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, hai nhóm có chỉ số giá tăng cao hơn nhiều mức tăng chung là: Giao thông tăng 6,69%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 3,67%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá thấp hơn mức tăng chung nhưng cao hơn 1% là: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,98% (Lương thực tăng 2,18%, thực phẩm tăng 1,57%, ăn uống ngoài gia đình tăng 3,06%); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,22%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá bằng hoặc dưới mức 1% gồm; May mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,0%; văn hóa giải trí và du lịch tăng 0,98%; giáo dục tăng 0,9%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,88%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,71%; bưu chính viễn thông tăng 0,02%. Chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng dần và ở mức cao trong ba tháng đầu năm. Tháng Ba thường là tháng sau Tết Nguyên đán nên thị trường giá cả không tăng so với tháng trước, nhưng chỉ số giá tháng Ba năm nay cao hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ của 5 năm trở lại đây, và gần bằng mức 2,99% của năm 2008, năm lạm phát tăng cao ở hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Nhận xét đánh giá: Chỉ số giá các yếu tố đầu vào dùng cho sản xuất tăng khiến giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu tăng. Gần đây do giá nhiên liệu đầu vào ( xăng dầu, giá điện, giá than, lãi suất...) tăng cao nên ngày 30-3, giá bán của nhiều thương hiệu ximăng đã tăng với mức 150.000 đồng/tấn. Giá cả những mặt hàng thiết yếu như lương thực thực phẩm, giá nhà ở, vật liệu xây dựng… tăng làm cho người tiêu dùng phải cân nhắc khi lựa chọn, thay đổi thói quen tiêu dùng, thay đổi kế hoạch chi tiêu, cơ cấu các nhóm mặt hàng cũng thay đổi. Phần chi tiêu cho thực phẩm tăng đối với các hộ gia đình ( theo báo sài gòn tiếp thị ), chuyển hướng tiêu dùng hàng nội, giảm sức tiêu thụ các mặt hàng phi thực phẩm ( theo co.op, big c) Chi phí đi lại tăng lên ( tăng giá vé tàu, xe, máy bay ) Bộ phận dân cư có thu nhập thấp, những người làm công ăn lương, sinh viên… chịu tác động trực tiếp từ tình hình lạm phát hiện tại. Những tác động tới tâm lý người tiêu dùng là không nhỏ. Lợi dụng tình hình giá xăng dầu tăng các tiểu thương tát nước theo mưa dẫn tới tình trạng tăng giá hàng hóa tại các chợ. Xuất hiện hiện tượng đầu cơ nhất là các mặt hàng như dầu ăn, đường, xi măng, sắt thép… của các đầu nậu mua hàng trực tiếp từ các nhà máy sản xuất. Đối với các doanh nghiệp, lạm phát làm giảm lợi nhuân thu được trên thực tế trong khi các nhà quản lý cứ ngỡ rằng công ty mình đang phát triển. Lạm phát cũng khiến mức đầu tư giảm và ảnh hưởng đến  phân bổ tài nguyên. Giá trị thị trường suy giảm, cổ phần hầu như không sinh lãi trong thời kì lạm phát. Với tình hình lạm phát như hiện nay, các ngân hàng khó có thể hạ lãi suất cho vay trong thời gian 3 đến 4 tháng tới. Với mức lãi suất vay vốn trên dưới 20%, duy trì hoạt động thực sự là thách thức với các DN nhất là DN vừa và nhỏ. Khó khăn trong huy động vốn ( phát hành trái phiếu ), dự trữ ngoại tệ chưa được cải thiện. Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 22/02/2011 đạt 1558 triệu USD, bằng 68% cùng kỳ năm 2010, bao gồm: Vốn đăng ký 1472 triệu USD của 93 dự án được cấp phép mới (giảm 25,7% về vốn và giảm 51,6% về số dự án so với cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung 86 triệu USD của 14 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước. ……………………………… Giải pháp cho tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay: Thực hiện chính sách tài chính – tiền tệ một cách thận trọng, chủ động, linh hoạt và hiệu quả: Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng. Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát. Lãi suất và tỷ giá cần được điều hành ở mức phù hợp với các cân đối kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà Nước. Tỷ giá và quản lý ngoại hối linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường, phù hợp với diễn biến lãi suất, cân đối hài hòa cung – cầu ngoại tệ, tăng tính thanh khoản cho thị trường và thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, giảm dần tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế; thực hiện đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh toán. Ngân hàng Nhà Nước cần phối hợp với các bộ, ngành liên quan theo dõi, quản lý chặt chẽ thị trường vàng và thị trường ngoại tệ. Tập trung xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo chương trình kế hoạch, trong đó tập trung vào các văn bản hướng dẫn hai Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà Nước cần tiếp tục thực thi các biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng của các TCTD; củng cố, sắp xếp lại các TCTD phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, tăng cường tính công khai minh bạch trong hoạt động ngân hàng; tăng cường thanh tra, giám sát, đặc biệt là giám sát từ xa, phát hiện, cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Theo dõi, giám sát chặt chẽ và dự báo kịp thời diễn biến kinh tế vĩ mô, diễn biến thị trường tài chính trong nước và quốc tế để phục vụ có hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động tiền tệ, ngân hàng; đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015; tăng cường hoạt động thông tin tuyên truyền, chủ động trong việc cung cấp thông tin;... Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng. Quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới. Chính sách ổn định tỷ giá: Tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý. Thành lập “Quĩ ổn định tỷ giá” hay một hình thức nào đó để cho thấy lực lượng kinh tế của nhà nước đủ sức khống chế thị trường ngoại hối. Tính toán ngay qui mô của quỹ đủ sức kiềm giữ tỷ giá VND và công bố mạnh mẽ để tác động vào tâm lý đầu cơ. Xây dựng tỷ giá ổn định cho đến hết năm 2011 để Ngân hàng Nhà Nước có cơ sở điều hành chính sách tiền tệ. Cần có chính sách mạnh tay là yêu cầu các tổng công ty và doanh nghiệp nhà nước không được phép găm giữ USD: khi có USD, buộc phải gửi ngân hàng và đẩy ra thị trường. Cần có biện pháp, chế tài xử phạt nếu không tuân theo chính sách. Ngân hàng Nhà Nước phải mạnh tay “bơm” USD vào ngân hàng thương mại để họ có USD bán cho các khách hàng. Chính phủ và Ngân hàng Nhà Nước cần sớm có những biệp pháp mạnh hơn để kiểm soát chặt thị trường ngoại tệ tự do, thu hẹp các giao dịch và xử phạt nặng hơn các trường hợp vi phạm về thu đổi ngoại tệ trái phép nhằm thu hẹp khoảng chênh lệch tỷ giá giữa thị trường ngoại hối chính thức và phi chính thức. Thực hiện chính sách tài khóa thu hẹp, thắt chặt đầu tư công, giảm bội chi ngân sách: Tăng cường kiểm tra, giám sát phát huy tính công khai minh bạch của chi tiêu công. Cần rà soát, xét lại các chương trình, dự án đầu tư, hoạt động chi tiêu cả trung ương và địa phương, đầu tư của các thành phần kinh tế, kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án, các công trình đầu tư. Khẩn trương hoàn thành các dự án, các công trình, đặc biệt là những công trình trọng điểm, hoàn thánh dứt điểm các công trình dây dưa kéo dài để chúng sớm phát huy tác dụng. Chủ động điều chỉnh kế hoạch triển khai các dự án đầu tư, tập trung ngân sách vào những công trình cấp thiết, những chương trình không cấp thiết nên chuyển vào những năm sau. Công khai minh bạch, thông qua sự giám sát chi tiêu công của các tổ chức phi Chính phủ, các đoàn thể chính trị xã hội và tổ chức quần chúng. Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản lý thu thuế, chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới. Tiết kiệm các khoản chi thường xuyên. Tạm dừng các khoản tiêu dùng mua sắm máy móc, trang thiết bị, … không bố trí kinh phí cho các việc thật sự cấp bách. Giảm bội chi ngân sách nhà nước. Giám sát chặt chẽ việc vay, nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn. hiện rà soát nợ Chính phủ, nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không mở rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh của Chính phủ. Bảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn và an toàn tài chính quốc gia. Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng: Điều tiết cân đối cung cầu đối với từng mặt hàng thiết yếu, bảo đảm kết hợp hợp lý, gắn sản xuất trong nước với điều hành xuất nhập khẩu. Xây dựng kế hoạch điều hành xuất, nhập khẩu. Chủ động có biện pháp chống đầu cơ, nâng giá. Xem xét, miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào nhập khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn thiếu nguyên liệu như dệt may, da giầy, thuỷ sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm,… Chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý về thuế, phí để điều tiết lợi nhuận do kinh doanh xuất khẩu một số mặt hàng như thép, xi măng… thu được từ việc được sử dụng một số yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn giá thị trường. Áp dụng các biện pháp cần thiết và phù hợp để khuyến khích, khuyến cáo các doanh nghiệp, nhân dân sử dụng tiết kiệm năng lượng (điện, xăng dầu), sử dụng các công nghệ cao, công nghệ xanh, sạch, công nghệ tiết kiệm điện.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doclam_phat.doc
Tài liệu liên quan