Đề tài Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn Thanh Hoá từ nay tới 2010

Thanh Hoá là một tỉnh rộng lớn, có điều kiện tự nhiên dồi dào, phong phú. Tuy nhiên Thanh Hoá vẫn là một tỉnh nghèo, với hơn 80% dân số sống bằng nông nghiệp.

Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ đổi mới đã đưa nền kinh tế của tỉnh ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước đi lên. Tuy nhiên cho đến nay nền kinh tế Thanh Hoá vẫn còn nhỏ bé, trình độ công nghệ vẫn còn thấp, kết cấu hạ tầng lạc hậu. Quy mô xuất khẩu hàng công nghiệp còn nhỏ bé so với tiềm năng của mình.

Trong quá trình thực tập tại Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Thanh Hoá, Em đã chọn đề tài “Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn Thanh Hoá từ nay tới 2010” nhằm đánh giá và đưa ra những giải pháp để phát triển công nghiệp của tỉnh, góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương. Đề tài này bao gồm 3 phần:

Phần I: Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.

Phần II: Thực trạng phát triển công nghiệp Thanh Hoá từ 1991 đến nay.

Phần III: Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp tỉnh Thanh Hoá từ nay tới 2010.

 

doc66 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 977 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn Thanh Hoá từ nay tới 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Thanh Hoá là một tỉnh rộng lớn, có điều kiện tự nhiên dồi dào, phong phú. Tuy nhiên Thanh Hoá vẫn là một tỉnh nghèo, với hơn 80% dân số sống bằng nông nghiệp. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ đổi mới đã đưa nền kinh tế của tỉnh ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước đi lên. Tuy nhiên cho đến nay nền kinh tế Thanh Hoá vẫn còn nhỏ bé, trình độ công nghệ vẫn còn thấp, kết cấu hạ tầng lạc hậu. Quy mô xuất khẩu hàng công nghiệp còn nhỏ bé so với tiềm năng của mình. Trong quá trình thực tập tại Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Thanh Hoá, Em đã chọn đề tài “Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn Thanh Hoá từ nay tới 2010” nhằm đánh giá và đưa ra những giải pháp để phát triển công nghiệp của tỉnh, góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương. Đề tài này bao gồm 3 phần: Phần I: Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Phần II: Thực trạng phát triển công nghiệp Thanh Hoá từ 1991 đến nay. Phần III: Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp tỉnh Thanh Hoá từ nay tới 2010. Phần I Sự cần thiết khách quan phái phát triển công nghiệp I. sản xuất công nghiệp và đặc điểm của sản xuất công nghiệp. 1. Nội dung của sản xuất công nghiệp. Nền kinh tế quốc dân bao gồm tổng thể các ngành sản xuất vật chất và sản xuất phi vật chất. Trong các ngành sản xuất thì công nghiệp là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân của mọi quốc gia. Hoạt động sản xuất công nghiệp có đặc điểm khác hẳn với hoạt động sản xuất khác trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp bao gồm ba hoạt động chủ yếu: - Khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thủy. - Sản xuất và chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội. - Sản xuất và phân phối điện, nước và khí. Để thực hiện ba hoạt động cơ bản đó, dưới sự tác động và phân công lao động xã hội trên cơ sở của tiến bộ khoa học và công nghệ, trong nền kinh tế quốc dân đã hình thành hệ thống các ngành công nghiệp. - Công nghiệp khai thác. - Các ngành sản xuất và chế biến sản phẩm. - Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước và khí. Hoạt động khai thác là hoạt động mở đầu của toàn bộ quá trình sản xuất công nghiệp. Tính chất của hoạt động này là đưa các đối tượng lao động ra khỏi môi trường tự nhiên, tạo ra cơ sở nguyên liệu nguyên thuỷ cho công nghiệp nhằm phục vụ cho sản xuất và đời sống con người gồm: - Khai thác nguồn năng lượng như dầu mỏ, khí đốt, than. - Khai thác các quặng kim loại. - Khai thác các quặng phi kim loại (chủ yếu là vật liệu xây dựng). - Khai thác các quặng đặc biệt. Hoạt động chế biến là hoạt động làm thay đổi hoàn toàn về chất của các nguyên liệu nguyên thuỷ, để tạo ra các sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến thành các sản phẩm cuối cùng đưa vào tiêu dùng trong sản xuất và trong đời sống. Quá trình chế biến từ một loại nguyên liệu có thể tạo ra được một loại sản phẩm tương ứng, và cũng có thể một loại sản phẩm nào đó được tạo ra từ những nguyên liệu khác nhau. Sản phẩm trung gian là các sản phẩm được coi là nguyên liệu cho quá trình sản xuất công nghiệp tiếp theo. Sản phẩm cuối cùng là sản phẩm đã ra khỏi quá trình sản xuất công nghiệp để đưa vào sử dụng trong sản xuất hay tiêu dùng trong đời sống. Theo nguyên tắc phân ngành kinh tế quốc dân, ngành công nghiệp chế biến gồm ba ngành công nghiệp chủ yếu: - Công nghiệp chế tạo công cụ sản xuất bao gồm ngành cơ khí, chế tạo máy, các ngành kỹ thuật điện và điện tử. Đây là ngành cung cấp toàn bộ tư liệu sản xuất cho nền kinh tế. - Công nghiệp chế biến trên đối tượng lao động như công nghiệp hóa chất, hóa dầu công nghiệp luyện kim và công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. - Công nghiệp chế biến thực phẩm, vật phẩm tiêu dùng như công nghiệp sản xuất gỗ, giấy, công nghiệp thủy tinh, sành, sứ, da và may mặc, công nghiệp chế biến thực phẩm phục vụ cho đời sống con người. Hoạt động sản xuất và phân phối điện nước là hoạt động tạo ra sản phẩm điện, nước nhằm phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. Như vậy, có thể hiểu công nghiệp là ngành kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, bao gồm một hệ thống các ngành sản xuất chuyên môn hóa hẹp đó lại bao gồm nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc nhiều loại hình khác nhau. 2. Các phương pháp phân loại: Trong hoạt động quản lý công nghiệp thường thực hiện một số biện pháp sau đây để phân loại công nghiệp. 2.1. Phân loại công nghiệp theo công dụng kinh tế của sản phẩm: Căn cứ của phương pháp này là dựa vào công dụng kinh tế của sản phẩm người ta chia công nghiệp ra thành các ngành sản xuất tư liệu sản xuất và các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng. Các sản phẩm có chức năng là tư liệu sản xuất thuộc nhóm A, các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng thuộc nhóm B. Vận dụng phương pháp phân loại này để sắp xếp các cơ sở sản xuất công nghiệp vào hai nhóm ngành tương ứng là công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Ngành công nghiệp nặng là tổng hợp các đơn vị sản xuất kinh doanh sản xuất ra các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng, chủ yếu là trong sinh hoạt. Căn cứ của sự phân loại này dựa vào phương hướng sản xuất kinh doanh là chủ yếu và tỷ trọng sản phẩm được sản xuất là tư liệu sản xuất hay tư liệu tiêu dùng. 2.2. Phân loại công nghiệp thành các ngành chuyên môn hẹp: Phương pháp phân loại này dựa vào đặc trưng kỹ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau để sắp xếp các đơn vị sản xuất kinh doanh thành các ngành công nghiệp chuyên môn hóa. Ngành công nghiệp chuyên môn hóa là tổng hợp các xí nghiệp sản xuất công nghiệp mà hoạt động của chúng có những đặc điểm kỹ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau: - Cùng thực hiện một phương pháp công nghệ hoặc công nghệ tương tự. - Sản phẩm được sản xuất từ một loại nguyên liệu hay nguyên liệu đồng loại. - Sản phẩm có công dụng cụ thể giống nhau hoặc tương tự nhau. 2.3. Phân loại công nghiệp dựa vào hình thức khác nhau về quan hệ sở hữu, hình thức tổ chức sản xuất xã hội và trình độ kỹ thuật của sản xuất công nghiệp. Theo phương pháp này hình thành các loại hình công nghiệp như: công nghiệp quốc doanh với công nghiệp ngoài quốc doanh; công nghiệp lớn với công nghiệp vừa và nhỏ. Các phương pháp này có ý nghĩa lớn trong việc hoạch định các giải pháp xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, trong việc tổ chức sản xuất và đầu tư vào việc ứng dụng vào khoa học và công nghệ trong ngành công nghiệp. Riêng ba phương pháp phân loại đầu là những cách phân loại theo ngành để hình thành các lĩnh vực và các ngành công nghiệp chuyên môn hóa, chúng được sử dụng phổ biến ở nhiều nước. ở nước ta, trong nghị định của Hội đồng Bộ trưởng về phân ngành kinh tế quốc dân, phân ngành kinh tế thành 16 thành cấp I. Ngành công nghiệp là một trong 16 ngành cấp I lại được phân thành 19 ngành cấp II và trong 19 ngành cấp II lại được phân thành các ngành chuyên môn hóa hẹp hơn. Phương pháp phân ngành này đến nay không còn phù hợp và được thay thế bằng hệ thống mới, theo đó thì ngành công nghiệp được phân thành ba ngành cấp I. Căn cứ vào đặc điểm kỹ thuật của sản xuất, mỗi loại hoạt động sản xuất công nghiệp phân các ngành chế biến thành các ngành công nghiệp cấp II, III và IV. 3. Đặc điểm của hoạt động sản xuất công nghiệp. Nếu xét trên góc độ tổng hợp của mối quan hệ con người trong hoạt động sản xuất thì quá trình sản xuất là sự tổng hợp của hai mặt: mặt kỹ thuật của sản xuất và mặt kinh tế - xã hội của sản xuất. Trong lĩnh vực sản xuất của xã hội, do sự phân công lao động xã hội, nền kinh tế chia thành nhiều ngành kinh tế: nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ... Nhưng xét trên phương diện tính chất tương tự của công nghệ sản xuất có thể coi là tổng thể của hai ngành: công nghiệp và nông nghiệp, còn các ngành khác có thể là dạng đặc thù của hai ngành này. Việc phân tích đặc điểm của sản xuất công nghiệp chính là xem xét sản xuất công nghiệp khác sản xuất nông nghiệp trên hai phương diện: Mặt kỹ thuật của sản xuất và mặt kinh tế - xã hội của sản xuất như thế nào. 3.1. Đặc điểm về mặt kỹ thuật của sản xuất công nghiệp: Đặc điểm về mặt công nghệ sản xuất: trong công nghiệp chủ yếu là quá trình tác động trực tiếp bằng phương pháp cơ - lý - hóa của con người làm thay đổi các đối tượng lao động thành các sản phẩm thích ứng với nhu cầu con người, trong khi đó sản xuất nông nghiệp lại bằng phương pháp sinh học là chủ yếu. Trong công nghiệp ngày nay, phương pháp công nghệ sinh học cũng được ứng dụng ngày càng rộng rãi, đặc biệt là công nghệ thực phẩm. Đặc điểm về sự biến đổi của các đối tượng lao động sau mỗi chu kỳ sản xuất, được thay đổi hoàn toàn về chất từ công dụng cụ thể này đã chuyển sang sản phẩm có công dụng kinh tế hoàn toàn khác. Hoặc một loại nguyên liệu sau quá trình sản xuất có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có công dụng khác nhau. Trong khi đó đối tượng lao động của sản xuất nông nghiệp bao gồm các động vật và thực vật sau quá trình sản xuất chỉ có sự thay đổi về mặt lượng là chủ yếu. Về công dụng kinh tế của sản phẩm: sản phẩm công nghiệp có khả năng đáp ứng nhiều loại nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Sản xuất công nghiệp là hoạt động sản xuất duy nhất tạo ra các sản phẩm thực hiện chức năng là các tư liệu lao động trong các ngành kinh tế quốc dân. Đặc điểm này cho thấy vị trí chủ đạo của ngành công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan, xuất phát từ bản chất của quá trình sản xuất đó. 3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của sản xuất công nghiệp: Do các đặc điểm về mặt kỹ thuật của sản xuất nêu trên. Trong quá trình phát triển, công nghiệp luôn là ngành có điều kiện phát triển về mặt kỹ thuật, tổ chức sản xuất, lực lượng sản xuất phát triển nhanh ở trình độ cao, nhờ đó mà quan hệ sản xuất có tính tiên tiến hơn sản xuất nông nghiệp. Do đặc điểm kỹ thuật của sản xuất, trong quá trình sản xuất công nghiệp đã tạo ra được một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỷ luật cao, có tác phong "công nghiệp". Đội ngũ lao động trong giai cấp công nhân luôn luôn là bộ phận tiên tiến trongcộng đồng dân cư của mỗi quốc gia, mỗi đất nước. Cũng do đặc điểm về công nghệ và sự biến đổi của đối tượng lao động, trong công nghiệp có điều kiện và cần thiết phải phân công lao động ngày càng sâu, tạo điều kiện, tiền đề để phát triển nền sản xuất hàng hóa ở trình độ và tính chất cao hơn nông nghiệp. Nghiên cứu các đặc điểm về mặt kỹ thuật và kinh tế - xã hội của sản xuất công nghiệp cho ta thấy được vị trí vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan xuất phát từ bản chất quá trình sản xuất công nghiệp. Đồng thời nó có ý nghĩa trong việc tổ chức sản xuất, trong việc phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. II. Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. 1. Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp trở thành một ngành sản xuất to lớn và độc lập. Đó chính là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Vai trò lịch sử của công nghiệp trong việc phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được nghiên cứu bởi học thuyết Mác-Lênin, V.I.Lênin phân tích những luận điểm của Mác-Ănghen và chứng minh phương hướng phát triển của công nghiệp như là ngành chủ đạo của nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu đó xuất phát từ bản chất, những đặc điểm vốn có của công nghiệp. Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp luôn luôn giữ vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được hiểu là: công nghiệp là ngành có sự ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển lực lượng sản xuất của các ngành kinh tế quốc dân, đồng thời công nghiệp có khả năng tạo ra những động lực và định hướng phát triển của các ngành khác. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được thể hiện ở các mặt chủ yếu sau: - Công nghiệp là một trong ba bộ phận quyết định sự hình thành cơ cấu kinh tế của một nước. Tổng sản phẩm xã hội của một quốc gia bao gồm các giá trị sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Do vậy, công nghiệp là một bộ phận cấu thành cơ cấu: công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ của mỗi quốc gia. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay là tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. - Công nghiệp không chỉ là ngành tác động trực tiếp đến sự phát triển mà còn tác động gián tiếp đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống hàng ngày của con người thông qua việc thúc đẩy các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân phát triển, mà các ngành này có tác động trực tiếp đến đời sống của con người như: nông nghiệp, dịch vụ, v.v... Mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất xã hội là tạo ra sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Trong quá trình đó, công nghiệp là ngành không chỉ khai thác tài nguyên, mà còn tiếp tục chế biến các loại nguyên liệu nguyên thủy được khai thác tài nguyên, mà còn tiếp tục chế biến các loại nguyên thủy được khai thác và sản xuất từ các loại tài nguyên khoáng sản, thành các sản phẩm trung gian để sản xuất ra những sản phẩm cuối cùng nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Trong khi đặc điểm của sản xuất nông nghiệp chỉ có thể tạo ra những sản phẩm trung gian để sản xuất ra những sản phẩm cuối cùng nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Trong khi đặc điểm của sản xuất nông nghiệp chỉ có thể tạo ra những sản phẩm từ các nguồn tài nguyên động thực vật đáp ứng nhu cầu cơ bản về lương thực, thực phẩm của con người. Nhưng muốn thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người đối với lương thực, thực phẩm, chỗ ở, ăn mặc, đi lại học hành, sức khỏe... thì cần phải có sản phẩm của công nghiệp. - Công nghiệp tác động vào quá trình phát triển của các ngành với tư cách là hình mẫu về sử dụng tư liệu sản xuất tiên tiến, hiện đại, về phương pháp quản lý mới, về ý thức tổ chức, kỷ luật lao động... Do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, công nghiệp có những điều kiện tăng nhanh tốc độ phát triển khoa học - công nghệ, ứng dụng vào các thành tựu khoa học công nghệ đó vào sản xuất, có khả năng và tạo điều kiện sản xuất hoàn thiện hơn. Nhờ đó, lực lượng sản xuất trong công nghiệp phát triển nhanh hơn các ngành kinh tế khác. Do qui luật "Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ và tính chất phát triển của lực lượng sản xuất", trong công nghiệp có được hình thức quan hệ sản xuất tiên tiến. Tính tiên tiến về các hình thức quan hệ sản xuất, sự hoàn thiện nhanh về các mô hình tổ chức sản xuất làm cho công nghiệp có khả năng định hướng các ngành kinh tế khác tổ chức sản xuất theo mô hình tổ chức sản xuất công nghiệp. - Công nghiệp là ngành duy nhất có sản phẩm làm chức năng tư liệu lao động trong các ngành kinh tế khác và là cơ sở tái mở rộng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thông qua công nghiệp tạo ra và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho tất cả các ngành. Mặt khác, công nghiệp là cơ sở củng cố quốc phòng của đất nước, sản xuất ra các loại phương tiện kỹ thuật quân sự hiện đại. Cũng do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, đặc biệt là đặc điểm về công nghệ sản xuất, đặc điểm về công dụng sản phẩm công nghiệp. Nên công nghiệp có vai trò quyết định trong việc cung cấp yếu tố đầu vào cho các ngành kinh tế khác, để xây dựng cơ sở vật chất, quốc phòng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Công nghiệp có vai trò quan trọng góp phần vào việc giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế xã hội. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ hoàn thiện về tổ chức sản xuất, hình thành một đội ngũ lao động có tính tổ chức. Tính kỷ luật và trình độ trí tuệ cao, cộng với tính đa dạng của hoạt động sản xuất, công nghiệp là một trong những ngành đóng góp phần quan trọng tạo ra thu nhập quốc dân, tích lũy để phát triển kinh tế, tăng xuất nhập khẩu, thúc đẩy hợp tác kinh tế với các nước trên thế giới và là cơ sở cho sự phân công lao động quốc tế... Từ đó, công nghiệp có vai trò quan trọng góp phần vào giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế - xã hội: như phân công hợp lý hơn lực lượng sản xuất, phát triển các vùng kinh tế của đất nước, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn tài nguyên, lao động và truyền thống nghề nghiệp của các địa phương, vùng lãnh thổ, xóa bỏ dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi... Đặc biệt, trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay Đảng có chủ trương "Coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, giải quyết cơ bản những vấn đề lương thực, thực phẩm, cung cấp nguồn nguyên liệu động thực vật để phát triển công nghiệp và đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa nhằm tạo ra những điều kiện tiên tiến để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Để thực hiện những nhiệm vụ cơ bản đó, vai trò của công nghiệp còn thể hiện ở những mặt sau: Có sự liên doanh liên kết giữa các xí nghiệp công nghiệp đảm bảo việc xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, nghiên cứu phổ biến tiến bộ khoa học kỹ thuật, chế biến sản phẩm... cho các đơn vị sản xuất nông nghiệp. Hình thức liên doanh liên kết giữa các ngành công nghiệp với địa phương về hợp đồng trực tiếp phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Hình thức kết hợp gián tiếp phổ biến nhất là thông qua trao đổi hàng hóa, dịch vụ phục vụ nông nghiệp và thu mua chế biến nông sản thực phẩm để thúc đẩy phát triển nông sản hàng hóa và xây dựng nông thôn mới ở nước ta do các ngành lưu thông phân phối thực hiện. Với đặc điểm nước ta hiện nay có 80% dân số sống ở nông thôn và tham gia sản xuất nông nghiệp, việc phát triển công nghiệp đặc biệt là công nghiệp sản xuất ra tư liệu lao động phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến có ý nghĩa rất lớn đối với phát triển nông nghiệp và nông thôn, biểu hiện ở việc công nghiệp góp phần tăng năng suất cây trồng - vật nuôi đồng thời tăng giá trị của sản phẩm nông nghiệp. Qua sự trình bầy ở những phần trên, ta thấy ngành công nghiệp chế biến có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển ngành công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung. Nên hiện nay, cơ cấu ngành công nghiệp có xu hướng chuyển dịch là tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến. Thực tiễn phát triển kinh tế xã hội ở nước ta chỉ rõ vai trò chủ đạo của công nghiệp bắt nguồn từ bản chất và đặc điểm ưu việt của nó. Tuy nhiên đối với ngành kinh tế khác phải tổ chức lại sản xuất, nâng cao khả năng tiếp thu vai trò chủ đạo của công nghiệp. Về phía Nhà nước, phải điều hòa phối hợp hoạt động của các ngành, các lĩnh vực kinh tế xã hội theo hướng hỗ trợ sản xuất cho công nghiệp phát huy vai trò chủ đạo. 2. Công nghiệp với tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Công nghiệp được coi là chìa khoá để phát triển kinh tế-xã hội. Vì trình độ phát triển công nghiệp là một tiêu chuẩn đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia, một vùng, và thu nhập bình quân đầu người do phát triển công nghiệp là tiêu chuẩn chủ đạo đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia, một địa phương. Mặt khác năng xuất lao động cao trong công nghiệp là chìa khoá dẫn đến sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng sức mua, mở rộng thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ. Đặc biệt là sự phát triển của công nghiệp chế biến. Vì vậy đây là ngành tạo ra khả năng thay thế nhập khẩu có hiệu quả và cũng là ngành có khả năng tăng xuất khẩu, giải quyết đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, làm tăng giá trị nông sản phẩm. Công nghiệp càng đóng góp nhiều trong tổng sản phẩm quốc dân là điều kiện để thu nhập theo đầu ngươì tăng cao. 3. Công nghiệp với giải quyết viêc làm. Công nghiệp là ngành duy nhất tạo ra công cụ lao động, phương tiện sản xuất trang bị kỹ thuật cho các ngành, là cơ sở vật chất cho các ngành tạo ra việc làm. Mặt khác sự phát triển công nghiệp đòi hỏi phải mở rộng qui mô và số lượng các doanh nghiệp, là tiền đề thu hút thêm lao động vào phục vụ sản xuất công nghiệp. 4. Công nghiệp với thúc đẩy đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu. Quá trình phát triển công nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường cái gì thị trường cần thì sẽ sản xuất ra. Do vậy công nghiệp hoá sẽ thúc đẩy thay đổi cơ cấu sản xuất, thúc đẩy quá trình đa dạng hoá mặt hàng, sản xuất ra nhiều mặt hàng mới có chất lượng cao, nâng cao khả năng bảo quản lâu dài các sản phẩm nông nghiệp giúp cho việc tiến hành xuất khẩu thuận tiện. Đối với Việt Nam và Thanh Hoá, công nghiệp không chỉ tăng thu nhập, tăng khối lượng sản phẩm mà còn là phương thức để hiện đại hoá cơ cấu sản xuất, thay đổi tập quán kinh tế xã hội, tập quán tiêu dùng. Trước năm 1975 Thanh Hoá mới chỉ sản xuất được 20 mặt hàng tiêu dùng, 2 mặt hàng cơ khí và vài mặt hàng trung gian. Nhưng từ năm 1990 đến nay, sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, số lượng các mặt hàng công nghiệp của Thanh Hoá đã tăng lên nhanh chóng, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng trong nước mà còn xuất khẩu, sản xuất được nhiều mặt hàng đòi hỏi công nghệ cao. Từ thực tế đã chứng minh được phát triển công nghiệp có vai trò lớn trong việc tạo ra sự đa dạng sản phẩm và thúc đẩy xuất khẩu. 5. Công nghiệp với việc làm tăng giá trị mặt hàng của mọi lĩnh vực sản xuất. Sự phát triển công nghiệp làm tăng giá trị mặt hàng của mọi lĩnh vực sản xuất. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường được quyết định bởi trình độ công nghệ. Trình độ công nghệ càng cao, chất lượng hàng càng tốt và giá hạ. Chất lượng và giá cả là hai yếu tố cơ bản để thắng trong cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường. Như đối với Việt Nam nông , lâm, thuỷ sản là những ngành có thế mạnh, nhưng những năm trước đây sản phẩm này không qua chế biến, xuất khẩu nguyên liệu thô nên khó tiêu thụ, giá trị sản phẩm xuất khẩu thấp. Nhờ có công nghiệp phát triển mà ngày nay nông sản phẩm của Việt Nam ngày càng có giá hơn. Tuy vậy nông sản phẩm nước ta xuất khẩu vẫn hạ hơn so với sản phẩm cùng loại của một số nước mà chủ yếu là do công nghệ, trình độ chế biến chưa bằng họ, chưa có công nghiệp chế biến thích hợp với thị trường thế giới. Từ đây thấy được vai trò phát triển công nghiệp quan trọng như thế nào đối với việc làm tăng chất lượng hàng hoá, quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. 6. Công nghiệp với nâng cao chất lượng cuộc sống. Phát triển công nghiệp dẫn đến sự thay đổi căn bản chất lượng cuộc sống do phát triển công nghiệp dẫn đến thu nhập theo đầu nguời tăng lên, tỷ lệ học sinh, tỷ lệ thầy thuốc trên 1000 người tăng... làm cho chất lượng cuộc sống tăng lên, nhưng hướng này còn tuỳ thuộc vào sự đứng đắn của cuộc sống và sự khôn khéo của chính phủ mỗi nức. Theo qui luật Kuznet ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển công nghiệp làm phân hoá giàu nghèo tăng lên. Nhưng khi kinh tế phát triển cao thì sự phân hoá giàu nghèo giảm dần. Vậy phát triển công nghiệp có vai trò làm cho chất lượng của mọi người trong nền kinh tế đều tăng tạo sự phát triển ổn định. 8. Phát triển công nghiệp là điều kiện cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có nhiều định nghĩa về công nghiệp hóa, hiện đại hóa do cách tiếp cận khác nhau. Nếu xét về mục tiêu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dung kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất lao động xã hội cao. Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã nêu: "Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động, công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao". Như vậy ở nước ta công nghiệp hóa là quá trình chuyển từ một nước sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc hậu và năng suất lao động thấp thành một nước có cơ cấu công nông nghiệp và dịch vụ hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, năng suất lao động cao trong các ngành kinh tế quốc dân. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình mang tính tất yếu lịch sử. Tất cả các quốc gia công nghiệp phát triển hiện nay đều trải qua quá trình công nghiệp hóa ở những thời điểm khác nhau với những điều kiện lịch sử kinh tế xã hội khác nhau. Với hầu hết các nước đang phát triển hiện nay, công nghiệp hóa là một chính sách chủ yếu và thách thức lớn. Đối với Việt Nam thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực, thoát khỏi cảnh một nước kém phát triển nghèo và đói, đồng thời giữ vững và ổn định chính trị, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ có công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Các Mác cho rằng, những thời đại kinh tế khác nhau không phải chúng sản xuất ra cái gì mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ giúp chúng ta có lực mới đẩy nhanh tốc độ phát triển, đưa Việt Nam lên ngang tầm với các nước trong khu vực và thế giới. Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết phải có nền công nghiệp hiện đại và việc phát triển công nghiệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9.doc
Tài liệu liên quan