Đề tài Rủi ro cho vay trong hoạt động của ngân hàng thương mại

Sau hai mươi năm đổi mới đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng kể trong tất cả các lĩnh vực : chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, quốc phòng, an ninh, ngoại giao, Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, với tốc độ tăng trưởng tương đối cao và ổn định so với khu vực và trên thế giới. Để có được thành công này là sự kết hợp của nhân nhiều yếu tố và các thành phần trong nền kinh tế, trong đó phải kế đến vai trò của hệ thống Ngân Hàng Thương Mại (NHTM) đối với nền kinh tế quốc dân.

Ngân hàng thương mại là một trong những trung gian tài chính có vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, chu chuyển luồng tiền phục vụ cho mọi hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng có hoạt động tốt thì mới điều hoà được nguồn vốn cho nền kinh tế, đặc biệt hiện nay nền kinh tế nước ta đang phát triển theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì vai trò của ngân hàng lại càng được khẳng định.

Do có vai trò quan trọng nên từ sự thành công hay thất bại trong hoạt động của hệ thống Ngân hàng có thể kéo theo nó là sự bíên động cùng chiều của nền kinh tế. Do vậy mà trong quản lý hoạt động của ngân hàng phải rất chú trọng đến đảm bảo an toàn cho ngân hàng, tránh sự đổ vỡ của một ngân hàng có thể kéo theo sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng. Kinh tế càng phát triển, nền kinh tế thị trường đã dần được định hướng rõ ở nước ta thì các Ngân hàng thương mại phải đối mặt với càng nhiều rủi ro như : Rủi ro tín dụng (trong đó có rủi ro cho vay), rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường,

Cho vay là hoạt động đem lại lợi nhụân chính cho ngân hàng, nhưng lợi nhuận thường đi cùng với rủi ro. Và rủi ro cho vay trong hoạt động của các ngân hàng thương mại quyết đinh rất lớn sự tồn tại của các ngân hàng thương mại. Xuất phát từ thực tiễn này, tôi quyết định chọn đề tài “Rủi ro cho vay trong hoạt động của Ngân hàng thương mại”, để có thể hiểu rõ hơn về hoạt động cho vay, rủi ro cho vay trong hoạt động của ngân hàng thương mại, từ đó tìm ra một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho vay, nâng cao hiệu quả hoạt động của hê thống Ngân hàng thương mại, tác động tốt vào sự phát triển nền kinh tế đất nước.

 

doc28 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1233 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Rủi ro cho vay trong hoạt động của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN………………………………………………………………..1 LỜI MỞ ĐẦU Sau hai mươi năm đổi mới đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng kể trong tất cả các lĩnh vực : chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, quốc phòng, an ninh, ngoại giao,… Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, với tốc độ tăng trưởng tương đối cao và ổn định so với khu vực và trên thế giới. Để có được thành công này là sự kết hợp của nhân nhiều yếu tố và các thành phần trong nền kinh tế, trong đó phải kế đến vai trò của hệ thống Ngân Hàng Thương Mại (NHTM) đối với nền kinh tế quốc dân. Ngân hàng thương mại là một trong những trung gian tài chính có vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, chu chuyển luồng tiền phục vụ cho mọi hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng có hoạt động tốt thì mới điều hoà được nguồn vốn cho nền kinh tế, đặc biệt hiện nay nền kinh tế nước ta đang phát triển theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì vai trò của ngân hàng lại càng được khẳng định. Do có vai trò quan trọng nên từ sự thành công hay thất bại trong hoạt động của hệ thống Ngân hàng có thể kéo theo nó là sự bíên động cùng chiều của nền kinh tế. Do vậy mà trong quản lý hoạt động của ngân hàng phải rất chú trọng đến đảm bảo an toàn cho ngân hàng, tránh sự đổ vỡ của một ngân hàng có thể kéo theo sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng. Kinh tế càng phát triển, nền kinh tế thị trường đã dần được định hướng rõ ở nước ta thì các Ngân hàng thương mại phải đối mặt với càng nhiều rủi ro như : Rủi ro tín dụng (trong đó có rủi ro cho vay), rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường,… Cho vay là hoạt động đem lại lợi nhụân chính cho ngân hàng, nhưng lợi nhuận thường đi cùng với rủi ro. Và rủi ro cho vay trong hoạt động của các ngân hàng thương mại quyết đinh rất lớn sự tồn tại của các ngân hàng thương mại. Xuất phát từ thực tiễn này, tôi quyết định chọn đề tài “Rủi ro cho vay trong hoạt động của Ngân hàng thương mại”, để có thể hiểu rõ hơn về hoạt động cho vay, rủi ro cho vay trong hoạt động của ngân hàng thương mại, từ đó tìm ra một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho vay, nâng cao hiệu quả hoạt động của hê thống Ngân hàng thương mại, tác động tốt vào sự phát triển nền kinh tế đất nước. NỘI DUNG CHƯƠNG I. Tổng quan về hoạt động cho vay của NHTM: 1.1.Hoạt động cho vay của NHTM: 1.1.1.Khái niệm và đặc điểm của hoạt động cho vay: 1.1.1.1. Khái niệm: Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Một NHTM có các chức năng là một trung gian thanh toán, trung gian tài chính và chức năng tạo tiền. Trong đó chức năng thanh toán được thực hiện chủ yếu qua các hoạt động thanh toán của ngân hàng, còn chức năng trung gian tài chính được thực hiện qua các hoạt động nhận tiền gửi và cho vay, trong đó hoạt động cho vay là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng thông qua tiền lãi ngân hàng nhận được. Đây là hoạt động truyền thống của các NHTM. Chúng ta có thể hiểu cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng sử dụng với cam kết hoàn trả cả gốc và lãi trong thời gian nhất định. 1.1.1.2. Đặc điểm: Hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong khoản mục tín dụng của các NHTM. Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Hoạt động cho vay là hoạt động truyền thống đem lại lợi nhuận lớn cho các ngân hàng, nguồn thu này phụ thuộc vào quy mô của khoản vay, thời hạn và lãi suất của khoản vay và cả ba yếu tố này có mối liên hệ khăng khít với nhau. Tiền cho vay là một món nợ với cá nhân hoặc công ty nhận món vay đó, nhưng lại là tài sản có đối với một ngân hàng vì nó mang lại thu nhập cho ngân hàng này. Nói chung tiền cho vay là kém lỏng so với các tài sản Có khác bởi vì chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản cho vay đó mãn hạn. Hoạt động cho vay, đi liền với lợi nhuận thu được là những rủi ro tiềm ẩn và tổn thất nếu xảy ra là rất lớn.Các khoản tiền vay có xác suất vỡ nợ cao hơn các tài sản có khác. Do thiếu tính lỏng và có rủi ro vỡ nợ cao nên ngân hàng thu được lợi tức cao nhất từ hoạt động cho vay. Do đó, việc quản lý hoạt động cho vay của ngân hàng yêu cầu sự thận trọng và cẩn thận kể từ khi ra quyết định cho vay cho đến khi thu hồi được vốn. 1.1.2. Các loại hình cho vay: Hoạt động cho vay có thể chia thành nhiều loại hình khác nhau và mối loại hình có quy trình nghiệp vụ và khung lãi suất riêng. Có nhiều tiêu thức để phân loại cho vay, như sau: Thứ nhất, nếu phân loai theo thời hạn cho vay, chúng ta có thể phân loại thành: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn. + Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn nhỏ hơn 12 tháng, mục đích là tài trợ cho tài sản lưu động, nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất hoặc các nhu cầu chi tiêu, tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình. Với hình thức cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức… Do thời hạn cho vay ngắn nên rủi ro với các khoản cho vay này là thấp hơn so với cho vay trung và dài hạn, tỷ trọng cho vay ngắn hạn cũng cao hơn cho vay trung và dài hạn. Cho vay trong thời gian ngắn nên ngân hàng có thể dự đoán được phần nào các biến động có thể ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng.Từ đó mà ngân hàng có được bịên pháp để hạn chế các rủi ro và các ảnh hưởng của rủi ro tới hoạt động của ngân hàng. + Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng. Cho vay trung hạn tài trợ cho các dự án có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh như: Đầu tư mua sắm tài sản cố đinh, cải tiên hoặc đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng… + Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn từ 60 tháng trở lên, chủ yếu đáp ứng các nhu cầu xây dựng nhà ở, mua sắm các thiết bị phương tiện vận tải có tải trọng lớn, và các công trình xay dựng quy mô lớn. Thời hạn cho vay là yếu tố quan trọng để ngân hàng xác định lãi suất cho vay sao cho phù hợp với mức độ rủi ro của khoản vay. Các khoản cho vay ngắn hạn rủi ro thấp nên thường được áp dụng mức lãi suất thấp, còn cho vay trung và dài hạn mức độ rủi ro cao hơn nên ngân hàng thường áp dụng mức lãi suất cao hơn.Dựa vào đặc điểm thời gian của khoản cho vay ngân hàng còn có thể giám sát các khoản vay đó được kỹ càng và chính xác hơn. Thứ hai, nếu phân loại theo hình thức hoàn trả, chúng ta có thể chia thành : Vay trả một lần và vay trả nhiều lần ( vay trả góp). + Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổư chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng. + CHo vay nhiều lần ( vay trả góp): Khi vay vốn tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. Thứ ba, nếu phân loại theo tài sản đảm bảo, chúng ta có thể phân thành loại cho vay có tài sản đảm bảo và cho vay không có tài sản đảm bảo. * Cho vay có tài sản đảm bảo: Là loại cho vay dựa trên các đảm bảo như: thế chấp , cầm cố những tài sản hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Cho vay có đảm bảo thường áp dụng đối vời khách hàng mới, mứcđộ tin tưởng chưa cao, hoặc là các món vay có giá trị lớn, nhờ đó đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Khi đến hạn thanh toán mà ngân hàng không thu được nợ hoặc chỉ thu được một phần thì ngân hàng có thể xử lý bằng cách bán tài sản đảm bảo hoặc yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng. Như vậy tài sản đảm bảo giúp ngân hàng hạn chế tổn thất khi có rủi ro cho vay xảy ra. Trong hoạt động cho vay, ngân hàng luôn cố gắng tỷ trọng cho vay có tài sản đảm bảo cao. * Cho vay không có tài sản đảm bảo: hình thức cho vay này được thực hiện dựa trên cơ sở uy tín, chỉ áp dụng với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, khả năng tài chính mạnh, ngân hàng có thể cho vay dựa vào uy tín của khách hàng mà không cần một tài sản đảm bảo nào. Nhưng khi xảy ra rủi ro khách hàng không trả được nợ hoặc cố tình không trả nợ thì tổn thất xảy ra là rất lớn, ngân hàng sẽ mất hoàn toàn vốn và lãi của khoản cho vay đó. Thứ tư, nếu phân loại theo hình thức tín dụng: +Cho vay mua tài sản cố định +Cho vay đầu tư tài sản lưu động +Cho vay phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu. Thứ năm, nếu phân loại theo mục đích vay, chúng ta có thể phân loại cho vay phục vụ sản xuất và cho vay tiêu dùng. Mỗi loại hình cho vay chứa đựng những rủi ro nhất định. 1.1.3. Vai trò của hoạt động cho vay: Đối với ngân hàng: Vai trò quan trọng nhất của hoạt động cho vay đối với ngân hàng là tạo nguồn lợi nhuận lâu dài, giúp duy trì và phát triển hệ thống ngân hàng. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Sự mở rộng hoạt động cho vay có vai trò tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển của ngân hàng cả về quy mô và chất lượng hoạt động. Đối với chủ thể đi vay: Thông qua việc đi vay khách hàng có được nguồn vốn cần thiết để phục vụ cho các mục đích kinh doanh của mình. Việc cung cấp kịp thời nguồn vốn giúp hoạt động kinh doanh diễn ra đúng dự định, nắm bắt được các cơ hội kinh doanh mang lại lợi nhuận. Để có nguồn vốn kinh doanh, khách hàng có thể có nhiều cách như đi vay người thân, đi vay các nhân tổ chức khác, hùn vốn, góp vón với cá nhân tổ chức khác… Nhưng khách hàng thường tìm đến ngân hàng để vay vốn vì ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhanh, khoản cho vay có tính ổn định cao, chi phí phù hợp và khách hàng có thể chủ động trong việc trả nợ. Đối với nền kinh tế: Ngân hàng đóng vai trò như cầu nối giữa người có vốn nhàn rỗi và người thiếu vốn, do vậy ngân hàng giúp sinh lời đối với nguồn vốn nhàn rỗi, đáp ứng nhu cầu về vốn của những người có phương án sản xuất kinh doanh tốt. Việc ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời, tạo điêù kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển. Hoạt động tín dụng (cho vay và đi vay) còn là công cụ vĩ mô của Nhà nước để tài trợ cho một số ngành kinh tế mũi nhọn, vùng kinh tế trọng điểm và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế phát triển. Cho vay nói riêng và tín dụng ngân hàng nói chung còn tạo điều kiện phát triển kinh tế đối ngoại. Ngày nay, xu hướng doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam tìm đối tác nước ngoài là rất mạnh, đặc biệt là hiện nay Việt Nam đã gia nhập WTO, thì quan hệ kinh tế đối ngoại sẽ càng phát triển. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ đứng trước thách thức lớn là phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực kinh tế mạnh, công nghệ, kĩ thuật hiện đại… Khi đó, các doanh nghiệp nước ta phải không ngừng đổi mới về mọi mặt để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Nhưng để làm được điều đó, doanh nghiệp cần có đủ tiềm lực tài chính. Khi đó, tín dụng ngân hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay là sự hỗ trợ đặc biệt cần thiết đối với các doanh nghiệp. 1.2 Rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng: 1.2.1.Quan niệm về rủi ro và các loại rủi ro trong cho vay của NHTM: Hoạt động tín dụng thiết lập mối quan giữa hai chủ thể là Ngân hàng và khách hàng. Khi quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng không được thực hiện đúng theo hợp đồng thì rủi ro xuất hiện, với hoạt động cho vay thì đó là rủi ro cho vay. Đối với ngân hàng, rủi ro cho vay là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chụi do khách hàng vay không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết, chậm trả hoặc không trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra, khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ tín dụng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy trong quan điểm quản lý ngân hàng nhất trí rằng, rủi ro tín dụng nói chung và rủi ro cho vay nói riêng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm cho rằng rủi ro là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. 1.2.2. Nguyên nhân : Ngân hàng cho vay với nhiều đối tượng với các phương thức cho vay khác nhau, dẫn đến mục đích vay, thời hạn vay, phương thức hoàn trả và khả năng hoàn trả là khác nhau. Do vậy nguyên nhân gây ra rủi ro cho vay cũng rất đa dạng. 1.2.2.1. Nguyên nhân khách quan : Đó là những nguyên nhân bất khả kháng tác động đến người vay khiến họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Ví dụ :Thiên tai, Chiến tranh, hoặc những thay đổi ở tầm vĩ mô (thay đổi Chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan...) vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay. Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhưng nhiều người vay với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó khăn. Trong những trường hợp khác, người vay có thể bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng xảy ra đối với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm. * Môi trường tự nhiên : Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như thay đổi thời tiết dẫn đến hạn hán, lũ lụt... làm cho hoạt động kinh doanh của khách hàng bị đình trệ, giảm sút,... dấn đến thua lỗ, phá sản, (đặc biệt là các khách hàng hoạt động trong kĩnh vực : Nông nghiêp, Lâm nghiệp, Khai thác và nuôi trồng thuỷ sản...), khách hàng mất khả năng thanh toán. * Môi trường pháp lý : Môi trường pháp lý tốt là điều kiện tốt để phát triển hoạt động kinh doanh, tuy nhiên nếu môi trường pháp lý thay đổi sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng cho hoạt động kinh doanh và là nguyên nhân dẫn đến việc phá sản, kinh doanh thua lỗ. Những văn bản pháp luật mới có thể gây hạn chế cho một số lĩnh vực, việc tăng thuế, giảm thuế, tăng hạn ngạch, tăng giảm bảo hộ đối với một số ngành sẽ gây cho chủ thể kinh doanh ngành đó có những biến đổi nhất định. Làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của khách hàng: thanh toán chậm, không trả được hết gốc và lãi khi đến hạn thanh toán. * Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp, kinh tế càng phát triển doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh và nhu cầu vay vốn càng cao. Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thường theo chu kỳ, những biến động trong nền kinh tế không phải nhà kinh doanh nào cũng có khả năng dự báo trước và đưa ra được những biện pháp phòng ngừa hợp lý để đối phó được những thay đổi đó, khiến họ không có khả năng hoàn trả đúng hạn cho ngân hàng hoặc cố tình hoàn trả chậm gây nhiều tổn thất cho ngân hàng. * Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay: Đây là nguyên nhân chính gây ra rủi ro. Những rủi ro này ngân hàng có thể phần nào kiểm soát được nếu ngân hàng thực hiện tốt việc sàng lọc khách hàng và quản lý, giám sát tốt các món vay trong kì hạn vay. Khả năng không trả được nợ đúng hạn của khách hàng có thể xuất phát từ các nguyên nhân sau : - Do hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng bị thua lỗ, khách hàng không có khả nằng thanh toán nợ theo đúng thời hạn đã định : + Trình độ quản lý yếu kém của doanh nghiệp cả về quá trình sản xuất và sử dụng con người. Quản lý kém gây giảm sút tài sản của doanh nghiệp và dẫn đến khả năng phá sản , không trả đựoc nợ vay. +Do yếu kém trong khâu định hướng sản xuất của doanh nghiệp: Điều đó làm cho doanh nghiệp có những nhân định sai về xu hướng thị trường trong tương lai, doanh nghiệp không có sự thay đổi kịp thời về nhân lực và sản phẩm cho phù hợp… Sản phẩm làm ra không được thị trường chấp nhận do mẫu mã, giá cả chưa hợp lý, không được sự chấp nhận rộng rãi của người tiêu dùng gây ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. +Do lừa đảo của đối tác làm ăn trong quá trình kinh doanh làm doanh nghiệp thua lỗ trong kinh doanh làm giảm khả năng trả nợ của doanh nghiệp. +Khách hàng gặp rủi ro trong quá trình đổi mới công nghệ, do khách hàng nhầm lẫn hoặc bị lừa đảo trong việc lựa chọn công nghệ, mua phải công nghệ lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu của xã hội làm cho việc sử dụng và thay thế công nghệ cũng khó khăn. Điều đó cũng làm giảm khả năng trả nợ đối với ngân hàng. - Do khách hàng cố ý lừa đảo ngân hàng: Cố tình không trả nợ với mong muốn chiếm đoạt khoản vay; thanh toán chậm, để tạm thời dùng số tiền đó vào mục đích kinh doanh, đầu tư,...nhằm mục đích sinh lời. Nhiều khách hàng lừa đảo ngân hàng bằng cách thực hiện chia nhỏ các khoản vay ở nhiều ngân hàng khác nhau để giảm sự giám sát, cố tình gian dối trong việc kê khai tình hình hoạt động kinh doanh, xây dựng những báo cáo tài chính tốt nhằm xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với ngân hàng, vay các khoản vay mới để trả nợ cho các khoản vay cũ. Thực tế những khách hàng này không có khả năng trả nợ và sớm muộn gì cũng gây tổn thất cho ngân hàng. 1.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan: Đó là các nguyên nhân thuộc về chủ quan ngân hàng như : - Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng, đánh giá không tốt, cố tình làm sai…là một trong những nguyên nhân của rủi ro cho vay. Nhân viên ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay…Như vậy họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng, liên tục, toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kỹ lưỡng thì rui ro cho vay luôn rình rập họ. - Công tác quản lý nghiệp vụ cho vay của ngân hàng chưa được tốt. Cụ thể đó là việc ngân hàng chưa xây dựng được một quy trình cho vay chuẩn hoá, hợp lý, các biện pháp giám sát các khoản vay có hiệu quả không cao, việc thu thập thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng tiến hành chậm làm giảm khả năng chủ động xử lý khi rủi ro cho vay xuất hiện. Các cán bộ lãnh đạo chưa giám sát chặt chẽ nhân viên ngân hàng làm nhân viên ngân hàng lơ là trong việc thực hiện quy trình cho vay, chưa giám sát chặt chẽ khoản vay… hoặc do buông lỏng quản lý tạo điều kiện cho nhân viên ngân hàng thông đồng với khách hàng thực hiện các khoản cho vay mang lại nhiều rủi ro hoặc gây mất vốn ngân hàng. - Đạo đức nghề nghiệp của nhân viên ngân hàng. Sống trong môi trường “tiền bạc”, nhiều nhân viên ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khách hàng vay rút ruột ngân hàng. Như vây chất lượng nhân viên ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân của rủi ro tín dụng nói chung và rủi ro cho vay nói riêng. - Hệ thống thông tin : trong quá trình cho vay, ngân hàng chủ yếu thu thập thông tin từ phía khách hàng, độ chính xác không cao. Vì khách hàng thường chỉ cung cấp cho ngân hàng những thông tin tốt về hoạt động và khả năng tài chính cũng như khả năng trả nợ của họ, dẫn đến những quyết định sai lầm của cán bộ trong quá trình thẩm định dự án và quyết định cho vay. Rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng là khó tránh khỏi. 1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro cho vay : 1.2.3.1 Nợ quá hạn: Nợ quá hạn là khoản nợ mà khi đến hạn trả nợ khách hàng chưa hoàn trả gốc, chưa hoàn trả lãi hoặc cả hai. Nếu không được điều chỉnh kỳ hạn nợ, hoặc được gia hạn nợ thì số nợ đến hạn phải chuyển sang nợ quá hạn, và khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn. Nợ quá hạn được xác định theo công thức : Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100 Tổng dư nợ Người ta sử dụng chỉ tiêu nợ quá hạn để đánh giá chất lượng tín dụng. Do vậy việc xác lập một tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý là rất cần thiết, theo tính toán hiện nay thì nợ quá hạn ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được. Ngân hàng thường phân thành các loại nợ ngắn hạn sau : +Nợ quá hạn thông thường :là những khoản nợ đã quá hạn những khách hàng có thiện chí trả nợ và khách hàng có tiềm lực về tài chính để trả nợ. +Nợ khó đòi : Là những khoản nợ quá hạn đã quá kì hạn gia nợ, hoặc không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản không bán được, con nợ thua lỗ triền miền, phá sản… +Nợ có khả năng mất vốn : là khoản nợ quá hạn mà mặc dù ngân hàng đã tìm mọi cách nhưng không thể thu hồi lại được vốn cho vay. Đối với loại nợ này, khả năng mất vốn của ngân hàng là rất cao vì vậy cần phải có biện pháp để giảm thiểu rủi ro. Đo lường rủi ro tín dụng : Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100 Tổng dư nợ Lãi treo phát sinh Tỷ lệ lãi treo = x 100 Tổng thu nhập từ hợp đồng tín dụng Lãi treo là tiền lãi của khoản cho vay mà ngân hàng chưa thu hồi được. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ thiệt hại trong thu nhập dự tính của ngân hàng ro rủi gây ra. Nợ khó đòi Tỷ lệ nợ khó đòi = x 100 Tổng doanh số cho vay Tỷ lệ này phản ánh tổn thất trong hoạt động cho vay của ngân hàng Nợ khoanh, xoá nợ Tỷ lệ nợ khoanh, xoá nợ = x 100 Tổng doanh số cho vay Nợ khoanh là những khoản cho vay không thu hồi được, thường là những khoản cho vay chính sách và Nhà nước phải “khoanh” lại. Miễn giảm lãi Tỷ lệ miễn giảm lãi = x 100 Tổng doanh số cho vay Nợ khó đòi Tỷ trọng nợ khó đòi = x 100 Nợ quá hạn Các tỷ lệ này càng lớn thì mức độ rủi ro càng cao, ngân hàng có nguy cơ mất một phần hoặc toàn bộ nợ không thu hồi được, thậm chí nếu nghiêm trọng có thể đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản. 1.2.3.2.Các chỉ tiêu khác : Bên cạnh nợ quá hạn và nợ khó đòi, nhà quản lý ngân hàng còn sử dụng các hình thức đo rủi ro cho vay khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hoá tài sản, lập hồ khách hàng, trích lập quỹ dự phòng, đặt giá đối với các khoản cho vay… Điểm của khách hàng : Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự án, mối quan hệ sòng phẳng…ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm : Khách hàng loại A hoặc điểm cao, rủi ro thấp; Khách hàng loại C, điểm thấp, rủi ro cao. Điểm của khách hàng cho thấy rủi ro ‘tiềm ẩn’. Các khoản cho vay có vấn đề : Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn, song trong quá trình theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản tài trợ đang có dấu hiệu thiếu lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay có vấn đề dựa trên quy định của ngân hàng. Tính kém đa dạng của tín dụng : Đa dạng hoá là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong chu kỳ của người vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng tập trung tài trợ cho một nhóm khách hàng, của một ngành, hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so với đa dạng hoá. Mất ổn định vĩ mô : Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình hình chính trị mất ổn định, vùng hay bị thiên tai… đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác động xấu đến người vay. Do vây, mất ổn định vĩ mô được ngân hàng xem là một nội dung phản ánh rủi ro cho vay. 1.2.4.Tác hại của rủi ro cho vay đối với hoạt động của ngân hàng : Giảm hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng, vòng quay vốn của ngân hàng giảm, giảm doanh số cho vay. Giảm lợi nhuận, giảm khả năng thanh toán. Giảm uy tín của ngân hàng. Từ những tác động trên có thể đưa ngân hàng đến bờ vực phá sản, mà sự phá sản của một ngân hàng có thể dẫn đến nguy cơ phá sản một số ngân hàng khác, xa hơn nữa là có thể cả hệ thống ngân hàng. Nếu điều này xảy ra thì tác động của nó đến nền kinh tế là rất xấu. CHƯƠNG II. Thực trạng rủi ro cho vay của các NHTM Việt Nam và giải pháp phòng ngừa: Hoạt động chính trong các ngân hàng thương mại hiện nay vẫn là những hoạt động tín dụng, trong đó cho vay chiếm tỷ trọng lớn. Hoạt động này có vai trò to lớn đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung.Tuy nhiên các ngân hàng cũng gặp phải không ít khó khăn, rủi ro tín dụng (rủi ro cho vay) luôn xảy ra với mọi ngân hàng dưới mọi hình thức và gây ảnh hưởng xấu tới từng ngân hàng nói riêng và toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung và cả với kinh tế. Rủi ro xảy ra, Ngân hàng đứng trước nguy cơ tổn thất do các khoản nợ chậm thu hồi hay không thu hồi được. Các tỷ trọng nợ quá hạn lớn là những dấu hiệu trực tiếp cho biết ngân hàng đã hoặc sẽ có nguy cơ bị mất một phần hay toàn số nợ, đối với tỷ trọng nợ quá hạn Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khuyến cáo là tỷ lệ này không vượt quá 5%. Thế nhưng trong những năm qua tỷ lệ này trong toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam đều trên dưới 10%, đây thực sự là một dấu hiệu đáng lo ngại cho tất cả các ngân hàng. Năm 2004 mức nợ xấu của các ngân hàng chiếm khoảng 10-12% tổng tài sản Có, tình hình tài chính không lành mạnh của các ngân hàng được xem là trọng tâm lớn trong quá trình tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng thương mại hiện nay. 2.1. Thống kê về tỷ lệ nợ quá hạn ở một số ngân hàng: 2.1.1.Thực trạng tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được xếpvào một trong số 23 ngân hàng lớn mạnh nhất của nước ta hiện nay. Hoạt động của Ngân hàng Ngoại Thương được đánh giá là rất có hiệu quả và vai trò của nó trong nền kinh tế nước ta hiện nay là rất lớn. Tuy vậy trong quá trình hoạt động, ngân hàng này cũng không thể tránh khỏi những rủi ro chung của hệ thống ngân hàng, trong đó có rủi ro cho vay. Sau đây là một vài thống kê về thực trạng rủi ro cho vay tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam: 2.1.1.1.Chi tiết các khoản mục nợ có vấn đề: Đơn vị:T

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc110732.doc
Tài liệu liên quan