Đề tài Sự hình thành nhân cách con người trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp từ thấp lên cao. Ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế phù hợp với nó. Sự phát triển của các hình thái kinh tế nối tiếp nhau là một quá trình lịch sử tự nhiên. Thực tiễn phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết. Trong đó , việc làm rõ vị trí của nhân cách & sự ảnh hưởng của cơ chế thị trường trong quá trình hình thành & phát triển nhân cách của con người là đòi hỏi cấp thiết cả về mặt lý luận, thực tiễn quản lý đất nước cũng như công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia.

Về bản chất, con người muốn tồn tại với tư cách là thành viên của xã hội thì tất yếu con người phải tuân theo một cơ chế xã hội mà họ đang sống. Nói cách khác, chính con người tạo ra cơ chế hoạt động xã hội, nhưng không phải tuỳ tiện theo ý muốn chủ quan mà bị quy định bởi những quy luật phát triển khách quan của xã hội, và sự biểu hiện về thái độ, hành vi, cách ứng xử đối với những vấn đề của xã hội chính là nhân cách của con người. Và kinh nghiệm thực tế của Việt Nam và của thế giới cho rằng : Kinh tế không thể phát triển lành mạnh & lâu dài nếu thiếu nền tảng nhân cách-đạo đức. Và con người không phải là sản phẩm thụ động của kinh tế mà có một sức mạnh tinh thần lớn lao tác động ngược lại với kinh tế. Trong những trang viết này, em xin được đề cập đến một trong những vấn đề đang được quan tâm : Đó là sự hình thành nhân cách con người trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

 

 

doc14 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1148 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Đề tài Sự hình thành nhân cách con người trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp từ thấp lên cao. ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế phù hợp với nó. Sự phát triển của các hình thái kinh tế nối tiếp nhau là một quá trình lịch sử tự nhiên. Thực tiễn phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết. Trong đó , việc làm rõ vị trí của nhân cách & sự ảnh hưởng của cơ chế thị trường trong quá trình hình thành & phát triển nhân cách của con người là đòi hỏi cấp thiết cả về mặt lý luận, thực tiễn quản lý đất nước cũng như công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia. Về bản chất, con người muốn tồn tại với tư cách là thành viên của xã hội thì tất yếu con người phải tuân theo một cơ chế xã hội mà họ đang sống. Nói cách khác, chính con người tạo ra cơ chế hoạt động xã hội, nhưng không phải tuỳ tiện theo ý muốn chủ quan mà bị quy định bởi những quy luật phát triển khách quan của xã hội, và sự biểu hiện về thái độ, hành vi, cách ứng xử … đối với những vấn đề của xã hội chính là nhân cách của con người. Và kinh nghiệm thực tế của Việt Nam và của thế giới cho rằng : Kinh tế không thể phát triển lành mạnh & lâu dài nếu thiếu nền tảng nhân cách-đạo đức. Và con người không phải là sản phẩm thụ động của kinh tế mà có một sức mạnh tinh thần lớn lao tác động ngược lại với kinh tế. Trong những trang viết này, em xin được đề cập đến một trong những vấn đề đang được quan tâm : Đó là sự hình thành nhân cách con người trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Phần A: Giới thiệu đề tài Trong các tác phẩm kinh điển của mình, C.Mac & Anghen cho rằng : Con người phải được đặc biệt chú trọng vì con người là sản phẩm cao nhất của quá trình phát triển lâu dài trong tự nhiên & xã hội. Con người có sự quan hệ thống nhất với tự nhiên & xã hội. Trong sự thống nhất biện chứng ấy, con người vừa là điểm xuất phát, vừa là khâu trung gian, là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội nên con người luôn đóng vai trò chủ thể của sự vận động & phát triển trong lịch sử. Chính vì vậy, Đảng & Nhà Nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Ngay từ đại hội Đảng lần thứ III năm 1960 Đảng ta đã khẳng định : “Con người là vốn quý nhất”. Nhưng việc hình thành một con người, một nhân cách bao giờ cũng trải qua một quá trình hình thành & phát triển cả về mặt sinh học-xã hội. Và mỗi bước tiến của nhân loại là một bước tiến của nhân cách con người. Đặc biệt ở Việt Nam, khi nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì nó đã làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội, tức là sự thay đổi hệ thống giá trị xã hội, đồng thời tạo ra những chuẩn mực xã hội mới. Điều đó đã tác động không nhỏ đến cách suy nghĩ & lối sống của người dân. Con người Việt Nam dần hình thành những hướng giá trị mới : Mẫu người cũ đã thay đổi, thay vào đó hình thành nên con người mới năng động, sáng tạo & hoàn thiện hơn. Do đó để xã hội của chúng ta phát triển theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới mà không đánh mất bản sắc của con người Việt Nam là mục tiêu & ý nguyện thiêng liêng, cao đẹp mà Đảng & nhà nước đã chỉ ra. Vì vậy theo em, nhân cách con người đặc biệt là nhân cách con người trong nền kinh tế thị trường là vấn đề cần được nghiên cứu để có những giải pháp hợp lý nhằm tạo nên những con người của cơ chế mới có đầy đủ đức lẫn tài, và có nhân cách tốt. Phần B: Nội dung nghiên cứu I. Lý luận chung về nhân cách con người trong cơ chế thị trường 1. Cơ sở lý luận a. Nhân cách là gì ? Ngày nay, chúng ta có thể nhận thấy có rất nhiều khái niệm khác nhau về nhân cách, cũng như bất cứ lĩnh vực nào khác, một vấn đề có thể nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy nghiên cứu về nhân cách và tính quy luật của sự hình thành nhân cách, chúng ta thấy rằng con người khi mới sinh ra thì chưa phải là một nhân cách, nó chỉ mang tiềm năng của một con người, một cá thể hình thành nên nhân cách. Nhân cách chỉ được hình thành & phát triển trong quá trình hoạt động xã hội, trong mối quan hệ nhiều chiều giữa cá nhân với gia đình, xã hội. Vậy nhân cách là gì? Nhân cách là toàn bộ những đặc tính và phẩm chất xã hội, tâm-sinh lý của cá nhân tạo thành chỉnh thể đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định, tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình là thế giới quan riêng biệt của mỗi cá nhân. Nói cách khác nhân cách là những giá trị làm người của mỗi cá nhân. b. Cơ chế thị trường là gì ? Thị trường là sản phẩm của sự phát triển kinh tế-xã hội. Vậy cơ chế thị trường là cơ cấu, chế độ, hình thức xã hội của các tổ chức và hoạt động kinh tế, trong đó mối quan hệ giữa con người với con người được biểu hiện thông qua việc mua bán trao đổi bằng tiền, quá trình đó là do thị trường điều tiết. Nói một cách tổng quát hơn : cơ chế thị trường chính là “bộ máy” kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường, điều tiết quá trình sản xuất & lưu thông hàng hoá thông qua sự tác động của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy luật giá trị-quy luật kinh tế căn bản của sản xuất & lưu thông hàng hoá. 2. Cơ sở thực tiễn a. Cơ chế thị trường trong xã hội tư bản và trong xã hội chủ nghĩa Đến đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò của kinh tế thị trường : “kinh tế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không độc lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng & phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.” kinh tế thị trường không đồng nhất với kinh tế tư bản chủ nghĩa, không phải là thành quả riêng của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường đã từng xuất hiện khá sớm trước chủ nghĩa tư bản & là thành quả chung của văn minh nhân loại. Việc chuyển nền kinh tế đất nước sang vận hành theo kinh tế thị trường không đơn thuần chỉ là quá trình thay đổi lại cấu trúc nền sản xuất xã hội với sự đổi mới cơ cấu sở hữu tư liệu sản xuất, cơ cấu sử dụng nhân lực, lao động … mà còn đổi mới nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế-xã hội như cơ chế quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Thị trường tư bản chủ nghĩa chịu tác động tất yếu của chính trị tư sản và gắn với nó là kiểu quản lý kinh doanh tư bản chủ nghĩa, dẫn đến sự khác nhau căn bản từ điểm xuất phát đến mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất. Thị trường xã hộichủ nghĩa chịu sự tác động tất yếu của nền chính trị vô sản & gắn với nó là kiểu tổ chức sản xuất - kinh doanh nhằm phát triển sản xuất, tiến tới một xã hội không có đối cực giàu nghèo - tiền đề của sự đối cực giai cấp & xã hội. b. Kinh tế thị trường là một yếu tố khách quan trong quá trình vận động & phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong lịch sử phát triển kinh tế ở các nước xã hộichủ nghĩa đã xuất hiện mô hình “kinh tế chỉ huy” hay mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Mô hình này xét về mặt thực chất là xoá bỏ các thành phần kinh tế với tư cách là cơ sở của sự tồn tại & phát triển kinh tế hàng hoá, và trong mô hình đó quan hệ hàng hoá - tiền tệ hầu như bị hình thức hoá nếu không muốn nói là bị phủ nhận. Cùng với sự kém hiệu quả của mô hình kinh tế đó thì chúng ta phải thừa nhận vai trò to lớn của kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường bản thân nó có những mặt tích cực là tạo ra những động lực mới để phát huy năng lực sáng tạo, khai thác mọi nguồn lực xã hội. Đó là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả năng đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Hơn nữa chiến lược phát triển kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường là tiền đề mở đường cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nhằm xây dựng nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuât đi lên chủ nghĩaxã hội. Tuy nhiên, Đảng ta không coi cơ chế thị trường là liều thuốc vạn năng vì vậy không khuyến khích phát triển nó về mọi phương diện. Bởi lẽ tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế thị trường sẽ rơi vào một sai lầm nguy hiểm từ phía khác. kinh tế thị trường bản thân nó vốn có những giới hạn, những khuyết tật mang tính tự phát như : Thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng kinh tế, phân hoá giàu-nghèo … Hơn thế nữa, cơ chế thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu cực & tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua cho thấy tuy mới áp dụng cơ chế thị trường chưa được bao lâu mà bên cạnh những thành tựu còn có những tiêu cực như : Lừa đảo, hối lộ, trốn thuế, nợ lần khó trả, thương mại hoá một cách tràn lan …làm giá trị đạo đức tinh thần bị băng hoại & xuống cấp, đồng tiền đã chi phối quan hệ giữa người với người, sự phân hoá giàu nghèo & bất công xã hội có chiều hướng tăng lên, lối sống ích kỷ, thực dụng có nguy cơ ngày càng tăng. Sự đổi mới cơ cấu kinh tế đã làm cho hệ thống giá trị xã hội có nhiều thay đổi & chuẩn mực mới đã phần nào chi phối đến đời sống của từng cá nhân trong xã hội, từ đó hình thành những con người mới. Vì vậy việc hình thành nhân cách con người trong nền kinh tế thị trường đang là vấn đề được sự quan tâm nhiều của các nhà nghiên cứu kinh tế xã hội. c. Việc hình thành nhân cách con người trong cơ chế thị trường. Sự chuyển biến nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường dẫn đến những tác động lớn bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống văn hoá trong đó có lĩnh vực đạo đức, nhân cách con người. Có nhiều ý kiến khác nhau về sự ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đến nhân cách con người : - Thứ nhất: Quan niệm đạo đức của xã hội đã bị mất định hướng hoặc là đang khủng hoảng. - Thứ hai: Có biến động thái quá, có suy thoái, có tha hoá, có bi kịch. - Thứ ba: Có xu hướng tiến bộ, tích cực. Loại ý kiến thứ nhất xuất phát từ thực tế khách quan là các hiện tượng tiêu cực xuất hiện ngày càng nhiều trong đời sống xã hội như : tham nhũng, hối lộ, lãng phí của công & các tệ nạn xã hội khác. Nhiều giá trị truyền thống bị xói mòn, một số tư tưởng mới chưa được kiểm nghiệm đã được đề cao. Bên cạnh đó, nhiều giá trị cũ đã tỏ ra lạc hậu vẫn được duy trì như thước đo “phẩm chất “ của con người. Trong cuộc sống đời thường người ta vẫn đòi hỏi một sự hy sinh vô điều kiện, một sự tận tuỵ quên mình như trong cuộc chiến tranh trước đây. Tất cả các yếu tố ấy tạo nên một thực trạng phức tạp của các giá trị đạo đức, dẫn đến một cái nhìn rất tiêu cực ở một bộ phận cán bộ & nhân dân ta. Loại ý kiến thứ hai chỉ ra xu hướng biến động thái quá của các giá trị đạo đức hiện nay. Từ chỗ lấy con người tập thể, con người xã hộichủ nghĩa làm mẫu mực sang coi trọng con người cá nhân, thậm chí là cá nhân ích kỷ, từ chỗ lấy lý tưởng, đạo đức làm mẫu chuyển sang coi nhẹ đạo đức phẩm giá, coi trọng giá trị thực dụng, tôn sùng đồng tiền, coi đồng tiền là trên hết, lấy đồng tiền làm thước đo giá trị con người thay cho giá trị đạo đức truyền thống. Tiền thâm nhập vào nhiều mối quan hệ của đạo đức xã hội, thậm chí trở thành nguyên tắc xử thế và tiêu chuẩn hành vi của không ít người. Loại ý kiến thứ ba chỉ ra một xu hướng biến động có giá trị tích cực trong đời sống xã hội hiện nay. Người ta thừa nhận có sự thay đổi các giá trị con người, từ dũng cảm, hy sinh trong chiến đấu sang năng động, sáng tạo & nhạy bén trong sản xuất kinh doanh. Tiêu biểu là những con người biết làm giàu cho mình & cho đất nước. Điều đó được thể hiện trong chính sách của đảng và nhà nước là khuyến khích làm giàu cho cá nhân và xã hội, nhưng không quên xoá đói giảm nghèo và không quên quan tâm đến những đối tượng được hưởng chính sách xã hội. d. Sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong cơ chế thị trường xã hộichủ nghĩa. Sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là nhân tố qui định nhân cách đạo đức sâu sắc nhất. Trong quan hệ đó, yếu tố xã hội giữ vai trò quyết định. Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho khai thác được cao nhất khả năng của mỗi thành viên vào các quá trình kinh tế, xã hội & thúc đẩy các quá trình đó phát triển lên trình độ cao hơn. xã hội là điều kiện, là môi trường để lợi ích cá nhân được khẳng định, xã hội càng phát triển thì cá nhân tiếp nhận được ngày càng nhiều những giá trị vật chất và tinh thần. Thoả mãn nhu cầu của con người là mục tiêu & nhiệm vụ của mọi chế độ xã hội. Những cá nhân có tài năng, phẩm chất, kinh nghiệm, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với xã hội sẽ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Những cá nhân bị thoái hoá, biến chất về nhân cách thì gây hậu quả xấu đến xã hội, cản trở sự phát triển của xã hội. Khi xem xét vai trò của cá nhân đối với xã hội cần chú ý rằng cá nhân chỉ có vai trò tích cực đối vơí xã hội một khi sự tác động của cá nhân đó phù hợp với qui luật phát triển khách quan của lịch sử, còn mức độ tác dụng lại tuỳ thuộc vào sự phát triển của xã hội và vị trí xã hội của bản thân cá nhân đó. Sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội có mặt khách quan & chủ quan. Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ đạt được của nền sản xuất xã hội, ở mức độ tăng năng suất lao động cho phép thoả mãn nhu cầu hợp lý ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội. Mặt chủ quan được biểu hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng qui luật về sự kết hợp giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội-một động lực phát triển của xã hội xã hộichủ nghĩa. Thực tế ở nước ta việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường đã có tác dụng thúc đẩy LLSX, nâng cao năng suất lao động, tạo điều kiện cho xã hội có khả năng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cá nhân, đồng thời do lợi ích cá nhân được quan tâm đầy đủ hơn nên đã tăng tính năng động, tích cực, tự giác của nhiều cá nhân, tạo điều kiện phát triển nhân cách. Song cơ chế thị trường cũng dẫn tới xu hướng tuyệt đối hoá lợi ích cá nhân, lợi ích trước mắt dẫn tới phân hoá thu nhập trong xã hội, mâu thuẫn giữa các lợi ích cá nhân và giữa cá nhân với tập thể, cá nhân & xã hội nảy sinh & phát triển. Những mâu thuẫn này nếu không được kịp thời giải quyết sẽ dẫn tới hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển nhân cách. Do đó phát huy những ưu thế, phát hiện & tìm cách hạn chế những khuyết tật của nền kinh tế thị trường nhằm tạo điều kiện phát triển nhân cách, phát huy yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, từng bước hình thành & thực hiện chiến lược xây dựng con người mới xã hộichủ nghĩa là phương hướng giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội ở nước ta hiện nay. II. Thực trạng của vấn đề 1. Những tác động của cơ chế thị trường đến nhân cách con người a. Theo hướng tích cực Do ảnh hưởng nặng nề của nhiều năm chiến tranh, của cơ chế thị trường tập trung quan liêu bao cấp … nền kinh tế nước ta đã tụt hậu nghiêm trọng so với khu vực & quốc tế. Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trường là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng, phục hồi sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng bắt kịp thời đại,làm cho đời sống con người ngày càng được cải thiện, nâng cao, những yêu cầu sinh hoạt vật chất cơ bản ngày càng được đáp ứng đầy đủ & nhanh chóng hơn. kinh tế thị trường đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi & đi vào cuộc sống rất nhanh, góp phần khơi dậy tiềm năng sáng tạo, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sôi nổi hơn, bộ măt xã hội được thay đổi. Cụ thể là việc hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, giảm lạm phát, tăng nhanh xuất khẩu và có bước phát triển mới về đối ngoại, khởi động tiến trình dân chủ hoá, ổn định chính trị, xã hội, giải quyết một phần thiếu thốn trong đời sống vật chất. Chính những thành tựu đó đang tạo ra điều kiện mới cho sự hình thành & phát triển nhân cách con người. kinh tế thị trường còn là điều kiện kích thích năng suất lao động không ngừng, sự tìm tòi sáng tạo của cá nhân trong sản xuất luôn được khuyến khích. Nói một cách khác, kinh tế thị trường là cơ sở để phát triển tính năng động của cá nhân, lợi ích cá nhân được kích thích. Do vậy, trong kinh tế thị trường con người tự vươn lên, tìm tòi sáng tạo trong lao động, sản xuất để sản phẩm ngày càng được nâng cao về số lượng & chất lượng. Đồng thời, nó còn đòi hỏi mỗi con người phải học tập, rèn luyện bản thân, tay nghề để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường. Đây cũng là một hướng tốt đẹp bù đắp những thiếu hụt trong hệ giá trị của con người Việt Nam b. Theo hướng tiêu cực Nền kinh tế thị trường phát triển kéo theo nhiều tiêu cực nảy sinh trong đời sống xã hội. Có những lúc, những nơi, kinh tế thị trường không những không làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà ngược lại, nó làm tha hoá bản chất con người, biến con người thành gã nô lệ sùng bái đồng tiền, hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh & lợi ích cá nhân, sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm, văn hoá, đạo đức luân lý. Khi nói đến mặt trái của kinh tế thị trường, C.Mac đã chỉ ra rằng : “Đó là một thứ mậu dịch không có lương tâm, nó làm cho quan hệ giữa con người với con người chìm ngập trong băng giá của sự tính toán lợi kỷ. Bởi vì, ngoài quan hệ lợi hại trần truồng, ngoài sự giao dịch tiền mặt lạnh lùng, vô tình sẽ chẳng còn mối quan hệ nào khác.” Điều này đã gây những tác động xấu, là quá trình khởi nên chất men kích thích làm khá nhiều cán bộ quản lý kinh tế và một số cán bộ khác “lao vào” bất chấp thủ đoạn, pháp luật, lương tâm, để đạt được mục đích xấu xa của mình. Điều này đúng với nhận xét của T.J.Dunning mà C.Mac đã dẫn lại trong “tư bản”: “với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản trở nên can đảm, được đảm bảo 10 % lợi nhuận thì người ta có thể dùng tư bản vào đâu cũng được, được 20 % thì nó hoạt bát hẳn nên, được 50 % thì nó trở nên thật táo bạo, được 100 % thì nó chà đạp nên mọi luật lệ của loài người, được 300 % thì nó không còn tội ác nào không dám phạm, dù có nguy cơ treo cổ.” Mặt khác, lợi nhuận cũng tự phát đẩy con người tới những hành vi phá hoại môi trường, làm tha hoá đạo đức, nhân phẩm. Sự cạnh tranh trên thị trường làm cho con người năng động, sáng tạo hơn, nhưng nhiều khi cũng làm mất đi lòng nhân ái, tính vị tha, biến con người thành những “cỗ máy” chỉ biết tính toán một cách sòng phẳng, lạnh lùng, thiếu nhân cách, đề cao chủ nghĩa cá nhân với triết lý sống “sống chết mặc bay” mâu thuẫn với chủ nghĩa tập thể, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Những bài học kinh nghiệm của nhiều nước đã chỉ ra rằng : nền kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình phân hoá cơ cấu xã hội, nó thể hiện ở sự phân biệt khá xa giữa người giàu & người nghèo. Bên cạnh một bộ phận dân cư có thu nhập cao, chính đáng nhờ sức lực của mình trong kinh doanh. Thì ở nước ta hiện nay, đang xuất hiện khuynh hướng làm giàu bằng bất cứ giá nào kể cả lừa đảo, làm hàng giả, gây tội ác thậm chí sẵn sàng chà đạp lên chính lương tâm & nhân cách của chính mình. Ngoài ra, nền kinh tế thị trường phát triển còn kéo theo những tệ nạn như : rượu chè, cờ bạc, mại dâm … nhất là một số các nhà doanh nghiệp lớn đã tìm cách kiếm thêm tiền bằng cách ăn hối lộ, tham nhũng làm hao hụt hàng tỷ đồng của nhà nước … Đó là căn bệnh nan y khó khắc phục trong kinh tế thị trường. Quả không sai khi ví kinh tế thị trường như một con dao hai lưỡi, nếu biết sử dụng thì rất có lợi, còn không thì dễ bị đứt tay. Những phân tích nói trên cho ta thấy kinh tế thị trường với mục tiêu xây dựng con người mới xã hộichủ nghĩa là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh.kinh tế thị trường vừa đào tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy nguồn lực, vừa tạo ra những độc tố đầu độc, huỷ hoại con người. c. Nguyên nhân cơ bản của sự ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường trong việc hình thành nhân cách. Những mặt tiêu cực nói trên, được hình thành trong cơ chế thị trường. Vậy làm như thế nào để nhìn ra nguyên nhân & giải phát tích cực nhất để khắc phục tình trạng đó. Có thể nói, một trong những nguyên nhân đó là trong quá trình đổi mới, chúng ta chưa lường hết những phức tạp & những tác động tiêu cực trong việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, chậm phát hiện & khắc phục những vấn đề nảy sinh những sơ hở trong các quyết định. Đólà bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ & hành động đơn giản, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ , không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối & nguyên tắc của Đảng. Cùng với những khó khăn trong kinh tế còn có những khó khăn trong các lĩnh vực khác : hệ thống pháp luật, thể chế và bộ máy chưa chuyển kịp với nền sản xuất hàng hoá & cơ chế thị trường. Trật tự kỷ cương chưa được chấp hành nghiêm chỉnh, nhà nước còn thiếu chính sách, biện pháp có hiệu lực để ngăn chặn những nguồn thu nhập phi pháp và điều tiết mức thu nhập, buông lỏng pháp chế, xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật không nghiêm, thiếu sự chặt chẽ & phối hợp đồng bộ trong công tác quản lý, điều hành đã làm ảnh hưởng không tốt đến việc hình thành & phát triển nhân cách con người. 2. Vai trò của chủ thể xã hội-cá nhân trong việc định hướng nhân cách Mỗi cá nhân sống trong môi trường xã hội đều chịu ảnh hưởng của một nền văn hoá nhất định. Theo các nhà triết học thì văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong quá trình thực tiễn lịch sử, xã hội và đặc trưng cho trình độ đạt được trong sự phát triển của lịch sử xã hội. Mọi người thể hiện văn hoá của mình trong trang phục, ăn uống, công việc và hàng loạt các hành động khác. Nếu thiếu nhân cách, văn hoá sẽ phát triển một chiều, nền văn minh sẽ bị méo mó, con người sẽ trở thành phương tiện thuần tuý cho nền văn minh trí tuệ chứ không phải trí tuệ con người. Tóm lại, văn hoá là sản phẩm của loài người, văn hoá được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người & xã hội. Song chính văn hoá lại tham gia vào việc tạo nên con người và duy trì sự bền vững, trật tự xã hội. Đó là quá trình gián tiếp học hỏi, qua đó cá nhân có thể phất triển bản chất xã hội, có khả năng tham gia vào đời sống xã hội, mối quan hệ này diễn ra suốt chu trình sống của con người. Và nhân cách con người được hiểu một cách toàn diện là tài-đức, là sự thống nhất giữa mặt cá nhân & xã hội. III. Giải pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Muốn xây dựng chủ nghĩaxã hội trước hết phải có con người xã hộichủ nghĩa, yếu tố con người giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi của cải vật chất và văn hoá. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần là mục tiêu, động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩaxã hội. Như vậy, để xây dựng con người toàn diện về mọi mặt, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì vấn đề hình thành nhân cách con người đóng một vai trò cực kỳ quan trọng & để thực hiện được điều đó chúng ta cần một số biện pháp nhất định : - Thứ nhất : Sớm hình thành được môn học về đạo đức kinh doanh để tổ chức giáo dục đầy đủ cho các đối tượng như : học sinh phổ thông, sinh viên trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, các cán bộ, công nhân viên của các doanh nghiệp và các viên chức nhà nước. - Thứ hai : Phải vận dụng tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh vào việc giáo dục trong các môn khoa học chuyên nghành cho thích hợp. - Thứ ba : Phải đưa các tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh vào trong các văn bản pháp luật, trong các chính sách chế độ của nhà nước, trong các điều lệ, nội qui hoạt động của doanh nghiệp. - Thứ tư : Tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh trong lĩnh vực đời sống xã hội. - Thứ năm : Tiến hành kiểm tra, đánh giá, khen thưởng & xử phạt đúng mức đối với những người và tổ chức làm tốt hoặc vi phạm. - Thứ sáu : Phải tiến tới xây dựng một trung tâm quốc gia nghiên cứu và tư vấn về đạo đức kinh doanh. Tham gia vào các tổ chức quốc tế về đạo đức kinh doanh, mỗi doanh nghiệp cần có cán bộ đủ tiêu chuẩn thực hiện chức năng giáo dục đạo đức kinh doanh. Phần C: Kết luận Như vậy vấn đề đạo đức xã hội hiện nay đang diễn ra phức tạp, có sự đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa cái thiện và cái ác, giữa hai lối sống : Lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của mình, có ý thức chăm lo cho lợi ích tập thể, với lối sống thực dụng, dối tá, ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền …. Đạo đức mới vừa phải đấu tranh với các hệ thống đạo đức khác, vừa phải đấu tranh tự đổi mới, tự khẳng định mình trong điều kiện mới. Đó là tình huống mà công cuộc đổi mới đặt ra cho đạo đức, đòi hỏi công tác giáo dục phải được tăng cường để góp phần tích cực vào quá trình đổi mới. Trong nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hộichủ nghĩa, cùng với việc chủ động từng bước xây dựng & tạo lập những kết cấu xã hội, những thể chế phù hợp để có một nền kinh tế phát triển lành mạnh theo định hướng xã hộiViệt Nam, tăng cường công tác giáo dục về những phẩm chất đạo đức cơ bản. Đó là sự hình thành về lý tưởng, niềm tin vào chủ nghĩaxã hội gắn liền với quá trình đấu tranh cách mạng. Có như vậy, chúng ta mới phát huy được những tác động tích cực và ngăn chặn, hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60941.doc
Tài liệu liên quan