Đề tài Thực trạng hoạt động chế biến – xuất khẩu hàng nông sản của công ty chế biến nông sản thực phẩm xuất khẩu Hải Dương

Xuất khẩu là sự trao đổi dịch vụ, hàng hoá giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng lẻ ở các quốc gia khác nhau. Xuất khẩu ngày càng mang tính chất sống còn vì một lý do cơ bản: Xuất khẩu mở rộng khả năng sản xuất và tiêu thụ tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với đường sản xuất cận biên của mỗi quốc gia.

 

Tiền đề của sự trao đổi là quá trình phân công lao động xã hội. Quá trình này đã dẫn đến việc chuyên môn hoá sản xuất được hình thành. Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng cao. Do đó số sản phẩm cùng dịch vụ thoả mãn nhu cầu của con người ngày càng tăng lên. Đến một thời điểm nào đó, để thoả mãn đồng bộ các nhu cầu của mình, người ta đã tiến hành hoạt động trao đổi, đầu tiên hoạt động trao đổi diễn ra trong vùng, lãnh thổ, quốc gia. Nhưng người ta đã nhận thấy rằng, việc mở rộng phạm vi trao đổi ra khỏi lãnh thổ, quốc gia ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận hơn và hoạt động xuất khẩu được thực hiện.

 

Hoạt động xuất khẩu đã phát triển trong một thời gian dài, và mỗi thời kì đều có những quan điểm khác nhau về hoạt động này. Trong quan điểm của chủ nghĩa trọng thương thì muốn có nhiều của cải, các nước phải tiến hành hoạt động buôn bán với nước ngoài. Lý thuyết trọng thương chỉ ra rằng lợi nhuận buôn bán là kết quả của sự trao đổi không ngang giá và lừa đảo giữa các quốc gia. Hay quốc gia nào xuất khẩu nhiều hơn sẽ có lợi, quốc gia nào nhập khẩu nhiều thì thiệt hại.

 

Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam - Smith thì hoạt động xuất khẩu giữa các nước phải dựa trên lợi thế tuyệt đối của các nướclàm cơ sở. Với mỗi nước khác nhau, có những lợi thế khác nhau nên sản xuất ra những sản phẩm khác nhau và đem trao đổi cho nhau thì các bên cùng có lợi.

 

Bên cạnh đó, xuất khẩu còn bắt nguồn từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên khác nhau của mỗi quốc gia, nên một việc có lợi là mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu hàng hoá mà mình có lợi thế để nhập khẩu những hàng hoá khác từ nước ngoài.

 

Đến năm 1817, nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã chứng minh rằng chuyên môn hoá có lợi cho một nước và gọi đó là quy luật lợi thế tương đối hay lý thuyết lợi thế so sánh. Quy luật này nhấn mạnh vào sự khác nhau của chi phí sản xuất, và coi đó là chìa khoá của phương thức thương mại. Lý thuyết này khẳng định nếu một nước tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất những sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối ( hay có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất ) thì thương mại sẽ có lợi cho cả hai bên. Thậm chí những quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu để tạo lợi ích cho mình.

 

Nguồn gốc của hoạt động xuất khẩu còn do sự chênh lệch giữa các nước về chi phí cơ hội của hàng hoá tạo ra. Chi phí cơ hội của một mặt hàng là số lượng mặt hàng mà người ta phải loại bỏ để sản xuất ra thêm một đơn vị mặt hàng nào đó. Chính chi phí cơ hội cho ta biết chi phí tương đối để làm ra các mặt hàng khác nhau. Sự khác nhau giữa các nước về chi phí tương đối trong sản xuất quyết định hình thức của hoạt động xuất khẩu.

 

Một trong các lý do khiến hoạt động xuất khẩu trở nên rất quan trọng trong thế giới hiện đại đó là xuất khẩu rất cần thiết cho việc thực hiện chuyên môn hoá sâu để có hiệu quả kinh tế cao trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại. Chuyên môn hoá quy mô lớn sẽ làm giảm chi phí sản xuất và hiệu quả kinh tế theo quy mô được thực hiện.

 

Heckscher – Ohlin nhà kinh tế học Thuỵ Điển đã phát hiện quy luật lợi thế trên dựa vào sự phát triển của khoa học kĩ thuật, đó là việc tính toán các yếu tố đầu vào để xác định sản phẩm đầu ra có giá thành thấp nhất có thể. Những nước có ưu thế về nguồn lực như: tài nguyên, lao động, đất đai. thì giá thành sản phẩm rẻ nếu quốc gia đó chọn những sản phẩm chuyên môn hoá sử dụng nhiều nguồn lực về tài nguyên, lao động, đất đai. và từ đó họ kinh doanh có hiệu quả.

 

Sự khác nhau về sở thích cũng như nhu cầu cũng là một nguyên nhân dẫn đến hoạt động xuất khẩu.

 

doc79 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1076 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động chế biến – xuất khẩu hàng nông sản của công ty chế biến nông sản thực phẩm xuất khẩu Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I: Xuất khẩu – Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. I. Xuất khẩu và vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp. 1. Nguồn gốc - khái niệm của hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu là sự trao đổi dịch vụ, hàng hoá giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng lẻ ở các quốc gia khác nhau. Xuất khẩu ngày càng mang tính chất sống còn vì một lý do cơ bản: Xuất khẩu mở rộng khả năng sản xuất và tiêu thụ tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với đường sản xuất cận biên của mỗi quốc gia. Tiền đề của sự trao đổi là quá trình phân công lao động xã hội. Quá trình này đã dẫn đến việc chuyên môn hoá sản xuất được hình thành. Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng cao. Do đó số sản phẩm cùng dịch vụ thoả mãn nhu cầu của con người ngày càng tăng lên. Đến một thời điểm nào đó, để thoả mãn đồng bộ các nhu cầu của mình, người ta đã tiến hành hoạt động trao đổi, đầu tiên hoạt động trao đổi diễn ra trong vùng, lãnh thổ, quốc gia. Nhưng người ta đã nhận thấy rằng, việc mở rộng phạm vi trao đổi ra khỏi lãnh thổ, quốc gia ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận hơn và hoạt động xuất khẩu được thực hiện. Hoạt động xuất khẩu đã phát triển trong một thời gian dài, và mỗi thời kì đều có những quan điểm khác nhau về hoạt động này. Trong quan điểm của chủ nghĩa trọng thương thì muốn có nhiều của cải, các nước phải tiến hành hoạt động buôn bán với nước ngoài. Lý thuyết trọng thương chỉ ra rằng lợi nhuận buôn bán là kết quả của sự trao đổi không ngang giá và lừa đảo giữa các quốc gia. Hay quốc gia nào xuất khẩu nhiều hơn sẽ có lợi, quốc gia nào nhập khẩu nhiều thì thiệt hại. Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam - Smith thì hoạt động xuất khẩu giữa các nước phải dựa trên lợi thế tuyệt đối của các nướclàm cơ sở. Với mỗi nước khác nhau, có những lợi thế khác nhau nên sản xuất ra những sản phẩm khác nhau và đem trao đổi cho nhau thì các bên cùng có lợi. Bên cạnh đó, xuất khẩu còn bắt nguồn từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên khác nhau của mỗi quốc gia, nên một việc có lợi là mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu hàng hoá mà mình có lợi thế để nhập khẩu những hàng hoá khác từ nước ngoài. Đến năm 1817, nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã chứng minh rằng chuyên môn hoá có lợi cho một nước và gọi đó là quy luật lợi thế tương đối hay lý thuyết lợi thế so sánh. Quy luật này nhấn mạnh vào sự khác nhau của chi phí sản xuất, và coi đó là chìa khoá của phương thức thương mại. Lý thuyết này khẳng định nếu một nước tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất những sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối ( hay có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất ) thì thương mại sẽ có lợi cho cả hai bên. Thậm chí những quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu để tạo lợi ích cho mình. Nguồn gốc của hoạt động xuất khẩu còn do sự chênh lệch giữa các nước về chi phí cơ hội của hàng hoá tạo ra. Chi phí cơ hội của một mặt hàng là số lượng mặt hàng mà người ta phải loại bỏ để sản xuất ra thêm một đơn vị mặt hàng nào đó. Chính chi phí cơ hội cho ta biết chi phí tương đối để làm ra các mặt hàng khác nhau. Sự khác nhau giữa các nước về chi phí tương đối trong sản xuất quyết định hình thức của hoạt động xuất khẩu. Một trong các lý do khiến hoạt động xuất khẩu trở nên rất quan trọng trong thế giới hiện đại đó là xuất khẩu rất cần thiết cho việc thực hiện chuyên môn hoá sâu để có hiệu quả kinh tế cao trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại. Chuyên môn hoá quy mô lớn sẽ làm giảm chi phí sản xuất và hiệu quả kinh tế theo quy mô được thực hiện. Heckscher – Ohlin nhà kinh tế học Thuỵ Điển đã phát hiện quy luật lợi thế trên dựa vào sự phát triển của khoa học kĩ thuật, đó là việc tính toán các yếu tố đầu vào để xác định sản phẩm đầu ra có giá thành thấp nhất có thể. Những nước có ưu thế về nguồn lực như: tài nguyên, lao động, đất đai... thì giá thành sản phẩm rẻ nếu quốc gia đó chọn những sản phẩm chuyên môn hoá sử dụng nhiều nguồn lực về tài nguyên, lao động, đất đai... và từ đó họ kinh doanh có hiệu quả. Sự khác nhau về sở thích cũng như nhu cầu cũng là một nguyên nhân dẫn đến hoạt động xuất khẩu. 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong hoạt động kinh doanh. Cùng với hoạt động buôn bán trong nước, hoạt động xuất khẩu cũng đóng vai trò không nhỏ trong việc tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống những quan hệ mua bán từ trong ra ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu cũng như thành phần kinh tế. Do đó, xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại dễ mang lại những hiệu quả đột biến cao. Trong nền kinh tế thị trường, xuất khẩu ngày càng có vai trò quan trọng không chỉ đối với một doanh nghiệp mà còn có vai trò quan trong đối với cả nền kinh tế của một quốc gia. 2.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc gia + Phát huy nội lực của nền kinh tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thông qua việc đầu tư kỹ thuât, đầu tư cho nhân lực... Mở rộng năng lực sản xuất của quốc gia thông qua việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, khai thông được các nguồn thông tin và tận dụng được mọi mối quan hệ do xuất khẩu mang lại hiệu quả kinh tế cao. + Chất lượng hàng hoá được nâng cao, áp dung kĩ thuật mới được tiến hành một cách thường xuyên và có ý thức hơn do có sự cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Việc xuất khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì sự cạnh tranh giữa các chủ thể xuất khẩu là tất yếu diễn ra. + Hoạt động xuất khẩu còn đưa tới việc xoá bỏ nhanh chóng các chủ thể kinh doanh các sản phẩm lạc hậu không thể chấp nhận được. Hoạt động xuất khẩu còn góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu cuả nhà nước và của mỗi địa phương theo hướng có lợi nhất thông qua những đòi hỏi hợp lý của các chủ thể tham gia vào hoạt động này. + Xuất khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dẫn tới việc hình thành các liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước một cách tự nguyện nhằm tạo sức mạnh thiết thực cho các chủ thể. 2.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp. + Thông qua hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu cơ bản của mình đó là lợi nhuận, một mục tiêu mà mọi doanh nghiệp đều phải hướng tới. Lợi nhuận là mục tiêu đầu tiên cũng như mục tiêu quan trọng nhất của doanh nghiệp, nó quyết định và chi phối các hoạt động khác như: nghiên cứu, tìm kiếm thị trường mới; thu mua và tạo nguồn hàng; tiến hành các hoạt động dự trữ, dịch vụ... + Xuất khẩu là hoạt động quan hệ mật thiết với khách hàng quốc tế, ảnh hưởng đến niềm tin cũng như khả năng tái tạo nhu cầu của họ. Do vậy, đó cũng là một vũ khí cạnh tranh sắc bén của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. + Xuất khẩu tạo thêm việc làm cho người lao động của doanh nghiệp, nó làm tăng thêm thu nhập của họ đồng thời cũng phát huy được sự sáng tạo của người lao động Xuất khẩu dẫn tới sự hợp tác giữa các nhà khoa học và các doanh nghiệp một cách thiết thực từ phía nhà sản xuất, nó khơi thông nguồn chất xám trong và ngoài nước. II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở doanh nghiệp. Xuất khẩu là hoạt động mua bán hàng hoá với nước ngoài song cũng có nhiều nét riêng, phức tạp hơn so với buôn bán trong nước. Hoạt động này có liên quan đến các vấn đề như: thông lệ quốc tế, ngôn ngữ, bản sắc văn hoá, sự vận động của thị trường quốc tế, đồng tiền, phương thức và điều kiện thanh toán... Hoạt động xuất khẩu được thực hiện qua nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra nghiên cứu thị trường, lựa chọn hàng hoá và nghiên cứu giá cả cho xuất khẩu, lập phương án kinh doanh, đàm phán kí kết hợp đồng, đến điều kiện thanh toán. Mỗi khâu, mỗi bước phải được nghiên cứu thực hiện đầy đủ theo đúng nghiệp vụ, đúng thủ tục, phải tranh thủ nắm bắt được các lợi thế đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu đạt giá trị cao nhất. Đối với nhà xuất khẩu, trước khi bước vào nghiên cứu, thực hiện các khâu nghiệp vụ thì phải nắm bắt được các thông tin về nhu cầu hàng hoá, thị hiếu của khách hàng nước ngoài, những ảnh hưởng của đối thủ cạnh tranh, những yếu tố văn hoá, pháp luật... và quan trọng hơn cả là giá của hàng hoá và xu hướng vận động của nó. Hoạt động xuất khẩu thường được thực hiện qua một số bước sau: 1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường. Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hoá, ở đâu có lưu thông hàng hoá, ở đó có thị trường. Nắm vững được thị trường là nắm bắt được các yếu tố của thị trường và xu hướng vận động của các yếu tố đó. Để nắm vững được các yếu tố của thị trường, hiểu biết được quy luật cuả chúng nhằm xử lí kịp thời, người xuất khẩu phải tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường. Mục đích của hoạt động nghiên cứu thị trường là tìm hiểu các thông tin cho quá trình ra quyết định của doanh nghiệp. Thông tin chính xác đầy đủ về thị trường trong lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp chính là tiền đề của sự phát triển, cho khả năng chi phối thị trường và thành công của doanh nghiệp. Quá trình nghiên cứu thị trường bao gồm các bước sau: + Tổ chức thu thập thông tin: Thông tin cần thu thập bao gồm thông tin sơ cấp và thông tin thứ cấp. Trong đó thông tin thứ cấp là thông tin đã được thông báo từ những tài liệu đã được công bố như báo chí, tài liệu, báo cáo của công ty. Thông tin sơ cấp là thông tin mà doanh nghiệp tự thu thập được thông qua các chương trình đã định sẵn. + Xử lí thông tin: Xử lí thông tin là quá trình tiến hành phân loại, tổng hợp, phân tích kiểm tra trên cơ sở những thông tin đã thu được để xác định chính xác của các thông tin riêng lẻ cục bộ, loại trừ các thông tin sai lệch, thông tin nhiễu, giả tạo nhằm xác định thị trường mục tiêu, nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp. + Ra quyết định: Quá trình xử lí thông tin cũng là việc lựa chọn để ra quyết định. Sự đúng đắn, chính xác của các quyết định do thực tế kết quả của việc thực hiện các quyết định đó trả lời. Nghiên cứu thị trường không chỉ là việc tìm ra các thông tin mà còn là quá trình nghiên cứu đánh giá sự ảnh hưởng của các thông tin đó đến các hoạt động của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu thị trường không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu lĩnh vực lưu thông mà còn cả lĩnh vực sản xuất và phân phối hàng hoá. Quá trình nghiên cứu thị trường phải trả lời được nhưng câu hỏi: Xuất khẩu cái gì? Dung lượng thị trường của hàng hoá đó ra sao? đối tác giao dịch là ai? Phương thức giao dịch và thanh toán như thế nào? Từ đó đưa ra các chiến lược cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. 1.1. Lựa chọn thị trường xuất khẩu. Việc lựa chọn thị trường xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với việc tìm kiếm và lựa chọn thị trường trong nước. Khi tìm kiếm thị trường nước ngoài doanh nghiệp phải vượt qua một số khó khăn nhất định như bất đồng ngôn ngữ, hệ thống luật áp dụng, thị hiếu của người tiêu dùng... bên cạnh đó, doanh nghiệp phải xác định được khi xuất khẩu sang thị trường này doanh nghiệp cần có nhưng biện pháp marketing nào cho phù hợp, những dịch vụ gì đi kèm để có thể thu được hiệu quả cao nhất... chính vì thế mà các doanh nghiệp phải thận trọng trong việc lựa chọn thị trường. Trong quá trình nghiên cứu thị trường cần chú ý tới những vấn đề sau: Quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, dung lượng thị trường và các nhân tố tác động tới sự thay đổi của dung lượng thị trường. * Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trong một phạm vi thị trường nhất định trong một thời kì nhất định ( thường là một năm ) . Nghiên cứu về dung lượng thị trường cần xác định nhu cầu và nguồn một cách thực tế, kể cả lượng dự trữ xu hướng biến động trong từng thời điểm, trong từng vùng, và khu vực, từng lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng. Bên cạnh việc nghiên cứu, nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao gồm: khả năng sản xuất của hàng hoá thay thế, xu hướng lựa chọn tiêu dùng, tính chất thời vụ của sản xuất và tiêu dùng hàng hoá trên thị trường thế giới. * Dung lượng thị trường là không cố định, nó thay đổi tuỳ theo sự tác động của một số các nhân tố trong một khoảng thời gian nhất định. Người ta chia các nhân tố làm thay đổi dung lượng thị trường thành 3 nhóm sau: Loại 1: Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến động có tính chất chu kỳ. Đó là sự khủng hoảng mang tính chu kỳ của các nước TBCN và tính chất thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. Phải chú ý phân tích sự biến động về kinh tế của các nước TBCN giữ vai trò chủ yếu trên thị trường vì khi các nước này rơi vào khủng hoảng thì dung lượng thị trường bị co hẹp và ngược lại thì dung lượng thị trường tăng lên. Bên cạnh đó, do đặc điểm sản xuất và lưu thông các loại hàng hoá khác nhau nên sự tác động của nhân tố thời vụ này rất đa dạng và với các ức độ khác nhau. Loại 2: Các nhân tố làm ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi dung lượng thị trường. Các nhân tố này bao gồm: tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp chính sách của nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng loạn, thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng, khả năng của hàng hoá thay thế. Loại 3: Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường như hiện tượng đầu cơ, các yếu tố tự nhiên như bão lụt, động đất..., các yếu tố chính trị – xã hội như đình công... Nắm vững dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng trong từng thời kì có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nó giúp cho nhà xuất khẩu cân nhắc để đề ra các quyết định kịp thời, chính xác, nhanh chóng chớp được thời cơ giao dịch nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Bên cạnh việc nắm được dung lượng thị trường, nhà xuất khẩu phải nắm bắt được tình hình kinh doanh mặt hàng đó trên thị trường, các điều kiện về chính trị, thương mại, luật pháp, tập quán buôn bán... để hoà nhập nhanh chóng, có hiệu quả tránh được những sai sót khi giao dịch. 1.2. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu. Mục đích của việc lựa chọn mặt hàng này là để xác định xem những mặt hàng kinh doanh nào phù hợp với khả năng của doanh nghiệp, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Để lựa chọn thị trường xuất khẩu trước tiên cần dựa vào nhu cầu sản xuất, quy cách, chất lượng, chủng loại, thị hiếu của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Về khía cạnh thương phẩm phải hiểu rõ giá trị, công dụng đặc tính, phẩm chất, mẫu mã...nắm bắt đầy đủ giá cả hàng hoá ứng với từng điều kiện giao hàng và phẩm chất hàng hoá, khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của các đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp khi tiến hành nghiên cứu thị trường phải chú ý nghiên cứu đối thủ cạnh tranh về số lượng và mức độ tham gia của họ với thị trường, khả năng cung ứng, tiềm lực doanh nghiệp, các kế hoạch sản xuất kinh doanh..., thậm chí cả khả năng thu mua của họ. Mặt hàng được lựa chọn ngoài việc phù hợp với nhu cầu của thị trường phải phù hợp với tiềm lực của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi phải có sự phân tích, đánh giá kĩ tiềm lực bên trong của doanh nghiệp cũng như dự đoán được nhưng thuận lợi và khó khăn doanh nghiệp gặp phải khi tiến hành việc cung ứng hàng hoá này ra thị trường nước ngoài. Yếu tố thứ hai phải chú ý trong việc lựa chọn hàng xuất khẩu đó là tỷ suất ngoại tệ của các mặt hàng. Trong trường hợp xuất khẩu, tỷ xuất hàng xuất khẩu là số lượng bản tệ phải bỏ ra để thu về một đồng ngoại tệ. Nếu tỷ suất này thấp hơn tỷ giá hối đoái thì xuất khẩu được, ngược lại thì không nên xuất khẩu. Yêú tố nữa phải tính đến đó là kinh nghiệm của người nghiên cứu thị trường để dự đoán được những xu thế biến động của hàng hoá, của giá cả hàng hoá đó trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài, khả năng thương lượng để đạt được các điều kiện mua bán ưu thế hơn. 1.3 Lựa chọn đối tác. Trong hoạt động xuất khẩu thì khách hàng là những người, tổ chức có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các quan hệ mua bán hàng hoá, dịch vụ các hoạt động hợp tác kinh tế. Việc lựa chọn khách hàng có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng để thực hiện tốt các điều khoản của hợp đồng mà các bên đã ký kết. Người ta thường lựa chọn đối tác dựa vào một số các yếu tố sau: * Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi hoạt động kinh doanh để thấy được khả năng hợp tác lâu dài, thường xuyên, khả năng đặt hàng và liên kết kinh doanh. * Khả năng về vốn, cơ sở vật chất cho thấy những ưu thế trong thoả thuận giá cả và điều kiện thanh toán. * Thái độ và quan điểm kinh doanh của đối tác. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu uy tín và quan hệ trong kinh doanh của đối tác cũng là một trong những điều kiện quan trọng cho phép đưa ra những quyết định trong hoạt động xuất khẩu có hiệu quả hơn. Nghiên cứu thị trường hàng hoá trước khi tổ chức hoạt động xuất khẩu là cần thiết và rất quan trọng, đó là bước tiền đề để hoạt động xuất khẩu được tiến hành một cách thắng lợi. 2. Nghiên cứu giá cả hàng hoá xuất khẩu. Giá cả là sự biểu hiên bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời nó cũng biểu hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ trong nền kinh tế quốc dân. Giá cả luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố cấu thành nên thị trường. Giá cả có thể bao gồm các yếu tố: Giá trị hàng hoá đơn thuần, bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí khác tuỳ theo quá trình giao dịch và sự thoả thuận của các bên tham gia. Đối với hoạt động xuất khẩu, giá cả thị trường càng trở nên phức tạp do việc mua bán giữa các khu vực diễn ra trong thời gian dài, hàng hoá được vận chuyển qua qua nhiều nước với các chính sách thuế khác nhau. Do vậy để đạt được hiệu quả cao trên thương trường các doanh nghiệp phải luôn theo dõi nghiên cưú những biến động của giá cả thị trường.nghiên cứu giá cả bao ggồm việc nghiên cứu nghiên cứu mức giá từng mặt hàng tại từng thời điểm, các loại giá trên thị trường, xu hướng biến động và các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Giá quốc tế có tính chất đại diện nhất định đối với từng loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới. Giá đó phải là giá của những giao dịch thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Xu hướng biến động của giá cả các loại hàng hoá trên thị trường thế giới rất phức tạp. Trong cùng một thời gian, giá cả có thể biến động theo những chiều hướng trái ngược nhau với những mức độ nhiều ít khác nhau do sự tác động của các nhân tố khác nhau: * Nhân tố chu kỳ: Đó là sự vận động có tính quy luật của nền kinh tế, là nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự biến động giá cả của tất cả các loại hàng. * Nhân tố lũng loạn của các công ty đa quốc gia: Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự hình thành và biến động của giá cả hiện nay. Lũng loạn làm xuất hiện nhiều mức giá đối với cùng một loại hàng hoá thậm chí trên cùng một thị trường. * Nhân tố cạnh tranh có thể làm cho giá biến động theo xu hướng khác nhau tuỳ thuộc đối tượng tham gia vào cuộc cạnh tranh là người mua hay người bán. * Nhân tố cung cầu: nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới sự biến động giá cả hàng hoá. Nếu cung vượt quá cầu thì thúc đẩy xu hướng giảm giá và ngược lại... Ngoài những nhân tố tác động thường xuyên trên còn có nhều nhân tố khác tác động đến giá cả thị trường như chính sách của nhà nước, xung đột xã hội, thiên tai... Đây là những nhân tố tác động đến giá trong thời gian ngắn. 3. Xây dựng kế hoạch và chiến lược xuất khẩu. 3.1. Xây dựng kế hoạch xuất khẩu. Dựa vào kết quả nghiên cứu của các khâu trên, doanh nghiệp tiến hành xây dựng chiến lược, kế hoạch xuất khẩu cụ thể. Đây là bước chuẩn bị trên giấy tờ để dự đoán về diễn biến về quá trình xuất khẩu và các mục tiêu sẽ đạt được khi thực hiện quá trình này. Chiến lược xuất khẩu là định hướng hoạt động có mục tiêu của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định và hệ thống các chính sách, biện pháp, điều kiện để thực hiện các mục tiêu đó. Chiến lược xuất khẩu là một bước phát triển tất yếu trong quá trình tổ chức và quản lý doanh nghiệp, nó giúp cho doanh nghiệp biết được hướng đi và mục đích hoạt động kinh doanh đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Mục tiêu của chiến lược thường là: Chiến lược mặt hàng xuất khẩu, tăng kim ngạch, tối đa hoá lợi nhuận, mở rộng thị trường, nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Chiến lược xuất khẩu phản ánh những đánh giá của doanh nghiệp về điều kiện cơ hội thị trường và khả năng lợi dụng những cơ hội ấy của doanh nghiệp. Căn cứ vào kết quả đó, doanh nghiệp sẽ quyết định sẽ mở rộng hơn, thu hẹp lại, duy trì như trước hay chuyên môn hoá ở một bộ phận chiến lược nào đó. 3.2. Kế hoạch xuất khẩu. Kế hoạch xuất khẩu là phương tiện để phối hợp thống nhất các nỗ lực của các thành viên trong doanh nghiệp. Đây là sự cụ thể hoá những công việc cần được thực hiện trong chién lược xuất khẩu. Nội dung của công việc xây dựng kế hoạch xuất khẩu bao gồm: 3.2.1. Xác định mục tiêu và lập kế hoạch xuất khẩu. Doanh nghiệp phải xác định được rõ các mục tiêu cụ thể khi tiến hành hoạt động xuất khẩu, các mục tiêu của hoạt động xuất khẩu được hình thành ở các cấp quản trị, ở các phòng nghiệp vụ, các bộ phận khác nhau của doanh nghiệp: mục tiêu xuất khẩu chung của doanh nghiệp; mục tiêu xuất khẩu của các chi nhánh, các phòng nghiệp vụ, các cá nhân trong hệ thống xuất khẩu; mục tiêu kim ngạch xuất khẩu; mục tiêu tài chính: chi phí/ lợi nhuận... Các mục tiêu có thể được thể hiện dưới dạng định tính hay định lượng. Các mục tiêu định lượng là sự cụ thể hoá các mục tiêu định tính vào các kế hoạch xuất khẩu. Các chỉ tiêu này được gọi là chỉ tiêu xuất khẩu. Doanh nghiệp cần xác định các chỉ tiêu trong kế hoạch xuất khẩu về khối lượng hàng xuất khẩu ( các chỉ tiêu tương đối, tuyệt đối ), kim ngạch xuất khẩu, chi phí, lợi nhuận, dự trữ. 3.2.2. Lựa chọn hình thức xuất khẩu thích hợp. Xuất khẩu không phải là một hành vi mua bán độc lập mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán, đầu tư từ trong nước ra bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, chuyển đổi kinh tế cho phù hợp và từng bước nâng cao đời sống của người dân. Dựa vào điều kiện của từng quốc gia mà người ta lựa chọn các hình thức xuất khẩu thích hợp: * Xuất khẩu trực tiếp: Với hình thức này, hai bên xuất khẩu và nhập khẩu trực tiếp giao dịch và ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá mà luật pháp cho phép. Trong hình thức này không có sự xuất hiện của hình thức trung gian nào. * Xuất khẩu uỷ thác: Hình thức này diễn ra khi một doanh nghiệp có hàng hoá nhưng không được phép trực tiếp xuất khẩu hay không có điều kiện để tham gia. Khi đó họ sẽ tiến hành uỷ thác cho một doanh nghiệp khác được phép trực tiếp xuất khẩu mặt hàng đó làm nhiệm vụ xuất khẩu hàng hoá cho mình. Theo hình thức này, quan hệ giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu thông qua một người thứ ba được gọi là người trung gian. * Xuất khẩu hàng hoá đối lưu: Đây là hình thức xuất khẩu đặc biệt mà người bán cũng trở thành người mua. Lượng hàng hoá trao đổi có giá trị tương đương. Hình thức xuất khẩu này không nhằm thu về một lượng ngoại tệ mà thu về một lượng hàng hoá có giá trị bằng nhau. Buôn bán đối lưu bao gồm các loại nghiệp vụ hàng đổi hàng, nghiệp vụ bù trừ, nghiệp vụ mua đối lưu, nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ, giao dịch bồi hoàn, nghiệp vụ mua lại. * Gia công xuất khẩu : Gia công quốc tế là phương thức kinh doanh mà một bên được gọi là bên nhận gia công nhập nguyên liệu hay bán thành phẩm của một bên khác được gọi là bên thuê gia công để chế tạo thành phẩm, rồi giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao ( gọi là phí gia công ). * Tái xuất khẩu: Đây là hình thức xuất khẩu lại một số hàng hoá đã nhập khẩu. Hàng hoá có thể qua hay không qua nước nhập khẩu mà được chuyển thẳng từ nơi mua đến nơi nhập khẩu. * Xuất khẩu theo nghị định thư: Hình thức này thường diễn ra theo các nghị định thư được kí kết giữa hai chính phủ, và thường được dùng trong hoạt động trả nợ. 3.2.3. Mục tiêu và chính sách giá. Mục tiêu và chính sách định giá luôn đóng vai trò quan trọng trong kế hoạch cũng như chiến lược xuất khẩu. Do đó mục tiêu cũng như chính sách giá luôn phải được lựa chọn và xác định rõ ràng trong kế hoạch xuất khẩu. Tuỳ vào mục tiêu của hoạt động xuất khẩu mà doanh nghiệp có thể chọn các chính sách định giá cho phù hợp. - Định giá nhằm đảm bảo mức thu nhập định trước. - Định giá nhằm mục tiêu doanh số. - Định giá nhằm mục tiêu xâm chiếm thị trường. - Địng giá nhằm tối đa hoá lợi nhuận. - Định giá nhằm mục tiêu cạnh tranh không mang tính giá cả. - Định giá nhằm mục tiêu phát triển các phân đoạn thị trường. 4. Tổ chức thực hiện kế hoạch xuất khẩu. 4.1. Thu mua tạo nguồn hàng. Quá trình thu mua tạo nguồn hàng ngày càng trở nên quan trọng đối với doanh nghiệp xuất khẩu. Chủ động và tạo được nguồn hàng ổn định ảnh hưởng trực triếp đến chất lượng của hàng hoá xuất khẩu, ảnh hưởng đến tiến độ giao hàng, đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu, và quan trọng hơn cả là uy tín, hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Tuỳ theo tình hình c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100629.doc
Tài liệu liên quan