Đề tài Thực trạng tình hình đại lý tại bảo việt nhân thọ Hưng Yên từ 1998- 2003

BHNT trên thế giới ra đời từ rất sớm và nước Anh là nơi đầu tiên phát sinh hoạt động BHNT vào năm 1583 do ông William Gybbon một công dân Luân đôn tham gia với số phí là 32 bảng Anh; khi ông chết người thừa kế của ông được hưởng 400 bảng Anh.

Tiếp đó, vào năm 1662 John Graunt một người Anh đã có công lớn trong việc phát hiện ra lượng sinh tử của người Luân đôn và đây là cơ sở cho việc ra đời bảng tỷ lệ tử vong- một trong những công cụ rất quan trọng đối với BHNT.

Tiếp đó, vào năm 1693 và 1740 những người như: Edmurd Hallay, Newton là những người đã có công trong việc tìm ra cách tính phí và phương pháp tính phí.

Tiếp đó, vào năm 1759 Công ty BHNT đầu tiên ra đời tại Mỹ đó là Công ty Philadenphia. Tuy nhiên, Công ty này chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ. Công ty này vẫn hoạt động đến tận ngày nay.

Bước ngoặt đánh dấu sự phát triển thực sự của thị trường BHNT Thế giới là vào năm 1762 ở Anh, Công ty BHNT mang tên Equitable được thành lập. Đây là Công ty BHNT đầu tiên trên thế giới bán sản phẩm BHNT rộng rãi cho mọi người dân với bản hợp đồng đầu tiên là hợp đồng BHNT trọn đời.

Cũng từ đây, thị trường BHNT của Anh quốc phát triển rất mạnh mẽ. Đến năm 1782 ở Anh đã có đến 3000 hợp đồng BHNT được ký kết.

Tiếp đến vào năm 1787 Công ty BHNT được thành lập tại Pháp mang tên Hoàng gia.

Có thể nói, đây là giai đoạn mà BHNT chủ yếu phát triển ở Châu Âu đặc biệt là Anh.

Châu Á BHNT ra đời khá muộn so với thế giới do rất nhiều nguyên nhân khác nhau chi phối, Nhật Bản là nước Châu Á đầu tiên triển khai BHNT. Những Công ty BHNT đầu tiên ra đời ở đây như: Công ty bảo hiểm Meiji (1868), Công ty bảo hiểm Kyoei (1888) và Công ty bảo hiểm Nippon (1889).

Tiếp đến là các thị trường BHNT của Hàn Quốc và Singapore.

Nền kinh tế thế giới càng phát triển thì BHNT ngày càng trở thành một khái niệm quen thuộc đốivới mọi người và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Điều này thể hiện thông qua doanh thu phí bảo hiểm tăng nhanh. Năm 1985 doanh thu phí bảo hiểm chỉ đạt 630,5 tỷ USD; nhưng đến năm 1989 đã lên tới 1210,2 tỷ USD; năm 1993 là 1647 tỷ USD và năm 2000 doanh thu là trên 2140 tỷ USD.

Theo “thông tin thị trường Bảo hiểm của Bảo Việt” năm 2001 cơ cấu doanh thu phí BHNT trên Thế giới là:

+ Châu Mỹ: 34,8%

+ Châu Âu: 31,4%

+ Châu Á: 33,8%

 

doc63 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 982 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng tình hình đại lý tại bảo việt nhân thọ Hưng Yên từ 1998- 2003, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I- Lý thuyết chung về bảo hiểm nhân thọ I. sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm nhân thọ: Xã hội ngày càng phát triển trình độ dân trí càng nâng cao con người càng thấy được vai trò của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng. Để thấy rõ điều này, trước hết chúng ta cần xem xét tới quá trình hình thành BHNT. 1/ Trên thế giới: BHNT trên thế giới ra đời từ rất sớm và nước Anh là nơi đầu tiên phát sinh hoạt động BHNT vào năm 1583 do ông William Gybbon một công dân Luân đôn tham gia với số phí là 32 bảng Anh; khi ông chết người thừa kế của ông được hưởng 400 bảng Anh. Tiếp đó, vào năm 1662 John Graunt một người Anh đã có công lớn trong việc phát hiện ra lượng sinh tử của người Luân đôn và đây là cơ sở cho việc ra đời bảng tỷ lệ tử vong- một trong những công cụ rất quan trọng đối với BHNT. Tiếp đó, vào năm 1693 và 1740 những người như: Edmurd Hallay, Newton… là những người đã có công trong việc tìm ra cách tính phí và phương pháp tính phí. Tiếp đó, vào năm 1759 Công ty BHNT đầu tiên ra đời tại Mỹ đó là Công ty Philadenphia. Tuy nhiên, Công ty này chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ. Công ty này vẫn hoạt động đến tận ngày nay. Bước ngoặt đánh dấu sự phát triển thực sự của thị trường BHNT Thế giới là vào năm 1762 ở Anh, Công ty BHNT mang tên Equitable được thành lập. Đây là Công ty BHNT đầu tiên trên thế giới bán sản phẩm BHNT rộng rãi cho mọi người dân với bản hợp đồng đầu tiên là hợp đồng BHNT trọn đời. Cũng từ đây, thị trường BHNT của Anh quốc phát triển rất mạnh mẽ. Đến năm 1782 ở Anh đã có đến 3000 hợp đồng BHNT được ký kết. Tiếp đến vào năm 1787 Công ty BHNT được thành lập tại Pháp mang tên Hoàng gia. Có thể nói, đây là giai đoạn mà BHNT chủ yếu phát triển ở Châu Âu đặc biệt là Anh. Châu á BHNT ra đời khá muộn so với thế giới do rất nhiều nguyên nhân khác nhau chi phối, Nhật Bản là nước Châu á đầu tiên triển khai BHNT. Những Công ty BHNT đầu tiên ra đời ở đây như: Công ty bảo hiểm Meiji (1868), Công ty bảo hiểm Kyoei (1888) và Công ty bảo hiểm Nippon (1889). Tiếp đến là các thị trường BHNT của Hàn Quốc và Singapore. Nền kinh tế thế giới càng phát triển thì BHNT ngày càng trở thành một khái niệm quen thuộc đốivới mọi người và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Điều này thể hiện thông qua doanh thu phí bảo hiểm tăng nhanh. Năm 1985 doanh thu phí bảo hiểm chỉ đạt 630,5 tỷ USD; nhưng đến năm 1989 đã lên tới 1210,2 tỷ USD; năm 1993 là 1647 tỷ USD và năm 2000 doanh thu là trên 2140 tỷ USD. Theo “thông tin thị trường Bảo hiểm của Bảo Việt” năm 2001 cơ cấu doanh thu phí BHNT trên Thế giới là: + Châu Mỹ: 34,8% + Châu Âu: 31,4% + Châu á: 33,8% Đây là những con số nói lên sự phát triển nhanh chóng của thị trường BHNT trên Thế giới. Hiện nay, Thế giới có 5 thị trường BHNT lớn là: Mỹ, Nhật, Đức, Anh và Pháp. Doanh thu phí bảo hiểm của các thị trường này được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Doanh thu của các thị trường BHNT lớn nhất thế giới. Năm Nước 1993 (Tỷ USD) 2000 (Tỷ USD) Mỹ 522,468 627 Nhật 320,143 341 Đức 107,403 114 Anh 103,360 111 Pháp 84,303 89 Tổng số 1647 2140 (Nguồn: Thông tin thị trường bảo hiểm – tái bảo hiểnm) Những Nước này là nơi mà thị trường BHNT ra đời sớm nhất và phát triển mạnh nhất. Doanh thu phí bảo hiểm của 5 thị trường này chiếm phần lớn doanh thu phí BHNT trên Thế giới. Bởi, thị trường BHNT sẽ luôn luôn phát triển và không có tính bão hoà do dân số vẫn đang tăng lên và quan trọng hơn là do quy luật vòng đời của mỗi con người “ Con người sinh ra rồi cũng phải chết và người mới lại tiếp tục được sinh ra”. Mặc dù BHNT ra đời muộn hơn BHPNT nhưng nó đã nhanh chóng thể hiện được vai trò, lợi ích và ưu thế vượt trội của mình, đã ngay lập tức đáp ứng được nhu cầu của con người và thị trường BHNT đã phát triển với tốc độ cao hơn thị trường BHPNT rất nhiều. Bởi, Khi nền kinh tế phát triển ở một mức độ nhất định thì nhu cầu cũng được nâng lên; trong khi những rủi ro đối với tài sản được bảo hiểm mà con người vốn quý nhất của xã hội lại không được bảo vệ là điều vô lý; Suất phát từ nhận thức như vậy mà người ta triển khai BHNT để bảo hiểm cho những rủi ro liên quan đến chính tuổi thọ của con người. BHNT ra đời nhanh chóng nhận được sự quan tâm và ủng hộ nhiệt tình của mọi người và thị trường BHNT phát triển với tốc độ nhanh chóng đặc biệt là tại Châu âu và Mỹ . Ngày nay, BHNT đã vượt qua BHPNT về mặt Doanh thu đặc biệt là tại Châu á cơ cấu phí BHNT chiếm tỷ lệ vượt xa so với phí BHPNT. Theo thống kê năm 2001 thì cơ cấu Doanh thu phí BHPNT và BHNT ở một số khu vực như sau: Bảng 2: Cơ cấu phí BHNT và BHPNT ở các khu vực trên thế giới STT Khu vực Cơ cấu phí % BHPNT BHNT 1 Châu á 25 75 2 Châu Mỹ 57 43 3 Châu Âu 50 50 4 Nam Mỹ 80 20 5 Châu Phi 29 71 6 Khu vực khác 60 40 7 Thế giới 43 57 (Nguồn: Thông tin thị trường bảo hiểm – tái bảo hiểmi) 2/ ở Việt Nam: So với Thế giới, thị trường BHNT Việt Nam ra đời khá muộn, mặc dù đề án về BHNT đã được nghiên cứu từ năm 1987 (Đề án: BHNT và điều kiện triển khai ở Việt Nam) nhưng chưa có tính khả thi do: + Thu nhập thấp, kinh tế kém phát triển. Nền kinh tế vừa mới chuyển sang kinh tế thị trường nên thị trường tài chính chưa phát triển và chưa có môi trường đầu tư. + Hệ thống văn bản pháp quy điều chỉnh chưa hề có bởi trong giai đoạn này chúng ta chỉ triển khai một số nghiệp vụ BHPNT phục vụ cho mục đích ngoại giao. Tuy nhiên, để trả lời cho câu hỏi bảo hiểm nhân thọ suất hiện ở Việt Nam từ khi nào? thì phải khẳng định rằng BHNT ra đời ở Việt Nam đầu tiên là vào năm 1973 đó là Công ty BHNT Việt Hưng nhưng Công ty này chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn (ở miền nam Việt Nam). Công ty chỉ triển khai những sản phẩm BHNT có thời hạn ngắn từ 1 – 2 năm. Mặc dù Nghị định 100 về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được ban hành từ năm 1993 nhưng phải đến năm 1996 thì BHNT mới được Bộ Tài chính cho phép triển khai theo Quyết Định số 28/TC/QĐ ngày 20/3/1996. Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) là Doanh nghiệp duy nhất được phép kinh doanh loại hình bảo hiểm này và giữ thế độc quyền trong kinh doanh BHNT. Đến năm 1999 thị trường BHNT Việt Nam mới thực sự hoạt động theo sự vận hành của thị trường bởi trong năm đó Nhà Nước cho phép các Công ty bảo hiểm nước ngoài vào hoạt động tại Việt Nam, và ngay lập tức các Công ty BHNT 100% vốn nước ngoài và Công ty BHNT liên doanh đã được thành lập ở Việt Nam như: + Prudential + AIA + ChinphonManulife + Bảo Minh CMG Tuy ra đời muộn, nhưng thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có những bước phát triển rất nhanh Doanh thu năm sau luôn cao gần gấp đôi năm trước. Năm 1996 Doanh thu đạt 1,7384 tỷ VNĐ; năm 2002 Doanh thu đạt 4500 tỷ VNĐ. Cùng với sự phát triển chung của thị trường bảo hiểm nhân thọ trên Thế giới , thị trường BHNT Việt Nam dần dần được hoàn thiện. Cụ thể, hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành nhằm điều tiết thị trường đặc biệt là khi Quốc Hội thông qua Luật kinh doanh bảo hiểm ngày 09/12/2000. Đây là văn bản pháp lý cao nhất nhằm bảo đảm cho thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và BHNT nói riêng hoạt động có hiệu quả hơn, đảm bảo cạnh tranh công bằng giữa các Doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy triển khai chưa lâu khoảng 8 năm nhưng thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường BHNT nói riêng đã có những bước tiến chắc nhanh chóng, và sớm cho thấy rằng đây là một thị trường đầy tiềm năng và đầy hứa hẹn: Bởi Việt Nam là một trong những nước đông dân nhất Thế giới và Châu lục, nền kinh tế đang phát triển, tăng trưởng với tốc đố cao và ổn định. Vì vậy mà hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp BHNT nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam nhưng để bảo vệ thị trường và các doanh nghiệp đang hoạt động mà Nhà nước chưa cho phép những doanh nghiệp này vào hoạt động trong thời điểm hiện nay. + Dân số Việt Nam theo thống kê năm 2003 là trên 80 triệu người nhưng số người tham gia bảo hiểm chỉ gần 5 triệu người, con số này chỉ chiếm một phần rất nhỏ khoảng 6.3%, nên thị trường BHNT Việt Nam mới chỉ khai thác được một phần rất nhỏ thị trường. + Nền kinh tế Việt Nam khá ổn định, tốc độ tăng trưởng cao đây là cơ hội đầu tư an toàn cho các Công ty bảo hiểm nhất là các công ty bảo hiểm nước ngoài vào hoạt động tại Việt Nam . + Thị trường bảo hiểm luôn tăng trưởng không có bước thụt lùi điển hình là năm 1997 cả khu vực chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ nhưng thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng. II. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ. Sau khi đã biết được nguồn gốc hình thành BHNT, chúng ta sẽ tập trung nghiên cứu để giải đáp cho câu hỏi BHNT là gì? 1/ Khái niệm bảo hiểm nhân thọ. a- Giới thiệu bảo hiểm con người. Cùng với BHXH, bảo hiểm con người cũng có vai trò quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội; nó góp phần bổ trợ cho BHXH trong việc giải quyết những phát sinh trong cuộc sống mà BHXH không đáp ứng được, không thực hiện bảo hiểm như: - Trong mỗi quốc gia không phải tất cả mọi người đều làm việc trong các cơ quan doanh nghiệp cho nên Quốc gia nào cũng còn nhiều người không có BHXH và những người này luôn cần có sự đảm bảo cho cuộc sống của mình. - Dân số ngày một già đi, việc chăm sóc người già được toàn xã hội quan tâm và ngày càng là một gánh nặng lớn đối với chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên không phải ai cũng có BHXH, thường thì lương hưu khó có thể đáp ứng được những nhu cầu trong cuộc sống ngày một tăng mà người già thì nhu cầu càng tăng lên; nhất là khi bị bệnh tật, ốm đau... gánh nặng đối với con cái là rất lớn. Do vậy, mỗi người khi còn tạo ra thu nhập thì việc họ chuẩn bị trước kế hoạch tài chính cho mình là một điều hợp lý . - Điều quan trọng là bảo hiểm con người trong BHTM có thể đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội cho nên mọi người đều có thể xây dựng cho mình một kế hoạch tài chính thực hiện tiết kiệm để đảm bảo cho tương lai của mình. Như vậy, có thể khẳng định bảo hiểm con người nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống cho mọi thành viên trong xã hội trước những rủi ro tai nạn bất ngờ đối với thân thể tính mạng, sự giảm sút hoặc mất thu nhập và đáp ứng một số nhu cầu khác của người tham gia bảo hiểm. Bảo hiểm con người được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: Theo thời hạn bảo hiểm, theo kỹ thuật quản lý, theo rủi ro bảo hiểm. Trong đó, theo tiêu thức rủi ro bảo hiểm thì bảo hiểm con người chia làm hai loại là BHNT và BHPNT Sự khác nhau cơ bản nhất giữa hai loại hình bảo hiểm này là BHNT liên quan đến tuổi thọ của con người; còn bảo hiểm con người phi nhân thọ không liên quan đến tuổi thọ của con người. BHNT sẽ được trình bày cụ thể hơn trong phần dưới đây. b- Khái niệm bảo hiểm nhân thọ: Để tìm hiểu được về BHNT, trước hết cần phải biết BHNT là gì? Có thể hiểu: BHNT là loại hình bảo hiểm bảo đảm cho các rủi ro liên quan đến tuổi thọ của con người. Bao gồm bảo hiểm trong trường hợp tử vong, bảo hiểm trong trường hợp sống và bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp. Như vậy, ta có thể rút ra định nghĩa đầy đủ về BHNT như sau: “BHNT là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm trong đó người bảo hiểm sẽ phải trả STBH cho người được bảo hiểm (người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) khi có những sự kiện bảo hiểm xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định), còn người tham gia phải nộp phí đầy đủ và đúng hạn. 2/ Đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ: BHNT cũng là một loại hình bảo hiểm cho nên nó cũng có những đặc điểm chung của bảo hiểm. Ngoài ra nó còn có những đặc điểm rất riêng, về cơ bản BHNT có 5 đặc điểm sau: a- Bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro: Đây chính là đặc điểm nổi bật nhất của BHNT, thể hiện tính đặc trưng riêng của BHNT. Bởi lẽ, BHPNT chỉ thuần tuý mang tính rủi ro người tham gia bảo hiểm chỉ nhằm một mục đích duy nhất là bảo vệ cho lợi ích của mình khi các sự kiện bảo hiểm xảy ra. BHXH, BHYT mặc dù cũng phục vụ, bảo vệ cho sức khoẻ con người nhưng số đối tượng và phạm vi áp dụng rất hẹp và phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế – xã hội, chủ trương, chính sách... của mỗi quốc gia. Trong BHNT mỗi người khi tham gia một hay nhiều loại hình BHNT sẽ định kỳ đóng một khoản tiền nhỏ (gọi là phí bảo hiểm) có thể là theo tháng, quý, 6 tháng, năm... cho người bảo hiểm và người bảo hiểm có nghĩa vụ trả một số tiền lớn (gọi là STBH) theo đúng thời hạn ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm này có thể được trả cho người được bảo hiểm, người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, người được bảo hiểm (người tham gia bảo hiểm) bị chết hoặc khi hoạt động bảo hiểm đến hạn. Như vậy, ngoài việc bảo hiểm cho những rủi ro BHNT còn góp phần giúp người tham gia bảo hiểm thực hiện những kế hoạch trong tương lai, giúp cho thân nhân người được bảo hiểm giảm bớt gánh nặng cuộc sống khi người được bảo hiểm không may gặp rủi ro... Đây chính là kết quả của việc người tham gia bảo hiểm thực hiện tiết kiệm bởi số tiền bảo hiểm chắc chắn người được bảo hiểm sẽ được nhận và số tiền mà họ đã đóng góp không hề mất đi mà được tích luỹ lại. b- Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm nhân thọ: Thật vậy, BHNT có thể đáp ứng được nhiều nhu cầu, mục tiêu của những người tham gia như: - Những người muốn đảm bảo cho tương lai của con cái mình có thể tham gia loại hình bảo hiểm An Sinh Giáo Dục của Bảo Việt. - Có người lại muốn mính có một khoản tiền nhất định trong tương lai để mua nhà, để sắm sửa đồ đạc, trang thiết bị phục vụ cuộc sống có thể tham gia loại hình bảo hiểm nhân thọ mang tính tích luỹ. Chẳng hạn Bảo Việt triển khai các sản phẩm: An khang thịnh vượng, an gia thịnh vượng... hay AIA triển khai các sản phẩm: An sinh thịnh vượng, An sinh phú quý... - Cũng có những người muốn đảm bảo cho cuộc sống của mình khi về già để không phụ thuộc vào con cái, xã hội họ có thể tham gia các loại hình về bảo hiểm hưu trí. VD: Bảo Việt đang triển khai các sản phẩm: An hưởng hưu trí, an bình hưu trí. - Ngoài ra còn nhiều mục đích khác như dùng để thế chấp vay tín dụng, để lại cho con cháu một khoản tài sản thừa kế... c- Các loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ rất đa dạng và phức tạp: Tính đa dạng của hợp đồng BHNT có thể thấy ngay qua từng loại hình, từng sản phẩm cụ thể. BHNT được triển khaidưới nhiều loại hình như: Bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử kỳ và bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp. Trong mỗi loại hình, sản phẩm có thể triển khai với những nứa tuổi khác nhau, trong mỗi lứa tuổi lại có những mức STBH khác nhau, với cùng một STBH nhưng lại có những thời hạn bảo hiểm khác nhau như: 1,2,3...5,10 năm. BHNT phức tạp ở chỗ nó có mối quan hệ của nhiều bên tham gia trong một bản hợp đồng như: Người bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm và người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Ngoài ra, trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ những chi tiết liên quan được quy định rất cụ thể mà không một hợp đồng kinh tế nào có được. d- Phí bảo hiểm nhân thọ chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố. Vì vậy quá trình định phí rất phức tạp: Việc định phí BHNT là một trong những việc khó khăn nhất vì BHNT liên quan đến con người mà con người thì không thể xác định được giá trị. Trong khi đó cần phải xác định được phí bảo hiểm cho từng hợp đồng bảo hiểm, từng loại hình bảo hiểm. Việc xác định phí BHNT phụ thuộc phần lớn vào các yếu tố như: Tuổi thọ bình quân, số tiền bảo hiểm, tuổi của người tham gia bảo hiểm, thời hạn tham gia, phương thức thanh toán, lãi suất đầu tư, tỷ lệ lạm phát và thiểu phát của đồng tiền... những yếu tố này ảnh hưởng quyết định tới cách xác định phí, tỷ lệ phí quyết định kết quả hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp BHNT bởi những nhân tố này quyết định đến doanh thu của Doanh nghiệp bảo hiểm, số người tham gia bảo hiểm. Những yếu tố này lại thường xuyên thay đổi và biến động. Do vậy, việc xác định phí chỉ là tương đối và chỉ những Công ty bảo hiểm hoạt động lâu năm có nhiều kinh nghiệm mới có đủ cơ sở và khả năng làm việc này. e- Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định: Đặc điểm này rất một thực tế; Bởi chúng ta không thể triển khai BHNT ở một quốc gia kinh tế chậm phát triển, mức sống của người dân ở mức thấp như một số nước ở Châu phi hiện nay. Việt Nam không thể triển khai BHNT trong những năm 1980 của thế kỷ trước là một thực tế. Người ta cũng không thể tham gia BHNT khi nền kinh tế luôn bất ổn, tỷ lệ lạm phát cao. Ngoài ra còn rất nhiều những yếu tố kinh tế- xã hội khác cũng có ảnh hưởng tới việc triển khai BHNT như: Môi trường pháp lý, tuổi thọ bình quân, trình độ học vấn, tỷ lệ tử vong, văn hoá, phong tục... Thực tế quá trình ra đời và phát triển của BHNT là dẫn chứng thực tế nhất minh chứng cho điều này. BHNT ra đời ở Châu Âu chứ không phải Châu á hay Châu Phi; bởi ở Châu Âu (đặc biệt là Anh Quốc) kinh tế rất phát triển, đời sống của người dân rất cao trong đó Anh là nước công nghiệp ra đời sớm nhất và nền kinh tế phát triển sớm nhất. Vì vậy, những phát kiến liên quan đến BHNT như cách tính phí, bảng tỷ lệ tử vong… ra đời từ đây.Trong khi đó ở Châu á hay Châu Phi có nhiều nguyên nhân giải thích cho sự ra đời muộn của BHNT nhưng trong đó quan trong nhất vẫn là nguyên nhân kinh tế và một phần do phong tục tập quán. 3/ Vai trò của bảo hiểm nhân thọ: Xuất phát từ đặc điểm của BHNT có thể thấy bảo hiểm nhân thọ có vai trò rất quan trọng đối với cá nhân Doanh nghiệp và xã hội. Cụ thể: a- Vai trò đối với xã hội: - BHNT có đóng góp rất lớn vào nền Kinh Tế Quốc Dân. Hàng năm BHNT đóng góp khá lớn vào GDP của mỗi quốc gia. Nền kinh tế càng phát triển thì sự đóng góp của BHNT càng lớn khoảng trên dưới 10% có những nước tỷ lệ này còn cao hơn, điển hình là sự đóng góp của một số nước như Mỹ, Anh, Thuỵ Sĩ, Nhật, Hàn Quốc…còn ở Việt Nam tỷ lệ đóng góp vào GDP là dưới 1% (0,6%) như vậy sự đóng góp của BHNT cho GDP của Nước ta còn quá ít so với thế giới. - BHNT là một kênh huy động vốn hiệu quả nhất, nó đóng góp phần thực hành tiết kiệm và đầu tư dài hạn; bởi phần lớn các hợp đồng BHNT có thời hạn dài, thời hạn bảo hiểm xác định trước nên việc đầu tư vốn của các Công ty BHNT là rất chủ động. - BHNT bổ sung cho BHXH và BHYT trong việc mở rộng đối tượng được bảo hiểm, bảo đảm ổn định cuộc sống cho những người được bảo hiểm, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội góp phần giảm nhẹ gánh nặng việc làm đối với chính phủ mỗi quốc gia tức là BHNT góp phần hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội và hỗ trợ cho chính sách phúc lợi của mỗi quốc gia. b- Vai trò đối với cá nhân và Doanh nghiệp: - Góp phần ổn định cuộc sống cho các cá nhân, ổn định kinh doanh cho Doanh nghiệp. Mỗi gia đình kinh tế luôn phụ thuộc vào những người có thu nhập nên khi những người tạo ra nguồn thu nhập đó không may gặp rủi ro dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập cuộc sống của gia đình họ sẽ gặp vô vàn những khó khăn như: Nợ nần, đời sống không ổn định, không có điều kiện đầy đủ để chăm sóc con cái, không đáp ứng được nhu cầu tăng lên của cuộc sống do rủi ro gây ra ... Giả sử rằng người đó có tham gia BHXH nhưng chưa đủ điều kiện về thời gian đóng BHXH hay các yếu tố khác thì họ cũng không thể nhận BHXH hoặc có nhận được thì cũng không đáng kể trong khi chi phí ngày một tăng do nhu cầu của gia đình khi có thêm người phụ thuộc. Tương tự như vậy, một Doanh nghiệp luôn có số lượng lao động tập trung nhiều và làm việc liên tục hàng ngày trong điều kiên máy móc thiết bị ngày càng hiện đại nên khả năng xảy ra rủi ro là rất cao. Trường hợp họ không may gặp rủi ro sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp thậm trí có thể dẫn đến phá sản. Ngoài ra trong một Doanh nghiệp luôn có những người giữ vai trò chủ chốt (Giám đốc, Kế toán trưởng...) theo thống kê có trên 80% những người thường xuyên đi trên các phương tiện giao thông công cộng là những người chủ Doanh nghiệp nên mức độ rủi ro lại càng cao. Do vậy, việc bảo vệ an toàn cho người này để hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp được diễn ra liên tục là một điều rất cần thiết. - Cùng con người thực hiện những kế hoạch trong tương lai một cách chắc chắn như: Giáo dục con cái, thực hành tiết kiệm, đầu tư kinh doanh... Bởi khi tham gia BHNT thì STBH chắc chắn họ sẽ nhận được trong tương lai kể cả trong trường hợp họ bị rủi ro thì người thụ hưởng quyền lợi hợp pháp của họ chắc chắn sẽ nhận được số tiền này. 4/ Nguyên tắc khoán trong bảo hiểm nhân thọ: BHNT cũng mang đầy đủ những nguyên tắc chung của bảo hiểm như: Quy luật số đông bù số ít, nguyên tắc trung thực tuyệt đối... Trong đó, người ta đặc biệt trú trọng đến nguyên tắc khoán trong BHNT, thực chất là việc người tham gia bảo hiểm đã khoán trước cho người bảo hiểm một khoản tiền (gọi là số tiền bảo hiểm) và người bảo hiểm có trách nhiệm phải trả số tiền bảo hiểm này. - BHNT là bảo hiểm cho tuổi thọ của con người nên chúng ta không thể định giá trị cho mỗi con người để tham gia bảo hiểm, mà đây chỉ là căn cứ vào nhu cầu và khả năng tài chính của người tham gia để ấn định một khoản tiền gọi là STBH. Đây là số tiền mà người tham gia định trước (khoán trước) cho người bảo hiểm và đổi lại họ phải đóng một khoản phí nhất định cho Nhà bảo hiểm. - Nguyên tắc khoán có một lợi thế đặc biệt bởi vì cùng một lúc có thể tham gia nhiều nghiệp vụ theo nhiều hợp đồng bảo hiểm khác nhau và quyền lợi họ nhận được sẽ là tổng các quyền lợi từ những hợp đồng này. Điều này hoàn toàn khác với các lĩnh vực bảo hiểm khác. VD: bảo hiểm vật chất thì người ta căn cứ vào giá trị thực tế của tài sản được bảo hiểm để xác định số tiền bảo hiểm và dù cho người tham gia có tham gia theo nhiều hợp đồng cho tài sản đó thì các Công ty bảo hiểm liên quan sẽ bồi thường cho chủ tài sản không quá STBH tức là được chia theo tỷ lệ của các bên trên STBH. III. các loại hình bảo hiểm nhân thọ: Như đã trình bày BHNT là bảo hiểm cho những rủi ro liên quan đến tuổi thọ của con người. Các Công ty BHNT lấy đó làm cơ sở để thiết kế ra những sản phẩm cũng như thực hiện việc đa dạng hoá sản phẩm đồng thời còn thực hiện việc nghiên cứu thị trường để thiết kế sản phẩm. Trên thị trường BHNT hiện nay có rất nhiều sản phẩm, mỗi Công ty sẽ triển khai những sản phẩm khác nhau từ tên sản phẩm, hình thức đóng phí, thời hạn thu phí, mức lãi suất... Nhưng tổng kết lại những sản phẩm đó là một trong các loại hình sau: 1/ Bảo hiểm trong trường hợp tử vong: Đây là loại hình bảo hiểm phổ biến nhất trong bảo hiểm nhân thọ bởi lẽ loại hình bảo hiểm này gắn liền với tuổi thọ của con người. Loại hình bảo hiểm này gồm hai nhóm: a- Bảo hiểm tử kỳ: Có thể hiểu đơn giản là loại bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm. Đây là loại hình bảo hiểm mang tính chất thuần tuý vì người được bảo hiểm sẽ không nhận được bất kỳ quyền lợi gì nếu cái chết xảy ra ngoài thời hạn hợp đồng. Do vậy, loại hình này có đặc điểm: - Thời hạn bảo hiểm xác định - Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời (do hợp đồng luôn xác định thời hạn bảo hiểm). - Mức phí thấp vì không phải lập quỹ tiết kiệm cho người được bảo hiểm, có hợp đồng nhà bảo hiểm không phải trả STBH. Loại hình này nhằm mục đích: + Đảm bảo chi phí mai táng chôn cất. + Bảo trợ cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn. + Thanh toán các khoản nợ nần về những khoản vay hoặc thế chấp của người được bảo hiểm. Bảo hiểm tử kỳ còn được đa dạng hoá thành các loại hình sau: Bảo hiểm tử kỳ cố định: Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục: Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi: Loại hợp đồng này phát hành như một sự bảo chứng cho khoản tiền vay. Đồng thời nó còn nhằm thực hiện yếu tố tiết kiệm trong tương lai của người được bảo hiểm. Bảo hiểm tử kỳ giảm dần: + Phí bảo hiểm giữ ở mức cố định + Phí thấp hơn bảo hiểm tử kỳ cố định + Giai đoạn nộp phí ngắn hơn toàn bộ thời hạn hợp đồng để tránh việc thanh toán vào cuối thời hạn hợp đồng khi mà số tiền bảo hiểm còn rất nhỏ. Bảo hiểm tử kỳ tăng dần: + Tăng số tiền bảo hiểm theo một tỷ lệ % được lập hàng năm. + Hoặc đưa ra các loại hợp đồng bảo hiểm ngắn hạn và sau đó tái tục với một số tiền bảo hiểm tăng dần. Như vậy, loại hợp đồng bảo hiểm này có đặc điểm là phí bảo hiểm sẽ tăng dần theo số tiền bảo hiểm và phải dựa trên tuổi tác của người được bảo hiểm khi tái tục hợp đồng. Bảo hiểm thu nhập gia đình: + Nhận được toàn bộ (trọn gói) + Nhận được từng phần dần dần cho đến khi hết hạn hợp đồng. Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên: Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện: b. Bảo hiểm nhân thọ trọn đời Loại hình bảo hiểm này cam kết chi trả cho người thụ hưởng bảo hiểm một số tiền bảo hiểm đã được ấn định trên hợp đồng, khi người được bảo hiểm chết vào bất kỳ lúc nào kể từ ngày ký hợp đồng bảo hiểm. Phương châm của người bảo hiểm ở đây là: “Bảo hiểm đến khi chết”. Ngoài ra, có một số trường hợp loại hình bảo hiểm này còn đảm bảo chi trả cho người được bảo hiểm ngay cả khi họ sống đến 100 tuổi. + Đặc điểm Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết. Thời hạn bảo hiểm không xác định Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm. Phí bảo hiểm cao hơn so với bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, vì rủi ro chết chắc chắn sẽ xảy ra, nên số tiền bảo hiểm chắc chắn phải chi t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1317.doc
Tài liệu liên quan