Đề tài Xử lý tài sản thế chấp (TSTC) hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam

Giải quyết nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh luôn là một bài toán lớn đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng và các cơ quan, các cấp ngành liên quan, đặc biệt phải kể đến ngành Ngân hàng.Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang vào thời kỳ đổi mới, Nhà nước với chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, chú trọng phát triển kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo nên những tiền đề quan trọng cho sự phát triển của khối kinh tế này nhưng cũng đặt họ trước nhiều khó khăn lớn về vốn.Bởi bản thân các doanh nghiệp trong quá trình phát triển, bên cạnh việc tự huy động vốn bản thân cùng sự hỗ trợ từ phía Ngân hàng Nhà Nước thì vốn tín dụng ngân hàng đầu tư là một bộ phận rất quan trọng. Song họ thường xuyên gặp phải những trở ngại trong quá trình xin cấp tín dụng ngân hàng để phát triển sản xuất kinh doanh. Chính vì thế, một thực trạng đang đặt ra hiện nay đó là sự mất cân đối lớn giữa cung về vốn ngân hàng và cầu về vốn của doanh nghiệp. Để lý giải cho thực trạng trên, một trong những nguyên nhân khá quan trọng đang được xem xét xuất phát từ chính các NHTM và các văn bản liên quan đến chế độ chính sách của Nhà nước. Về phía Ngân hàng, bảo đảm an toàn trong tăng trưởng tín dụng là một nguyên tắc hết sức quan trọng để đảm bảo sự lành mạnh hoạt động của hệ thống ngân hàng. Muốn vậy các ngân hàng phải quản lý khoản tiền cho vay một cách hữu hiệu, trong đó TSTC được xem là một phần quan trọng để đảm bảo khoản vay của ngân hàng. Hơn nữa trong quy chế cho vay của NHNN,thường yêu cầu các NHTM phải cho vay có TSTC. Tuy vậy, đòi hỏi về TSTC đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi xét duyệt cho vay lại là một yêu cầu khó có thể thực hiện bởi bản thân các doanh nghiệp này hầu như không có tài sản để đem thế chấp hoặc giá trị TSTC là rất nhỏ, không đủ đảm bảo cho khoản vay. Để giải quyết những khó khăn đó, NHNN đã cho phép các doanh nghiệp được sử dụng TS hình thành từ vốn vay làm TSTC. Và thực sự biện pháp đảm bảo tiền vay này đã phát huy được những lợi thế nhất định đối với cả Ngân hàng và các khách hàng, nhất là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh qua một số năm đi vào thực hiện . Tuy nhiên, bên cạnh đó loại hình cho vay này cũng bộc lộ nhiều vấn đề nảy sinh, dẫn đến những khoản nợ quá hạn, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng, gây nên tâm lý dè dặt của Ngân hàng khi quyết định cho vay, do đó dẫn đến không ít những trở ngại cho các doanh nghiệp khi có nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, để giảm bớt khó khăn đối với những khoản nợ không thu hồi được thì việc chọn hướngxử lý loại tài sản thế chấp này là hết sức quan trọng. Do đó trong quá trình thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (Hội sở Hà Nội )-VP Bank-,em đã chọn đề tài :

Xử lý tài sản thế chấp (TSTC) hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam làm đề tài nghiên cứu. Đề tài nhằm đưa ra giải pháp có tính đồng bộ nhằm xử lý TSTC hình thành từ vốn vay, thu hồi khoản nợ quá hạn, nâng cao chất lượng khoản cho vay này để vừa góp phần từng bước giải quyết nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, vừa tăng trưởng dư nợ tín dụng, đảm bảo đúng quy định của NHNN và hơn hết là duy trì và phát triển khách hàng tiềm năng của Ngân hàng.

 

doc80 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1076 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Xử lý tài sản thế chấp (TSTC) hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời mở đầu 3 Nội dung 5 Chương 1: Nguyên lý chung về tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp trong hoạt động kinh doanh NHTM. 5 A:Tín dụng Ngân hàng và bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng của NHTM. 5 I: Khái quát tín dụng. 5 II: Bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng của NHTM. 10 B: Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay và xử lý tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay. 13 I: Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay và vai trò của tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay. 14 II: Điều kiện với khách hàng vay và tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay. 14 III: Quyền và nghĩa vụ các bên liên quan trong hoạt động cho vay có tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay. 16 IV: Quy trình cho vay có tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay. 17 V: Vấn đề xử lý tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay trong hoạt động kinh doanh NHTM. 21 VI: ý nghĩa của việc xử lý tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay. 28 ChươngII: Thực trạng xử lý tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam(VP BANK). 31 A: Khái quát về NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam. 31 I: Khái quát lịch sử hình thành và phát triển. 31 II: Chức năng và nhiệm vụ. 33 III: Bộ máy tổ chức. 34 IV: Những kết quả đạt được từ hoạt động kinh doanh của VP Bank. 37 V: Tổng quan về khách hàng VPBANK 46 B: Thực trạng xử lý tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay tại VP Bank. 48 Chương3: Giải pháp và kiến nghị về vấn đề xử lý tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay. 64 I: Định hướng cơ bản của Ngân hàng về vấn đề xử lý tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay. 65 II: Các giải pháp xử lý tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay. 66 1.Nâng cao chất lượng côngg tác thẩm định của Ngân hàng. 66 2.Thường xuyên kiểm tra, giám sát tiến độ hình thành tài sản. 66 3.Xây dựng kế hoạch cho vay cụ thể và phù hợp với yêu cầu thực tế. 67 4.Định mức cho vay tuỳ theo từng đối tượng vay. 67 5.Nâng cao trình độ cán bộ trong công tác xử lý tài sản thế chấp. 69 6.Cần xây dựng một khung giá có biên độ giao động thích hợp. 70 7.Đối với vấn đề phát mại tài sản thế chấp. 71 8.Ngân hàng cần tích cực tham gia thị trường nhà đất. 71 9.Nâng cao hiệu quả công tác bán đấu giá tài sản. 72 10.Nâng cao chất lượng công tác quản lý, điều hành xử lý tài sản thế chấp. 72 III: Kiến nghị về vấn đề xử lý tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay. 72 1.Kiến nghị với Chính phủ. 72 2.Kiến nghị với NHNN. 79 Kết luận. Danh mục tài liệu tham khảo. Lời mở đầu Giải quyết nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh luôn là một bài toán lớn đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng và các cơ quan, các cấp ngành liên quan, đặc biệt phải kể đến ngành Ngân hàng.Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang vào thời kỳ đổi mới, Nhà nước với chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, chú trọng phát triển kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo nên những tiền đề quan trọng cho sự phát triển của khối kinh tế này nhưng cũng đặt họ trước nhiều khó khăn lớn về vốn.Bởi bản thân các doanh nghiệp trong quá trình phát triển, bên cạnh việc tự huy động vốn bản thân cùng sự hỗ trợ từ phía Ngân hàng Nhà Nước thì vốn tín dụng ngân hàng đầu tư là một bộ phận rất quan trọng. Song họ thường xuyên gặp phải những trở ngại trong quá trình xin cấp tín dụng ngân hàng để phát triển sản xuất kinh doanh. Chính vì thế, một thực trạng đang đặt ra hiện nay đó là sự mất cân đối lớn giữa cung về vốn ngân hàng và cầu về vốn của doanh nghiệp. Để lý giải cho thực trạng trên, một trong những nguyên nhân khá quan trọng đang được xem xét xuất phát từ chính các NHTM và các văn bản liên quan đến chế độ chính sách của Nhà nước. Về phía Ngân hàng, bảo đảm an toàn trong tăng trưởng tín dụng là một nguyên tắc hết sức quan trọng để đảm bảo sự lành mạnh hoạt động của hệ thống ngân hàng. Muốn vậy các ngân hàng phải quản lý khoản tiền cho vay một cách hữu hiệu, trong đó TSTC được xem là một phần quan trọng để đảm bảo khoản vay của ngân hàng. Hơn nữa trong quy chế cho vay của NHNN,thường yêu cầu các NHTM phải cho vay có TSTC. Tuy vậy, đòi hỏi về TSTC đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi xét duyệt cho vay lại là một yêu cầu khó có thể thực hiện bởi bản thân các doanh nghiệp này hầu như không có tài sản để đem thế chấp hoặc giá trị TSTC là rất nhỏ, không đủ đảm bảo cho khoản vay. Để giải quyết những khó khăn đó, NHNN đã cho phép các doanh nghiệp được sử dụng TS hình thành từ vốn vay làm TSTC. Và thực sự biện pháp đảm bảo tiền vay này đã phát huy được những lợi thế nhất định đối với cả Ngân hàng và các khách hàng, nhất là khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh qua một số năm đi vào thực hiện . Tuy nhiên, bên cạnh đó loại hình cho vay này cũng bộc lộ nhiều vấn đề nảy sinh, dẫn đến những khoản nợ quá hạn, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng, gây nên tâm lý dè dặt của Ngân hàng khi quyết định cho vay, do đó dẫn đến không ít những trở ngại cho các doanh nghiệp khi có nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vì vậy, để giảm bớt khó khăn đối với những khoản nợ không thu hồi được thì việc chọn hướngxử lý loại tài sản thế chấp này là hết sức quan trọng. Do đó trong quá trình thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (Hội sở Hà Nội )-VP Bank-,em đã chọn đề tài : Xử lý tài sản thế chấp (TSTC) hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam làm đề tài nghiên cứu. Đề tài nhằm đưa ra giải pháp có tính đồng bộ nhằm xử lý TSTC hình thành từ vốn vay, thu hồi khoản nợ quá hạn, nâng cao chất lượng khoản cho vay này để vừa góp phần từng bước giải quyết nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, vừa tăng trưởng dư nợ tín dụng, đảm bảo đúng quy định của NHNN và hơn hết là duy trì và phát triển khách hàng tiềm năng của Ngân hàng. Đề tài gồm : Lời mở đầu Nội dung : 3 Chương Chương 1: Những nguyên lý chung về TSTC và Cho vay có TSTC trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Chương 2: Thực trạng cho vay có TSTC hình thành từ vốn vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam. Chương 3: Giải pháp và kiến nghị Kết luận Nội dung Chương 1:Nguyên lý chung về TSTC và xử lý TSTC trong hoạt động kinh doanh của NHTM. A: Tín dụng Ngân hàng và bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng của NHTM. I: Khái quát về tín dụng Ngân hàng. Là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, NHTM đảm bảo đồng thời nhiều chức năng khác nhau nhằm hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Bên cạnh chức năng trung gian thanh toán, chức năng tín dụng là chức năng đặc trưng cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt đối với việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Các chức năng của NHTM tác động qua lại lẫn nhau thông qua các nghiệp vụ ngân hàng:Nghiệp vụ huy động vốn ; Nghiệp vụ tín dụng và các nghiệp vụ trung gian khác. Trong đó nghiệp vụ tín dụng chiếm vị trí quan trọng, thể hiện khả năng của các ngân hàng trong việc tìm kiếm lợi nhuận trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, các doanh nghiệp và cá nhân thông qua việc Ngân hàng vay vốn từ các nguồn nhàn rỗi và cung cấp cho nơi cần trong một thời gian nhất định.Đến thời hạn do hai bên quy định, Ngân hàng sẽ nhận được vốn và lãi. Thông qua nghiệp vụ này, Ngân hàng với tư cách nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển.Nhờ vậy, tín dụng ngân hàng vừa giúp doanh nghiệp rút ngắn thời gian tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế và đem lại cho ngân hàng nguồn thu nhập đáng kể. 1; Đặc trưng của tín dụng Ngân hàng. Tín dụng Ngân hàng có những đặc trưng sau: Thứ nhất: Sự tin tưởng tín nhiệm giữa Ngân hàng và khách hàng. Phải có sự tin tưởng này thì quan hệ tín dụng mới được thiết lập. Nghĩa là người đi vay phải có uy tín, làm ăn hiệu quả. Để có sự tin tưởng này, Ngân hàng phải thực hiện điều tra, phân tích khách hàng, nhất là những khách hàng mới có quan hệ tín dụng lần đầu. Thứ hai: Tính thời hạn của quan hệ tín dụng: Thời hạn tín dụng chủ yếu phụ thuộc vào đặc điểm luân chuyển vốn của đối tượng vay, ngoài ra nó còn phụ thuộc vào thời hạn huy động vốn của Ngân hàng. Tính thời hạn đã thúc đẩy người vay có trách nhiệm lo lắng, quan tâm tới đồng vốn mà họ đã vay để sao cho có thể hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho Ngân hàng. Thứ ba: Tính hoàn trả: Ngân hàng đặc biệt quan tâm đến đặc trưng này. Muốn vậy, trước khi Ngân hàng cho vay, Ngân hàng cần xem xét, kiểm tra , đánh giá về khách hàng xem có đủ điều kiện cho vay không. Ngoài ra còn phải có những kiến thức tổng hợp về tình hình xã hội để tư vấn cho khách hàng về hoạt động sản xuất kinh doanh của họ và quan trọng là sẽ giúp Ngân hàng hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra đối với đồng vốn cho vay. 2; Những nguyên tắc tín dụng cơ bản. Tín dụng Ngân hàng dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản. Nguyên tắc thứ nhất: Tiền vay phải hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi vay. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn của Ngân hàng là nguồn vốn huy động của khách hàng. Đó là một bộ phận tài sản của các chủ sở hữu mà Ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng, Ngân hàng cũng có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu rút vốn của khách hàng khi họ yêu cầu. Nếu các khoản tín dụng không được hoàn trả đúng hạn thì nhất định sẽ ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của Ngân hàng. Để thực hiện nguyên tắc này, mỗi lần cho vay Ngân hàng phải định kỳ hạn nợ phù hợp. Khi đến kì hạn nợ, người đi vay phải lập giấy trả nợ cho Ngân hàng, nếu không Ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của người đi vay để thu nợ. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ số dư thì chuyển nợ quá hạn. Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả nợ, Ngân hàng sẽ phát mãi tài sản đảm bảo. Nguyên tắc này hạn chế rủi ro về thanh khoản. Nguyên tắc thứ hai: Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích. Tín dụng cung ứng cho nền kinh tế phải hướng đến mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Đối với các đơn vị kinh tế, tín dụng cũng phải đáp ứng các mục đích cụ thể trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh để thúc đẩy các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình. Tín dụng đúng mục đích không những là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của tín dụng. Hiệu quả của nó trước hết là đẩy nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều khối lượng sản phẩm, dịch vụ, đồng thời tạo ra nhiều tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Để thực hiện nguyên tắc này, Ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay, bởi vì mục đích đó đã được Ngân hàng thẩm định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, Ngân hàng được quyền thu nợ trước hạn, nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn. Nguyên tắc thứ ba: Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo. Tài sản đảm bảo có thể tồn tại dưới nhiều dạng:Tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay; Tài sản đảm bảo là tài sản của người đi vay ; Đảm bảo bằng tín chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ 3. Đảm bảo tín dụng là một phương tiện cho người chủ ngân hàng có thêm một nguồn vốn khác dể thu hồi nợ nếu mục đích cho vay bị phá sản. Trong công việc kinh doanh, nguồn thu nợ thứ nhất là doanh thu đối với vốn vay lưu động, hoặc là khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung, dài hạn. Trong cho vay tiêu dùng, nguồn thu nợ thứ nhất của ngân hàng là thu nhập của cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập tài chính và các khoản thu nhập khác. Khi đánh giá hoạt động khách hàng vay, nếu thấy nguồn thu nợ thứ nhất chưa có cơ sở vững chắc thì buộc ngân hàng phải thiết lập thêm cơ sở pháp lý dể có thêm một nguồn thu nợ thứ hai. Nguồn thu nợ này bao gồm giá trị TSTC, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ban xuất mở rộng. Đảm bảo tín dụng được coi là tiêu chuẩn xét duyệt cho vay nhưng phải thấy rằng đây không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất , hay nói cách khác nó không phải mang tính nguyên tắc. Tuy vậy, trong nền kinh tế thị trường các hoạt động kinh tế diễn hết sức đa dạngvà phức tạp, vì thế mọi dự đoán rủi ro của ngân hàng đều mang tính tương đối.Trong môi trường kinh doanh như vậy,đảm bảo tín dụng là một tiêu chuẩn bổ sung những hạn chế của nhà quản trị tín dụng cũng như phòng ngừa những diễn biến không thuận lợi của môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho Ngân hàng có thể thu hồi nợ một cách chắc chắn, đồng thời có cơ sở để mở rộng quy mô tín dụng và góp phần nâng cao ý thức hoàn trả của người vay. 3; Rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, dưới giác độ là một tổ chức kinh doanh, NHTM cũng chịu tác động rất lớn từ môi trường kinh tế-xã hội-chính trị-luật pháp-cạnh tranh, làm phát sinh những rủi ro không lường trước được, do đó tác động sai lệch và đảo lộn kết quả hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Một trong những rủi ro thường xảy ra và có ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Ngân hàng là rủi ro tín dụng. Đó là rủi ro gắn liền với hoạt động Ngân hàng, cho vay bao giờ cũng gồm rủi ro và xảy ra mất mát. Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động Ngân hàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng tín dụng Ngân hàng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các Ngân hàng.Vì thế ở tất cả các nước, rủi ro tín dụng là vấn đề được quan tâm không chỉ ở phạm vi ngân hàng mà cả trong toàn nền kinh tế. Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu được nợ khi đến hạn.Việc đánh giá rủi ro này là trách nhiệm chính của nghề ngân hàng. Các Ngân hàng luôn tìm cách cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm những lợi tức cao nhất có thể có ở các món vay và chứng khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay như: Sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ lâu dài, quy định các mức tín dụng, vật thế chấp, số dư bù và hạn chế tín dụng. Dù vậy, không một Ngân hàng nào nghĩ được hết mọi bất ngờ khi viết ra những quy định hạn chế vào một hợp đồng cho vay, sẽ luôn có những hoạt động rủi ro của người vay tiền, chưa có một quy định hạn chế nào loại bỏ được chúng. Vì thế, mỗi Ngân hàng cần phải có chính sách cho vay rõ ràng để xác định phương hướng sử dụng vốn, giảm bớt các rủi ro và duy trì các hoạt động như dự định. Chính sách cho vay của một ngân hàng nên kết hợp sự bảo đảm có thế chấp và khả năng thanh toán nợ. II: Bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng Ngân hàng. 1;Lý do hình thành tài sản đảm bảo trong hoạt động tín dụng Ngân hàng. Tài sản Có là phần sử dụng nguồn vốn đưa vào kinh doanh và duy trì khả năng thanh toán của một Ngân hàng. Chất lượng Tài sản Có là chỉ tiêu tổng hợp nhất, nói lên khả năng bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh lời và năng lực quản lý của Ngân hàng. Trong Tài sản Có, cho vay là bộ phận chiếm tỉ trọng lớn nhất, trực tiếp tác động đến lợi nhuận và an toàn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.Vì vậy, việc quản lý khoản tiền cho vay là một nội dung đặc biệt quan trọng trong hoạt động cho vay của bất cứ NHTM nào. Một trong những nguyên tắc cơ bản của quản lý khoản tiền cho vay là tài sản đảm bảo. Những bắt buộc về tài sản đảm bảo đối với tiền cho vay là một công cụ quan trọng để quản lý Ngân hàng, làm giảm bớt tổn thất của Ngân hàng trong trường hợp người vay mất khả năng hoàn trả nợ. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong những trường hợp Ngân hàng phải đối mặt với rủi ro về đạo đức của khách hàng. Ngân hàng có thể cho vay với phương án xin vay có cơ sở để thực hiện một cách có hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ trong điều kiện không đủ TS đảm bảo. Tuy vậy, không một Ngân hàng nào có thể dự đoán mọi biến động của nền kinh tế, lường trước mọi rủi ro có thể xảy ra, do đó tài sản đảm bảo vẫn luôn là một biện pháp hữu hiệu để ngăn ngừa và chống đỡ rủi ro tín dụng. 2; Các hình thức bảo đảm tín dụng. Bảo đảm tín dụng có thể chia 2 hình thức. Bảo đảm đối vật và Bảo đảm đối nhân. 2.1: Bảo đảm đối nhân. Với hình thức này,Ngân hàng có thể cho vay dựa trên những khả năng của khách hàng không cần đưa ra bất cứ tài sản gì để đảm baỏ cho khoản vay. Khoản vay muốn được Ngân hàng chấp thuận trên cơ sở như thế thì phải đảm bảo các yêu cầu riêng của Ngân hàng. Bảo đảm đối nhân gồm các hình thức: Tín chấp và Bảo lãnh. *Bảo lãnh. Bảo lãnh vay vốn Ngân hàng là việc người thứ ba ( Pháp nhân hoặc thể nhân gọi là bên bảo lãnh ) cam kết với bên cho vay ( Bên nhận bảo lãnh ) sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay vốn ( bên được bảo lãnh ) nếu khi đến hạn mà bên bảo lãnh không hoàn trả được toàn bộ hay một phần nợ vay bao gồm cả gốc và lãi và tiền phạt quá hạn cho bên nhận bảo lãnh.Bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh bằng tài sản của mình hoặc các bên có thể thoả thuận bên bảo lãnh phải thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh bằng uy tín của mình. Bảo lãnh là một hình thức đảm bảo gián tiếp nhưng được sử dụng tương đối rộng. Nó mang ý nghĩa quan trọng với việc mở rộng và khuyến khích đầu tư. Điều quan trọng là người bảo lãnh và được bảo lãnh phải có quan hệ tín nhiệm với nhau,phải biết trước được đạo đức của người vay, tính khả thi của dự án mà người vay thực hiện. Bảo lãnh có thể là bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ số nợ vay. Nhiều bên bảo lãnh có thể bảo lãnh cho một bên để thực hiện một hợp đồng vay vốn. Mỗi bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh một phần nợ gốc, lãi ,phạt quá hạn và ký một hợp đồng bảo lãnh độc lập. Hoạt động bảo lãnh ở Việt Nam chủ yếu do các NHTM đảm nhận cho khách hàng tham gia các dự án hoặc xin vay ở các ngân hàng khác. *Bảo đảm bằng uy tín-hiệu quả hoạt động kinh doanh. Đây là hình thức Ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên uy tín của khách hàng, khách hàng không phải trao cho Ngân hàng bất cứ vật gì làm tin. Hình thức cho vay này dựa trên cơ sở tín nhiệm trong quan hệ tín dụng đối với Ngân hàng. Một khách hàng phải có đủ các điều kiện vay vốn như tư cách pháp nhân, không có nợ quá hạn, có một lượng vốn tự có nhất định, có uy tín mới được Ngân hàng xem xét cho vay. Để thực hiện được hình thức bảo đảm này, Ngân hàng cần phải xem xét tình hình tài chính, tình hình kinh doanh của đơn vị để rút ra kết luận về khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh ... Hình thức bảo đảm này thường được áp dụng cho khu vực kinh tế quốc doanh. Hình thức này có nhiều ưu điểm trong việc thúc đẩy mối quan hệ làm ăn lâu dài giữa Ngân hàng và khách hàng, giảm bớt quy trình tín dụng khi thực hiện món vay nhưng rủi ro mang theo là rất lớn. 2.2: Bảo đảm đối vật. Là hình thức bảo đảm tín dụng mà trong đó Ngân hàng đóng vai trò chủ nợ, được hưởng một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng nhằm làm căn cứ để thu hồi nợ trong trường hợp con nợ không trả hoặc không có khả năng hoàn trả. Việc bảo đảm bằng tài sản được thể hiện dưới hai hình thức *Thế chấp. Thế chấp là việc bên vay vốn Ngân hàng dùng tài sản là bất động sản và một số động sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ ( bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt quá hạn ) đối với bên cho vay. Đây là phương thức nhất thiết phải bảo đảm trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ sản xuất, cá thể. Đối với doanh nghiệp nhà nước hình thức thế chấp cũng có thể được áp dụng tuỳ thuộc vào mối quan hệ với doanh nghiệp của Ngân hàng. Tài sản được dùng để thế chấp là bất động sản và một số loại động sản nhất định được quy định rõ với thời hạn bất kì ( tàu biển, máy bay ...). Người ta có thể dùng TSTC để vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Đối với thế chấp, Ngân hàng bao giờ cũng nắm giữ các giấy tờ sở hữu gốc. * Cầm cố. Cầm cố tài sản vay vốn Ngân hàng là việc bên vay vốn ( bên cầm cố ) có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay vốn ( bên nhận tài sản cầm cố ) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ ( bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt lãi quá hạn). Nếu tài sản mà pháp luật quy định đăng ký quyền sở hữu hoặc có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố và giao bản gốc giấy tờ quyền sở hữu tài sản cầm cố để vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. B: Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay và xử lý TSTC hình thành từ vốn vay trong hoạt động kinh doanh của nhtm. I: Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay và vai trò của nó. Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay là tài sản mà giá trị của nó do một phần hoặc toàn bộ khoản vay Ngân hàng tạo nên được khách hàng sử dụng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với Ngân hàng bằng cách giao giấy tờ sở hữu tài sản và xác nhận cho Ngân hàng quyền phát mại tài sản khi khách hàng không hoàn trả được nợ vay. Tài sản hình thành từ vốn vay gồm : Nhà cửa, công trình xây dựng ; Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, tàu biển, máy bay ; Hàng hóa nhập khẩu. Hình thức bảo đảm này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp, nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nó vừa góp phần quan trọng giải quyết nhu cầu về vốn để mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, vừa giúp Ngân hàng mở rộng phạm vi cho vay bằng nhiều loại tài sản nhằm tăng lợi nhuận, đảm bảo các yếu tố về mặt pháp lý, hạn chế được những quy định khắt khe của NHNN, giảm bớt được rủi ro tín dụng và duy trì mối quan hệ khách hàng tiềm năng để cung cấp dịch vụ Ngân hàng. II: Điều kiện đối với khách hàng vay và TSTC hình thành từ vốn vay khi bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Ngân hàng lựa chọn áp dụng việc bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốnvay khi cho vay trung hạn, dài hạn đối với các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống nếu khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng được các điều kiện quy định sau: 1; Đối với khách hàng. Khách hàng vay được sử dụng TSTC hình thành từ vốn vay làm tài sản đảm bảo phải là khách hành có tín nhiệm đối với Ngân hàng, có khả năng tài chính và có các nguồn thu hợp pháp trong thời hạn vay vốn để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Đồng thời các khách hàng này phải đưa ra dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi, có khả năng hoàn trả nợ; hoặc các dự án,phương án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với quy định pháp luật. Ngoài ra, khách hàng phải đảm bảo có mức vốn tự có ( vốn chủ sở hữu ) tham gia dự án đầu tư và giá trị tài sản đảm bảo tiền vay bằng các biện pháp thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ba tối thiểu bằng 30% tổng vốn đầu tư của dự án. 2; Đối với tài sản hình thành từ vốn vay. Tài sản hình thành từ vốn vay dùng làm bảo đảm tiền vay phải xác định được: Thứ nhất : Quyền sở hưũ của khách hàng vay. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất thì phải xác định quyền sử dụng của khách hàng vay và được thế chấp theo quy định của pháp luật về đất đai. Đối với tài sản của doanh nghiệp nhà nước phải xác định được quyền quản lý, sử dụng tài sản là bất động sản gắn liền với đất, thì khách hàng vay phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của khu đất mà trên đó tài sản sẽ được hình thành và phải hoàn thành các thủ tục về đầu tư xây dựng theo quy hoạch của pháp luật. Thứ hai : Phải xác định danh mục, số lượng, giá trị, đặc điểm của tài sản. Việc xác định yếu tố này dựa vào dự án đầu tư hoặc phương án phục vụ đời sống. Thứ ba : Tài sản được phép giao dịch và không có tranh chấp. Đối với tài sản hình thành từ vốn vay mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm thì khách hàng vay phải cam kết mua vảo hiểm trong suốt thời hạn vay vốn khi tài sản đã được hình thành đưa vào sử dụng. III: Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong hoạt động cho vay có TSTC hình thành từ vốn vay. Trong hoạt động cho vay có TSTC hình thành từ vốn vay, cả khách hàng và Ngân hàng đều có những quyền lợi và nghĩa vụ nhất định. 1; Về phía khách hàng vay. Khách hàng vay có quyềnlợi sau: Một là : Được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, trừ trường hợp hoa lợi và lợi tức cùng thuộc tài sản bảo đảm tiền vay. Hai là : Khách hàng thuê, cho mượn tài sản nếu có thoả thuận với Ngân hàng cho vay. Đồng thời khách hàng cũng phải thực hiện các nghĩa vụ như: Phải giao cho Ngân hàng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cuả khu đất mà tài sản là bất động sản sữ được hình thành khi kí kết hợp đồng thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Thông báo cho Ngân hàng về quá trình hình thành và tình trạng tài sản đảm bảo, tạo điều kiện để Ngân hàng kiểm tra tài sản đảm bảo tiền vay. Đối với TSTC mà pháp luật quy định đăng kí quyền sở hữu trước khi đưa vào sử dụng phải đăng kí sở hữu tài sản và giao cho Ngân hàng giữ bản chính giấy chững nhận sở hữu đó. Không được bán, chuyển nhượng, tặng, cho, góp vốn liên doanh, hoặc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khác khi chưa trả hết nợ cho Ngân hàng, trừ trường hợp Ngân hàng đồng ý cho bán để trả nợ cho chính khoản vay được đảm bảo. 2; Về phía Ngân hàng. Ngân hàng có các quyền và nghĩa vụ sau: Quyền yêu cầu khách hàng vay thông báo tiến độ hình thành tài sản đảm bảo và sự thay đổi của tài sản đảm bảo tiền vay. Quyền tiến hành kiểm tra và yêu cầu khách hàng vay cung cấp các thông tin để kiểm tra, giám sát tài sản hình thành từ vố

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100229.doc
Tài liệu liên quan