Độ ngon miệng của thịt bò

Người tiêu dùng thịt bò quan tâm về giá, vệ sinh, dinh dưỡng và độ

ngon miệng. Giá cả sẽ biến động, vệ sinh thì sẽ mong đợi, còn dinh dưỡng

thì có thể được thoả mãn bằng những thực phẩm khác, do vậy độ ngon

miệng là thuộc tính của thịt bò mà nó chiếm lĩnh và duy trì thị phần cho

ngành công nghiệp thịt bò. Ngược lại thì độ ngon miệng cuối cùng làm giảm

mức tiêu thụ của những người ăn thịt đỏ (red meat eaters). Nếu những người

tiêu dùng không thích thịt bò thì họ không ăn nó. Nếu con người không thích

sản xuất thịt bò thì họ không để ý là thịt bò có làm ta khoẻ mạnh, dinh

dưỡng hoặc kinh tế hay không vì họ chẳng có gì.

pdf13 trang | Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Độ ngon miệng của thịt bò, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Độ ngon miệng của thịt bò Người tiêu dùng thịt bò quan tâm về giá, vệ sinh, dinh dưỡng và độ ngon miệng. Giá cả sẽ biến động, vệ sinh thì sẽ mong đợi, còn dinh dưỡng thì có thể được thoả mãn bằng những thực phẩm khác, do vậy độ ngon miệng là thuộc tính của thịt bò mà nó chiếm lĩnh và duy trì thị phần cho ngành công nghiệp thịt bò. Ngược lại thì độ ngon miệng cuối cùng làm giảm mức tiêu thụ của những người ăn thịt đỏ (red meat eaters). Nếu những người tiêu dùng không thích thịt bò thì họ không ăn nó. Nếu con người không thích sản xuất thịt bò thì họ không để ý là thịt bò có làm ta khoẻ mạnh, dinh dưỡng hoặc kinh tế hay không vì họ chẳng có gì. Bài này tập trung vào độ ngon miệng và đặc biệt là thuộc tính của bít tết bò mà người ta cho biết là quan trọng nhất đối với việc thưởng thức thịt bò, đó là độ mềm. Trong những cuộc điều tra về ý kiến khách hàng về thịt bò thì độ mềm luôn luôn được coi là thuộc tính ngon miệng quan trọng nhất của thịt bò. Làm cách nào để đo độ mềm? Yếu tố nào của thịt xác định độ mềm? Quan hệ giữa độ mềm và các nhân tố như pH, kích thích điện, Stress... trước khi giết thịt và con giống như thế nào? Quản lý độ ngon miệng là một công việc tổng hợp đòi hỏi chú ý vào các khâu quản lý từ nhận thức đến tiêu thụ. úc là nước đi đầu trên thế giới về kế hoạch quản lý độ ngon miệng qua dây truyền sản xuất hoàn chỉnh. Đo độ mềm (Tenderness measurements) Độ mềm là một nhận thức trong trí óc con người khi họ tác động vào độ dai (toughness) của thịt bằng cắn và nhai. Độ dai trong thịt có thể đo bằng cách sử dụng các thiết bị cơ khí bắt chước các hành động của miệng và răng. Điều quan trọng là nó có thể đo độ mềm như tất cả các tiến bộ phụ thuộc vào việc có thể đo bất cứ gì mà chúng ta đang cố gắng kiểm tra. Thiết bị đo độ dai được sử dụng rộng rãi nhất gọi là máy Warner- Bratzler Shear Force. Nó gồm một đĩa thép có một lỗ vuông. Một nút của thịt đã nấu được đặt vào lỗ này và đĩa đó được kéo qua thịt trong khi các đầu thịt được giữ nguyên bằng các mảnh kim loại khác. Các lực cần để kéo đĩa thép qua thịt được biểu diễn trên đồ thị. Đầu tiên có sự tăng lên về lực khi dụng cụ kéo trên thịt, sau đó có sự nghỉ. Sự nghỉ này gọi là năng suất đầu (initial field). Sau đó lực tiếp tục lên cao đến khi nó đạt được cực đỉnh. ở điểm này thịt đứt thành nửa và lực tụt xuống. Lực PF-IY Lực cực đỉnh NS đầu O Thời gian (giây) 20 2 lực, năng suất đầu và PFIY (lực cực đỉnh trừ năng suất đầu) có liên quan với 2 cấu trúc trong thịt, 2 cấu trúc này góp phần vào độ dai của thịt. Một thành tố của cơ là những bó gậy protein dài. Đó là các sợi cơ (myofibrils). Khi chúng ngắn lại thì cơ co và do vậy sẽ kéo dài các vật. Thành tố kia là một mạng lưới. Đó là màng liên kết. Màng liên kết giữ các sợi cơ với nhau. Màng liên kết trải khắp cơ hoặc thịt thành một cấu trúc mạng lưới nối chằng chịt. Trở lại sơ đồ Warner-Bratzler Forces chúng ta cân bằng độ chắc của sợi cơ với năng suất đầu. Lực sau cần làm đứt cơ, từ năng suất đầu đến lực cực đỉnh là do màng liên kết. Có các cách đo độ dai có tính cách cơ học. Instron Compression là một phương pháp ở đó người ta đo lực cần để chuyển một que thăm dò (blunt probe) vào thịt. Đó là màng liên kết có sức chống đỡ cao nhất đối với que thăm dò. Độ bám chắc có liên quan đến khả năng khó đến đâu để tách thịt ra. Làm điều này bằng cách kẹp thịt bằng kẹp và đo lực cần thiết để tách nó ra. Độ hoà tan của collagen đo độ dễ mà một màng liên kết tách rời khi đun nóng. Kiểm tra phù hợp nhất đó là người ta nếm thịt và bảo cho chúng ta là liệu có dai hay không. Kiểm tra hoặc lập bảng kiểm tra người tiêu có thêm thuận lợi là cũng có các kết quả quan trọng khác như độ ngọt, hương vị và khả năng chấp nhận chung. Điều bất lợi của phương pháp này là nó chậm và khó tổ chức và thực tế là người ta thường không thống nhất nhau. Nếm thử có thể thực hiện bằng cách đưa thịt cho người tiêu dùng ở chợ hoặc nhà hàng và bảo những người bình thường điền vào phiếu kết quả. Phương pháp này không đáng tin cậy nếu bạn không đánh giá một số lượng mẫu lớn. Một xúc tiến khác là lập một danh sách người một cách kỹ lưỡng để họ có thể làm lại kết quả thu được bằng máy Warner-Bratzler. Điều này không có ý nghĩa vì kết quả máy là dễ thu được hơn. Một xúc tiến thay thế đối với việc đánh giá nhạy cảm hoặc thử bảng kiểm tra thịt là sử dụng người bình thường mà họ đã biết những điều cần đánh giá khi thử. Họ có một kinh nghiệm lớn về nếm và kết quả của họ được kiểm tra có tính thống kê để đảm bảo là mọi người đang thực hiện với nhau. Mỗi mẫu được thử bằng 1 số người khác nhau. Họ đánh giá độ mềm của thịt, độ ngọt và hương vị và cuối cùng họ phán xét khả năng chấp nhận tổng hợp. Đây là phương pháp sử dụng ở trung tâm thịt bò nhiệt đới. pH: Bạn phải có pH thấp để có thịt mềm. pH là thước đo độ axit với giá trị từ 0-14. Nước nguyên chất trung tính có pH bằng 7. Axit như dấm, nước chanh có pH thấp hơn và các chất kiềm như amoniac và một số chất tẩy rửa có pH cao hơn. Dấm có thể có pH bằng 3 và amoniac là 12. Trao đổi chất là toàn bộ các phản ứng hoá học liên tục diễn ra trong chất sống. Trao đổi chất cung cấp năng lượng cho cơ thể sống. Đường được phân giải theo một số các bước giải phóng năng lượng. Các bước đầu không cần oxy nhưng các bước sau thì cần. Khi có mặt oxy thì sản phẩm cuối cùng là carbon dioxide (CO2) được thải ra. Nếu không có ôxy thì chỉ có quá trình đầu xảy ra và sản phẩm cuối cùng là axit lactic. Glucogen cơ Năng lượng Năng lượng Glucose Carbon dioxide Axit lactic ôxy * Hô hấp hiếu khí: khi có mặt ôxy thì sản phẩm cuối cùng là CO2 mà con vật thở ra. Khi bạn đi bộ nhanh. Bạn không thể đi tiếp tục trong nhiều giờ vì bạn đang sử dụng đường và ôxy để sản sinh năng lượng và bạn đang thở ra CO2. * Hô hấp yếm khí: Trong lúc chạy nhanh, bạn không thể hít đủ ôxy nhanh và bạn không thể thải ra CO2. Chỉ có giai đoạn đầu của dây truyền sản xuất năng lượng hoạt động sau một lúc thì bạn mệt nhoài và không thể đi thêm nữa. Lý do là không đủ ôxy thì một sản phẩm mới tạo ra, đó là axit lactic. Đây là một axit và nó nằm lại trong mạch máu bạn. Nó làm pH thấp xuống và làm ngừng mọi thứ hoạt động. Bạn mệt mỏi và bạn phải dừng lại, hãy hít ôxy vào làm cơ thể bạn phân giải axit lactic. * Trao đổi sau khi chết. Giống như quá trình hô hấp yếm khí xảy ra trong cơ của bò khi chúng bị giết. Không có ôxy cung cấp sau khi giết nhưng các quá trình khai thác vẫn làm việc cho đến khi đường cạn kiệt. Do vậy pH ở thịt tươi giảm xuống và điều này tốt vì nó cho phép làm già (ageing) xảy ra. pH trong cơ thể còn sống ằ7 (trung tính như nước). Trong thịt, pH nên thấp hơn 5,8, có nghĩa là thịt có nhiều axit hơn cơ sống. Thịt phải có pH thấp để thịt mềm. Làm co cơ trong lạnh, tăng cường mềm và kích thích điện Điều gì xảy đối với thịt xẻ khi được giết tươi? Trước hết, khi thịt lạnh, cơ co lại vì chúng luôn luôn có trong quá trình cứng đờ của cơ thể sau khi chết. Quá trình này cần năng lượng do trao đổi chất tạo ra. Bước tiếp theo trong quá trình này là sự ruỗi cơ, cũng cần năng lượng mà trao đổi chất tạo ra. Nếu cơ bị lạnh buốt rất nhanh thì trao đổi chất dừng lại và quá trình ruỗi không thể xảy ra vì cơ qúa lạnh. Do vậy cơ giữ ở trạng thái co và gọi là co lạnh. Cơ co lạnh là dai. Cơ co có thể khắc phục được ở một số cơ bằng qúa trình ruỗi mềm khi con vật đói làm cho cơ ruỗi ra và không thể co lại khi giết thịt. Khó khăn đó cũng có thể khắc phục được bằng cách làm lạnh chậm hơn. làm lạnh chậm sẽ gây ra vấn đề vệ sinh vì nó tạo cho sinh vật bề mặt có thời gian phát triển. Thịt xẻ có mỡ dày bao bọc có thể được làm lạnh nhanh hơn vì mỡ tốt bao phủ giúp làm chậm lại đóng lạnh trong phạm vi cơ. Tuy vậy quá nhiều mỡ dưới da thì lãng phí và đối với cơ nổi như cơ lưng không hoạt động tốt. Giải pháp khác là kích thích điện thịt xẻ. Kích thích điện thịt sẽ làm cho cơ sử dụng hết đường rất nhanh. Do không có ôxy vào cơ trong lúc kích thích, một lượng lớn axit lactic tạo ra. pH giảm xuống 5,8 và có đủ năng lượng cho phép cả co và ruỗi cơ. Do tất cả điều này diễn trước khi làm lạnh, đông lạnh nhưng sẽ không có ảnh hưởng xấu. Tuy nhiên, nếu thực hiện kích thích khi cơ vẫn còn ấm thì năng lượng vào và việc sử dụng của cơ làm cho protein biến tính, và kết quả là thịt dai như làm co nhiệt. Stress trước khi giết thịt Trong một số trường hợp, không đủ đường trong cơ khi gia súc giết thịt. Không đủ đường trong cơ thì pH không thể giảm xuống và sẽ giữ mức trên 5,8. Thịt sẽ cứng lại và chẳng thể làm gì được nó. Thịt sẽ có màu đen, khô và rắn lại. Vấn đề này đã làm cho ngành công nghiệp thịt của úc chi phí mất hơn 40 triệu đô la một năm. Khi nào không có đủ đường trong cơ thể? Điều này xảy ra khi bò bị stress trước khi giết mổ. Đường có thể được sử dụng hết trong lúc stress nhanh như khi gia súc không quen nhau ở cùng nhau hoặc gia súc bị quấy rầy bởi chó h oặc nhốt chật. Cũng có thể bị sử dụng hết bởi stress chậm như lúc vận chuyển, lúc thời tiết nóng hoặc lạnh quá và mất nước. Do bò chậm thay đường của cơ nên bất cứ stress trước khi giết thịt cũng có nghĩa là con vật sẽ bị giết với đường không đủ trong cơ. pH sẽ không giảm xuống và thịt sẽ cứng lại. Điều xảy ra trong lúc làm già thịt (ageing) Tầm quan trọng của việc làm giảm pH đã được nhắc đi nhắc lại. Lý do làm giảm pH là rất quan trọng. Quá trình này gọi là làm già. Làm già là một quá trình làm mềm thịt khi bạn để thịt giữ nguyên trong một thời gian sau khi giết thịt thường là 8 ngày đến vài tuần. Làm già được thực hiện ở nhiệt độ thấp để tránh ôi thiu do vi khuẩn và giữ ở túi nhựa đặc biệt để ngăn ngừa mùi do ôxy hoá. Trong lúc làm già thì enzym Calpain cắt các sợi dài ra bằng cách bật các phần ngắn khỏi đĩa, bó cơ vẫn giữ nguyên nhưng chúng đã gẫy bên trong. Có nghĩa là thịt mềm hơn nhưng vẫn có cấu trúc. Nó không mịn hoặc nhỏ đi. Các thay đổi khác cũng xảy ra khi làm già. ảnh hưởng của pH thấp và canxi tự do (thải ra do kích thích điện) làm thay đổi cách mà protein cơ gấp và gắn lại với nhau. ảnh hưởng chung của những thay đổi này và hoạt động của các enzym là tạo ra cho thịt mềm đi. Giống: ảnh hưởng trực tiếp của giống đến độ ngon miệng là nhỏ nhưng quan trọng. Nhiều nghiên cứu của úc đã chỉ ra rằng người tiêu dùng và bảng đánh giá khẩu vị nhận thấy có sự khác nhau rất ít hoặc không có sự khác nhau giữa các giống. Nhiều lẫn lộn về giống nảy sinh bởi 3 vấn đề. Trước hết là các nghiên cứu đã thực hiện ở Mỹ ở đó hệ thống sản xuất và chế biến khác với các hệ thống này ở úc. Thứ hai là, cả ở Mỹ và ở đây, các nghiên cứu đã dùng cách đo bắng máy móc làm công cụ để đo độ mềm của thịt. Có nhiều kết quả công bố cho thấy rằng đo bằng máy móc không thống nhất rõ với điều mà người tiêu dùng coi là độ mềm. Thứ ba là ảnh hưởng của giống thường lẫn với ảnh hưởng của các nhân tố môi trường như dinh dưỡng, stress do ký sinh trùng và nhất là quy trình chế biến. Nên luôn luôn đặt quan tâm đến giống khi xem xét độ ngon miệng trong một hoàn cảnh nhớ là giống chiếm 5% biến động về độ mềm trong bít tết, phần còn lại là do các nhân tố khác. ở trung tâm bò thịt nhiệt đới, Rockhampton, chúng tôi đã nghiên cứu thịt từ những con bê thuộc các giống khác nhau sử dụng bảng nếm và đo khách quan. Các mẫu kiểm nghiệm được làm già, thịt được kích thích điện. Đây là thịt của những con bê nuôi chăn thả có tuổi khoảng 3 năm với khối lượng từ 550 - 650kg. Các giống Bos indicus là Brahman và Boran, giống Rritish là Hereford - sừng ngắn, giống Sanga gồm Belmont đỏ và Tuli, giống Continental gồm Charolais và Simmental. Kết quả bảng nếm thử cho điểm từ 0 (rất cứng, dai) đến 100 (rất mềm). Có sự khác nhau nhỏ giữa các giống với các giống Bos indicus thuần chủng cứng hơn so với các giống khác. Ngành công nghiệp thịt bò chế biến bò Brahman chiếm ưu thế ở bang Queenland có thể làm gì về ảnh hưởng của giống đến độ mềm? Chú ý là giống lai hoàn toàn chấp nhận được. Lai giữa giống Continental và Brahman phổ biến cho tốc độ tăng trưởng tăng lên đã được người nếm thử rất thích. Hơn nữa độ mềm được thừa hưởng ở các giống nhiệt đới. Có nghĩa là độ mềm có thể được cải tiến bằng chọn lọc, nhưng không phải là các giống ôn đới. Điều này cho ngành một cơ hội cải tiến. Quản lý toàn bộ dây truyền cho độ ngon miệng Cho đến nay khoa học về thịt được báo cáo đã chỉ ra rằng để có khẩu vị ngon miệng thì cần điều khiển được một số yếu tố. Phải sử dụng các giống phù hợp. Phải hạn chế tối đa stress trước khi giết thịt. Phải kiểm tra kỹ các hoạt đọng giết mổ và chế biến. Phải quan tâm đến dự trữ thịt sau khi giết mổ. Phải sử dụng kích thích điện, ruỗi mềm và làm già các nhân tố khác không đề cập đến cũng quan trọng. Con vật càng già khi giết thịt thì màng liên kết càng dai hơn. Không chỉ tuổi của con vật mà nó đã phát triển có tốt không trong cuộc sống và điều quan trọng là nó được ăn tốt ở cuối đời để cơ sẽ có hàm lượng glucogen cao. Công nghiệp thịt bò úc đã sáng tạo ra một kế hoạch theo đó tất cả các nhân tố này được quản lý và theo đó các biện pháp đo khách quan được thực hiện ở các giai đoạn khác nhau của quá trình này để đảm bảo và bảo hành chất lượng khẩu vị của thịt. Kế hoạch này được biết là tiêu chuẩn thịt của úc (MSA). Nó là một qúa trình đang thực hiện và những phát triển mới được bổ sung làm tăng sự hiểu biết.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf12_7019.pdf