Gia nhập WTO và các tác động tới quản lý hoạt động ngân hàng thương mại

Xu hướng toàn cầu hoá trên thế giới cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO vào năm 2007 đã mở ra nhiều cơ hội mới cho mọi lĩnh vực, mọi doanh nghiệp (DN) trong đó không thể không nói tới ngân hàng - một lĩnh vực hết sức nhạy cảm ở các nước đi lên từ nền kinh tế bao cấp. Việc mở cửa thị trường ngân hàng, tài chính làm các Ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt hơn từ các ngân hàng nước ngoài đến từ các khu vực tài chính phát triển như Mỹ, Châu Âu, Singapore, Nhật Bản,. Do đó vấn đề cấp thiết để tiếp tục tồn tại và phát triển quy mô nhưng vẫn an toàn, hiệu quả, các Ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM) phải chú trọng đổi mới công tác quản lý, điều hành. Trong bài viết này, tác giả đi sâu phân tích tác động của việc gia nhập WTO đến công tác quản lý hoạt động của NHTM.

doc57 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1036 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Gia nhập WTO và các tác động tới quản lý hoạt động ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này; đồng thời áp dụng các điều chỉnh cần thiết trên cơ sở ý kiến của chuyên gia. Có như vậy, việc xếp hạng tín dụng mới thực sự là công cụ hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng và là căn cứ để định giá theo rủi ro của ngân hàng. (ii) Mặt khác chất lượng của xếp hạng khách hàng phụ thuộc lớn vào mô hình tổ chức và đội ngũ nhân sự của chính ngân hàng. Vì thế, việc hoàn thiện mô hình tổ chức theo hướng tuân thủ các nguyên tắc về quản trị DN, đảm bảo phân tách rõ trách nhiệm giữa các bộ phận liên quan trong việc quản lý rủi ro; tránh xung đột lợi ích là vấn đề cốt lõi để giảm thiểu nợ xấu nảy sinh trong hoạt động tín dụng. Giám sát việc triển khai và ứng dụng xếp hạng tín dụng trong hoạt động để giảm thiểu rủi ro nhằm đảm bảo hệ thống xếp hạng tín dụng không ngừng được hoàn thiện và nâng cao chất lượng, đòi hỏi nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin để đảm bảo hệ thống vận hành có hiệu quả. Định kỳ hoặc đột xuất kiểm tra việc tuân thủ các quy định xếp hạng tín dụng, đảm bảo chất lượng thông tin đầu vào nhằm ngăn ngừa những sai sót do vô tình hay cố ý đánh giá khách hàng theo ý kiến chủ quan của một, hay nhóm người, làm sai lệch kết quả xếp hạng, dẫn đến các quyết định cho vay không chuẩn. Về phía doanh nghiệp vay vốn Giải quyết hàng tồn kho là vấn đề cấp bách hiện nay. Để xử lý hàng tồn kho, ngoài việc hạ giá bán (chấp nhận lỗ) để thu hồi vốn về quay vòng thì một hình thức liên kết giữa các DN, sử dụng các sản phẩm của nhau cũng là cách làm hiện nay. Bên cạnh đó, việc minh bạch thông tin tài chính, nâng cao khả năng quản trị DN, để tạo niền tin trong quan hệ tín dụng với ngân hàng. Về phía Ngân hàng Nhà nước Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý để các ngân hàng có căn cứ thực hiện xếp hạng tín dụng nội bộ, hướng theo thông lệ quốc tế. Song song với việc xây dựng, hoàn thiện xếp hạng tín dụng nội bộ, cần có chính sách phát triển các đơn vị xếp hạng tín dụng độc lập làm cơ sở tham chiếu chung trong công tác xếp hạng tín dụng. Kinh nghiệm của nhiều nước trong khu vực cho thấy, việc phát triển các tổ chức xếp hạng tín dụng không do Nhà nước quản lý để hạn chế việc chi phối của tổ chức hay cá nhân làm sai lệch kết quả xếp hạng là rất quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nhanh chóng xử lý những bất ổn trong nội tại của một số ngân hàng, giám sát dòng tiền luân chuyển trong nội bộ ngân hàng. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm hệ thống ngân hàng luôn bất ổn, và tích tụ rủi ro hệ thống lớn. Khi giám sát được dòng vốn ra khỏi vòng luẩn quẩn bởi một số ngân hàng, nợ xấu của các ngân hàng thương mại có điều kiện được xử lý, điểm nghẽn về vốn sẽ được khắc phục, việc tiếp cận vốn của DN sẽ dễ dàng hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 24, 36 năm 2012; Thời báo Ngân hàng, các bài có liên quan năm 2012; Xếp hạng tín dụng nội bộ - thực trạng và giải  pháp, Kỷ yếu Hội thảo tháng 9/2012; Báo cáo kinh tế - xã hội năm 2012 - 2013; Đề án Tái cơ cấu DNNN của Bộ Tài chính, năm 2012. Bài đăng Tạp chí Tài chính số 11-2012 NHTW điều hành CSTT bằng các công cụ trực tiếp như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu, hạn mức tín dụng, tỷ giá hối đoái, tỷ giá ngoại hối và công cụ trực tiếp quan trọng nhất là NVTTM . Trong đó NVTTM là công cụ có hiệu quả nhất của NHTW trong việc điều hành CSTT của mình. Ưu điểm nổi bật của NVTTM Sở dĩ NVTTM được coi là quan trọng nhất trong điều hành CSTT của NHTW bởi vì nó là nhân tố quyết định đầu tiên có thể làm thay đổi lãi suất hoặc cơ sở tiền tệ-nguồn gốc chính làm thay đổi việc cung ứng tiền tệ của NHTW . Ngoài lý do trên nghiệp vụ TTM còn 5 ưu điểm nổi bật như sau: Nghiệp vụ TTM phát sinh theo ý tưởng chủ đạo của NHTW, trong đó NHTW hoàn toàn kiểm soát được khối lượng giao dịch. Tuy nhiên việc kiểm soát này là gián tiếp không nhận thấy được.Ví dụ trong nghiệp vụ chiết khấu NHTW có thể khuyến khích hoặc không khuyến khích các NHTM, chỉ thông báo lãi suất chiết khấu , mà không kiểm soát trực tiếp khối lượng cho vay chiết khâú. Nghiệp vụ TTM vừa linh hoạt nhưng vừa chính xác, có thể sử dụng ở bất kỳ quy mô nào. Khi có yêu cầu thay đổi về dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ, dù ở mức nào đi nữa, NVTTM cũng có thể đạt được bằng cách mua hoặc bán một lượng nhỏ chứng khoán. ngược lại, nếu có yêu cầu thay đổi dự trữ với qui mô lớn, NHTW cũng có đủ khả năng thực hiện thông qua việc mua hoặc bán một khối lượng lớn tương ứng các chứng khoán. Nghiệp vụ TTM dễ dàng đảo chiều : nếu NHTW có mắc sai sót nào trong quá trình thực hiện nghiệp vụ TTM, thì có thể ngay tức khắc sửa sai sót đó bằng các nghiệp vụ bán(nếu như trước đó mua vào quá nhiều) hay mua (nếu như lúc đó bán ra quá nhiều ). Nghiệp vụ TTM có tính an toàn cao: giao dịch trênTTM hầu như không gặp rủi ro, xét trên cả góc độ của NHTW hay NHTM; vì cơ sở bảo đảm cho các giao dịch trên TTM đều là những giấy tờ có gi, có tính thanh khoản cao, không rủi ro tài chính. Nghiệp vụ TTM có thể thực hiện một cách nhanh chóng không vấp phải sự chậm trễ của các thủ tục hành chính: khi NHTW muốn thay đổi lượng tiền cungứng thì chỉ cần đưa ra yêu cầu cho các nhà giao dịch chứng khoán và sau đó việc mua bán sẽ được thực hiện ngay. Hạn chế của công cụ chiết khấu và tái chiết khấu Cơ chế tác động Đây là công cụ ảnh hưởng đến khả năng vay nợ của các NHTM, mà bản chất của nó là lãi suất ngân hàng. NHTW cấp tín dụng dưới nhiều hình thức thông qua đó tác động đến cung tiền tệ, thông dụng nhất là tái cấp vốn dưới hình thức chiết khấu và tái chiết khấu các thương phiếu. Khi chấp nhận chiết khấu hay tái chiết khấu các thương phiếu của các NHTM là NHTW đã làm tăng khối lượng tiền tệ. Đây là hình thức phát hành tiền được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá và khi các giấy tờ có giá đáo hạn NHTW sẽ đòi được các món nợ cho vay. Thông qua lãi suất tái chiết khấu NHTW có thể khuyến khích giảm hay tăng mức cung tín dụng đối với nền kinh tế ; đồng thời giảm hoặc tăng mức cung tiền tệ. Khi thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, NHTW sẽ tăng lãi suất chiết khấu. Khi đó các NHTM sẽ nâng lãi suất cho vay hoặc hạn chế bớt cơ hội cho vayvà ngược lại. Sơ đồ đơn giản như sau: Đây là công cụ đã được nhiều ngân hàng áp dụng từ lâu nhưng hiệu quả thấp thậm chí có lúc không có tác dụnghoặc có tác dụng ngược chiều. Hạn chế của công cụ Thứ nhất : Công cụ chiết khấu và tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW vì yếu tố chủ động vay và không vay nằm ở NHTM tức là NHTW phải chờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu đến để xin “tái cấp vốn”. Trong khi đó nghiệp vụ TTM là công cụ chủ động của NHTW để điều khiển cung tiền tệ bằng cách tác động vào giá và lãi suất của giấy tờ có giá. Khi mua giấy tờ có giá , người mua cần mua loại có giá thấp ,lãi suất cao; ngược lại người bán muốn bán với gía cao tức lãi suất thấp. Giá của giấy tờ có giá hay lãi suất trên TTM là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị trường. Đó là việc NHTW cần quan tâm khi quyết định phương thức đấu thầu trên TTM. Nếu NHTW muốn can thiệp trực tiếp vào lãi suất thì thực hiện đấu thầu khối lượng, ở đó lãi suất là cố định do NHTW chỉ đạo.Khi mục tiêu nghiêng về giác độ bơm rút tiền theo một khối lượng mong muốn thì NHTW thực hiện đấu thầu lãi suất, ơ’đó lãi suất được thả nổi theo cung cầu của thị trường, còn lãi suất trúng thầu sẽ đạt được xác đinh tại điểm đạt được khối lượng tiền cần bơm hoặc rút bớt ra khỏi lưu thông. Thứ hai : Trong trường hợp NHTW muốn hạn chế cho vay qua cửa khẩu chiết khấu thì nó sẽ phải tăng lãi suất chiết khấu để hạn chế việc các NHTM đem thương phiếu, kỳ phiếu đến xin chiết khấu và do vậy mà các ngân hàng cũng hạn chế việc cho vay của mình làm số nhân tiền tệ giảm. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế nếu NHTW tăng lãi xuất chiết khấu quá caothì các NHTM có thể tìm đến các nguồn vay khác với lãi suất thấp hơn như tại các ngân hàng khác của nước ngoài.Vì vậy việc tăng lãi suất chiết khấu là không có hiệu quả . NHTW cũng có thể áp dụng mức lãi suất phạt để hạn chế cho vaybằng ‘cánh cửa’ chiết khấu. Một vài quốc gia như ở Đức đã áp dụng hai đường lãi suất song hành, một là lãi suất cơ bản và một là lãi suất phạt để hạn chế việc lạm dụng cửa sổ chiết khấu ở NHTW. Tuy vậy việc hạn chế sử dụng công cụ chiết khấu cần được thực hiện một cách thận trọng. Nếu lãi suất phạt quá cao so với lãi suất thị trường thì hoạt động ngân hàng sẽ không kịp phản ứng khi có nhu cầu thanh toán. Việc hạn chế mức cho vay và tiếp cận đến cánh cửa chiết khấu nên được điều chỉnh hợp lý khi thiêú hụt dự trữ trong hệ thống. Dự trữ bắt buộc Cơ chế hoạt động NHTW sẽ sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để nhằm tăng giảm quy mô tín dụng của các NHTM bằng cách tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.( Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán bị vô hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động, tức là NHTM phải gửi tại NHTM một phần của tổng số tiền gửi mà NHTM nhận được từ dân cư và các thành phần khác trong nền kinh tế theo một tỷ lệ nhất định). Nếu khả năng thanh toán qúa lớn (NHTM dư thừa tiền) thì NHTW sẽ tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm giảm quy mô tín dụng từ đó giảm khối lượng tiền tệ. Ngược lại nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng khả năng cho vay của các NHTM (tăng khối lượng tiền tệ) Hạn chế Dự trữ bắt buộc là phương pháp truyền thống của các NHTW trong hoạt động kiểm soát tiền tệ . công cụ này đã được các nước áp dụng từ rất lâu nhưng bản thân nó còn một số hạn chế sau đây: Thứ nhất : dự trữ bắt buộc là công cụ điều tiết quá mạnh và không ổn định cho nên trong thực tế các NHTW ít thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Và việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần thực hiện một cách thận trọng và muốn có hiệu quả vẫn phải đi kèm những biện pháp khác. Theo mô hình cung ứng tiền tệ giản đơn D= 1/rr *R Giả sử khối lượng dự trữ là 100 với tỷ lệ dự trữ bằng 0,1 thì lượng tiền gửi là 1000. Khi tỷ lệ dự trữ rr=0,2 thì khối lượng tiền gửi tăng lên là 50000. Như vậy khi tăng tỷ lệ dự trữ lên gấp đôi thì lượng tiền gửi đãn tăng lên 5 lần và nó còn ảnh hưởng nhiều đến số nhân tiền tệ. Thứ hai : dự trữ bắt buộc là công cụ không mang tính công bằng vì mọi NHTM đều phải chịu một tỷ lệ dự trữ bắt buộc là như nhau. Do đó nó là công cụ khá cứng nhắc. Việc không ngừng thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác động mạnh tới hoạt độngcủa các NHTM , gây ra tình trạng kém ổn định cho các ngân hàng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của các ngân hàng đó khó khăn hơn. Thứ ba : việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề về khả năng thanh khoản ngay cả với ngân hàng có dự trữ quá mức thấp. Với nhiều quốc gia công cụ này đã bị hạ thấp và một vài trường hợp đã bị loại bỏ, tuy nhiên dự trữ bắt buộc vẫn có vai trò nhất định của mình trong việc điều hành CSTT . Nhưng phải vận dụng nó một cách thận trọng và phải kết hợp với các phương pháp khác. Như vậy so với các công cụ khác thì NVTTM có ưu thế hơn hẳn. Nhờ các ưu điểm của nó mà tới nay hầu hết các NHTW đều đề cao NVTTM như một công cụ đầu bảng trong hệ thống các công cụ điều hành CSTT. https://www.vietinbank.vn/web/home/vn/research/10/100908.html Nghiệp vụ thị trường mở - Công cụ góp phần giảm lãi suất cho vay https://voer.edu.vn/m/co-che-hoat-dong-cua-nghiep-vu-thi-truong-mo/c11cc6ab Cơ chế hoạt động của Nghiệp vụ thị trường mở Các Nghiệp vụ thị trường mở. Trong Nghiệp vụ thị trường mở phải có sự tham gia của NHTW bởi vì nếu không có sự tham gia của NHTW thì khối lượng tiền tệ nói chung sẽ không thay đổi. Một NHTW bản chứng khoán cho NHTM khác xét trong toàn cục chỉ là sự dịch chuyển chứng khoán và di chuyển ngược lại của một phần dự trữ dư thừa từ NHTM này sang NHTM khác đang thiếu vốn mà thôi. Có hai loại Nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở năng động nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ, và Nghiệp vụ thị trường mở thụ động nhằm bụ lại những chuyển động của nhân tố khác đã ảnh hưởng tới cơ số tiền tệ. Giao dịch giấy tờ có giá Các giao dịch không hoàn lại (hay các giao dịch muabán hẳn). Các giao dịch này bao gồm các nghiệp vụ mua, bán các giấy tờ có giá của NHTW trên thị trường theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường. Hình thức giao dịch này làm chuyển hắn quyền sở hữu đối với các chứng khoán là đối tượng giao dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ các Ngân hàng là dài hạn các giấy tờ đó phải là các công cụ nợ có mức rủi ro thấp và phải được phát hành bởi các tổ chức đủ điều kiện theo quy định Các giao dịch có hoàn lại (giao dịch có kỳ hạn). Phương pháp này chủ yếu được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời là các hợp đồng mua lại. Hợp đồng mua lại được sử dụng khi NHTW thực hiện một giao dịch theo hợp đồng mua lại, có nghĩa là nó mua chứng khoán từ người môi giới trên thị trường, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngày trong tương lai. Giao dich mua mua bán có kỳ hạn tồn tại dưới dạng: Thứ nhất: Mua bán theo hợp đồng mua lại: Là việc NHTW ký hợp đồng mua bán với người giao dịch và ngươi giao dịch đồng ý mua lại các giấy tờ có giá của NHTW vào một ngày xác định trong tương lai. Thứ hai : Mua bán theo hợp đồng mua lại đảo ngược : là việc NHTW bán các giấy tờ có giá cho người giao dịch và người giao dịch lại đồng ý bán lại các giấy tờ có giá cho NHTW vào một ngày xác định trong tương lai. Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong Nghiệp vụ thị trường mở vì những lý do sau: Đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng không dự tính trước đến dự trữ của các Ngân hàng, chi phí giao dịch của một hợp đồng mua lại rẻ hơn so với hợp đồng mua đứt bán đoạn; Thích hợp trong trường hợp các định hướng chính sách tiền tệ không hoàn hảo dẫn đến việc sử dụng các giải pháp khắc phục; làm giảm thời gian thông báo, do đó mà làm giảm bớt biến động của thị trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW . Nghiệp vụ giao dịch hoán đổi ngoại tệ Trong nghiệp vụ này khi tham gia giao dịch thi NHTW đồng thời ký hai hợp đồng và lấy ngoại tệ làm đối tượng trao đổi Hợp đồng 1: Mua bán ngoại tệ với tỷ gia giao ngay Hợp đồng 2: Bán hoặc mua ngoại tệ với tỷ giá co ky hạn Ngoài ra một loạt các nghiệp vụ khác cũng được NHTW sử dụng trong Nghiệp vụ thị trường mở như: phát hành, chứng chỉ nợ của NHTW, giao dịch hoán đổi các chứng khoán đến hạn . Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở. Các Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua phưong thức giao dịch song phương và qua phương thức đấu thầu. Có 2 loại đấu thầu: Đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất. Phương thức giao dịch song phương. Là phương thức mà NHTW với người giao dịch giao dịch thẳng với nhau hoặc giao dịch thông qua nhà môi giới hoặc đại lý chứng khoán mà không mua bán thông qua hình thức đấu thầu. Đấu thầu khối lượng. Là việc NHTWcho người giao dịch biết khối lượng cần can thiệp,NHTW mua hay bán, niêm yết trước mức lãi suất, thời hạn các giấy tờ có giá còn lại,laọi giấy tờ,thời điểm và địa điểm mua bán thanh toán. Các tổ chức tham gia đấu thầu chỉ việc đăng ký số tiền trên cơ sở chấp nhận mức lãi suất cho trước. Việc phân phối thầu đối với một phiên thầu có lãi suất cố định được tiến hành như sau: Nếu người giao dịch chấp nhận mức lãi suất ma HNTW đưa ra và họ đặt mức khối lượng giao dịch.Sau đó toàn bộ số đăng ký đặt thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng số đặt thầu nhỏ hơn khối lượng HNTW cần can thiệp thì toàn bộ đơn đặt thầu đều được phân phối.Nếu ngược lại thì phải phân bổ. Đấu thầu lãi suất . Các tổ chức tham gia đấu thầu tự đăng ký số tiền ứng với mức lãi suất mình chọn. Đối với đấu thầu nhằm cung ứng thêm vốn khả dụng, các số lượng đặt thầu được sắp sếp theo thứ tự và được phân phối theo các mức lãi suất cao sẽ được ưu tiên phân phối trước cho đến khi số lượng phân phối được sử dụng hết . Trong đấu thầu lãi suất, NHTW có thể áp dụng dưới hình thức một giá (phương thức Hà Lan) hoặc nhiều giá(phương thức Mỹ) Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở. Tín phiếu kho bạc.(TB) Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là dưới 12 tháng. Đây là công cụ chủ yếu của Nghiệp vụ thị trường mở của hầu hết NHTW các nước vì: -Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao. -Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu cầu can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau. Bộ tài chính là người có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng phát hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu. Tín phiếu kho bạc được phát hành hàng tuần để chi trả các khoản nợ ngắn hạn của chính phủ. Vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn của chính phủ và sự hạn chế tốc độ tăng trưởng của các nhà chức trách tiền tệ. Chứng chỉ tiền gửi. (CD). Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của Ngân hàng hay các định chế tài chính phi ngân hàng, xác nhận món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong một thời gian nhất định với một mức lãi suất định trước. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi thường là ngắn hạn. Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cơ chế quản lý ngân hàng: Chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi tiền. Tình ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là bảo đảm sự lưu thông của nó và do đó nó được sử dụng như là hàng hoá phổ biến cho Nghiệp vụ thị trường mở. Thương phiếu. (CP). Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ xung vốn ngắn hạn. Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu và là tài sản nợ đối với người phát hành thương phiếu. Cơ chế bảo lãnh của ngân hàng làm cho thương phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng trong thanh toán. Việc mua bán thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của các ngân hàng hoặc tiền gửi của các khách hàng tại NHTM. Trái phiếu chính phủ. Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được Nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu chính phủ được sử dụng phổ biến trong Nghiệp vụ thị trường mở bởi tính an toàn, khối lượng phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp đến giá cả trái phiếu kho bạc trên thị trường tài chính. Trái phiếu chính quyền điạ phương. Tương tự như trái phiếu chính phủ, những trái phiếu chính quyền địa phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông thường người sở hữu trái phiếu chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu. Các hợp đồng mua lại. Đây là những món vay ngắn hạn, trong đó tín phiếu kho bạc được sử dụng làm vật đảm bảo cho tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không thanh toán nợ. Hàng hoá trên thị trường mở ngày càng có xu hướng đa dạng hoá, điều này phụ thuộc vào: Một là, do cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên gay gắt, đặc biệt là dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá các hoạt động tài chính và sự xuất hiện nhiều tổ chức cung cấp tài chính mới. Điều này đòi hỏi các tổ chức tài chính phải tìm kiếm các công cụ mới thoả mãn nhu cầu thu hút vốn về các mặt: Thời hạn, mức độ rủi ro, mức sinh lời, cách thức thanh toán nợ. Xu hướng này sẽ có ảnh hưởng đến sự thay đổi cơ cấu hàng hoá trên thị trường mở. Những người tham gia vào Nghiệp vụ thị trường mở. Thị trường mở thực chất là thị trường tiền tệ mở rộng nên các chủ thể tham gia thị trường này rất đông đảo, phong phú với nhiều mục đích khác nhau. Các Ngân hàng thương mại. Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà mức dự trữ ngân quỹ để duy trì khả năng thanh toán, cho vay khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Đồng thời qua thị trường này các NHTM thực hiện nghiệp cụ môi giới và kinh doanh chứng khoán. Các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường mở vì: NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, nhận một số lượng khổng lồ vốn gửi và dùng tiền gửi huy động được để cho khách hàng vay; NHTM là thành viên đặc biệt của thị trường tiền tệ, vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng . Các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm: Các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tưCác tổ chức này coi thị trường mở như là nơi kiếm thu nhập qua việc sử dụng vốn nhàn rỗi để mua, bán các chứng khoán có giá trị ngắn hạn hoặ dài hạn. Các tổ chức này thường có khối lượng chứng khoán lớn và họ thường xuyên thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư nhằm đảm bảo mức sinh lời cao nhất và rủi ro dự tính thấp nhất. Đó là động cơ của họ để tham gia vào Nghiệp vụ thị trường mở. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp có nhu cầu bán chứng khoán để đổi ra tiền mặt hặc để kiếm lời trong thời gian ngắn. Khi thừa vốn kinh doanh các doanh nghiệp có thể mua các loại chứng khoán ngắ hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi để kiếm lời. Các hộ gia đình. Hộ gia đình tham gia thị trường mở như họ phải chuyển các giấy tờ có giá ngắn hạn mà họ đang nắm giữ thành tiền mặt có tính lỏng mạnh nhất, họ mua các chứng khoán phòng ngừa rủi ro bật ngờ, đầu tư vào giấy tờ có giá nhờ vào sự thay đổi lãi suất dự đoán. Các nhà giao dịch chuyên nghiệp. Tham gia vào thị trường mở với tư cách là người trung gian trong việc mua bán các chứng từ có giá trị giữa NHTW và các đối tác khác như các hãng sản xuất kinh doanh; các nhà đầu tư tư nhân; các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng. Qua nghiệp vụ này họ hưởng chênh lệch giữa giá mua, giá bán. Ngân hàng Trung Ương. NHTW tham gia thị trường mở với vị trí là người điều hành, quản lý thị trường thông qua việc mua, bán các giấy tờ có giá trị ngắn hạn nhằm cung cấp cho hệ thống ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết phù hợp với nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. NHTW sử dụng Nghiệp vụ thị trường mở trên cơ sở hoạch định chính sách tiền tệ. Qua đó NHTW quản lý khối lượng tiền cung ứng kiểm soát và điều tiết hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. NHTW tham gia thị trường mở không phải để kinh doanh mà để quản lý, chi phối thị trường làm cho chính sách tiền tệ được thực hiện theo đúng mục tiêu của nó. Kho bạc Nhà nước. Kho bạc Nhà nước cung ứng hàng hoá cho thị trường mở như tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Kho bạc cung cấp hàng hoá và kết hợp với NHTW trong hoạt động của thị trường mở. https://sites.google.com/site/thitrgtc/cau-7-cac-cong-cu-cua-tt-tien-te-tttt-va-phan-biet-giua-cac-cong-cu Câu 7 : Các công cụ của TT tiền tệ (TTTT) và phân biệt giũa các công cụ TTTT là là thị trường vốn ngắn hạn là nơi mua bán trao đổi các công cụ tài sản ngắn hạn 1)Tín phiếu kho bạc - TP kho bạc là loại chứng nhận nợ ngắn hạn của chính phủ do kho bạc nhà nước phát hành nhằm bù đắ thiếu hụt tạm thời of NSNN và tạo thêm công cụ cho TTTT  - Mục đích of việc phát hành các chứng từ cho ta biết thế nào là thâm hụt tạm thời of NSNN, tạo thêm công cụ cho TTTT - TP kho bạc được phát hành dưới hình thức chiết khấu:TP kho bạc không trả lãi và được bán ở mức chiết khấu so với mênh giá và được kho bạc chuộc lại với đầy đủ mệnh giá khii đến hạn  Thời hạn của TP kho bạc thường ngắn cỏ thể 3 tháng, 6 tháng , 1 năm - Khi bán với mức chiết khấu thì chung ta sẽ XĐ được + Giá TP kho bạc,viêc xđ giá TP kho bạc tùy thuộc đó là TT sơ cấp, hay thị trường thứ cấp  + Lợi suất đầu tư TP: KHi đầu tư TP đem lại lợi nhuận là bnhieu? + Giá bán lại TP theo thời gian + Giá bán từ khi mua tới khi bán - Hình thức mua bán Tp  + TP kho bạc có thể phát hành tới tận tay nhà đầu tư or hình thức phổ biến là kho bạc bán luôn cho NHTW sau đó NHTW bán lại cho nhà đầu tư mà chủ yếu là bán cho các NHTM ¬+ TP kho bạc là một trong những hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường TT vì nó có độ tin cậy cao và độ lỏng cao 2)Tín phiếu NHTW - Là loại công cụ nợ do NHTW phát hành với mđ là hút tiền về nhằm thắt chặt chính sách tiền tệ 3) Chứng chỉ tiền gửi - Là loại công cụ nợ do NHTM phát hành để huy động vốn cam kết trả lãi định kỳ cho khoản tiền gửi và sẽ hoàn trả vốn gốc cho người gửi tiền đi đến ngày đáo hạn 4) Chấp nhận của NH  - Chấp nhận của NH là giấy đảm bảo rằng NH sẽ thanh toán về điều kiện số tiền mà người nhập khẩu còn thiếu đối với người xuất khẩu vào một ngày nào đó xđ trong tương lai - Chấp nhận của NH thường được sử dụng trong giao dịch thương mại quốc tế thực ra đây chính là hối phiếu phát sinh trong quan hệ mua bán trả chậm giữa các dn xuất nhập khẩu được NH chấp nhận thanh toán  - NHTM thay mặt nhà nhập khẩu chấp nhận hối phiếu do nhà xuất khẩu ký phát bằng cách đóng dấu  5) Thương phiếu  - Thương phiếu là loại giấy nhận nợ xđ quyền đòi nợ của chủ sở hữu thương phiếu và nghĩa vụ phải hoàn trả của người mua khi đến hạn - Đặc điểm của thương phiếu : + Có tính trừu tượng + Có tính lưu thông : TP có thể chuyển nhượng từ người này sang người khác - Các loại thương phiếu : + Căn cứ vào chủ thể lập thương phiếu có 2 loại : . Hối phiếu : Là thương phiếu do chủ nợ lập đẻ ra lệnh cho người thiếu nợ trả 1 số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn  . Lệnh phiếu :Là thư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctltk_tra_loi_cau_hoi_on_tap_lttctt_4598.doc