Giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản

Cách đây vừa đúng 160 năm, ngày 24 tháng 2 năm 1848, tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” do Mác và Ăng ghen soạn thảo đã được xuất bản ở Luân Đôn - thủ đô nước Anh, một trong những cái nôi của chủ nghĩa tư bản.

Tuyên ngôn đã chứng tỏ sức mạnh vĩ đại của tư tưởng - lý luận tiên tiến, vạch thời đại của thế giới quan khoa học và cách mạng, ở chỗ không chỉ giải thích thế giới một cách khoa học mà còn cải tạo thế giới đó bằng cách mạng. Những nguyên lý C.Mác và Ăngghen trình bày trong tác phẩm này là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác bao gồm 3 bộ phận hợp thành là triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Tuyên ngôn là ngọn cờ tư tưởng dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng loài người vĩnh viễn thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột giai cấp, bảo đảm cho loài người được thực sự sống trong hòa bình, tự do và hạnh phúc. Những tư tưởng khoa học, cách mạng vạch thời đại trong Tuyên ngôn có giá trị tổ chức, cổ vũ, động viên lớn lao đối với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

Trước hết, những giá trị khoa học của Tuyên ngôn thể hiện qua những nguyên lý cách mạng của chủ nghĩa xã hội khoa học, trở thành kim chỉ nam hành động cho các Đảng cộng sản sau này.

Một là, Tuyên ngôn đã vạch rõ, từ khi lịch sử xã hội loài người đã phân chia giai cấp, đã xuất hiện những đối kháng giai cấp thì đấu tranh giai cấp là một trong những động lực của lịch sử. Tuyên ngôn viết: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả phường hội và thợ bạn, nói tóm lại những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn đối kháng với nhau đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau”(1) .Các cuộc đấu tranh này là sự phản ánh về mặt xã hội của sự vận động kinh tế và sản xuất để giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong các thời đại lịch sử khác nhau. Với tư tưởng này, Tuyên ngôn đã thể hiện quan điểm duy vật về lịch sử. Đó là việc thể hiện quan điểm duy vật triệt để trong việc nhận thức xã hội. Bằng sự phân tích quá trình phát triển kinh tế qua các thời đại lịch sử, Mác và Ăng ghen đã chỉ rõ nguyên nhân cuối cùng của mọi sự biến đổi xã hội chính là bắt nguồn từ sự thay đổi trong đời sống vật chất. Điều đó có nghĩa là, mọi sự thay đổi trong đời sống tinh thần không thể tìm nguyên nhân từ bản thân nó mà phải giải thích và tìm cội nguồn từ sự thay đổi của đời sống kinh tế, và muốn thay đổi ý thức, đời sống tinh thần thì phải cải tạo, biến đổi đời sống vật chất đã sinh ra nó.

Thứ hai, Tuyên ngôn đã luận chứng cho vai trò cách mạng mang tính lịch sử thế giới của giai cấp vô sản trong việc lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự ra đời của giai cấp vô sản được Tuyên ngôn chỉ rõ, đó là do nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại, cạnh tranh tự do đã đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống trị về kinh tế và chính trị. Song nền sản xuất đại công nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản đã tạo ra lực lượng xã hội ngày càng mạnh mẽ để chống lại chính chủ nghĩa tư bản, đó là giai cấp vô sản. “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình mà nó còn tạo ra những người sử dụng những vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”(2). Trong sự phân tích của Mác-Ăng ghen, giai cấp vô sản sở dĩ thực sự là một giai cấp cách mạng bởi nó đại diện và tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới, tiên tiến của toàn xã hội, cho một phương thức sản xuất tiên tiến của lịch sử, nó đại biểu cho xu thế, triển vọng của tương lai. Nó không có lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu. Nó đại biểu cho lợi ích của toàn xã hội. Giai cấp vô sản tìm thấy lợi ích chân chính của mình khi đấu tranh cho lợi ích của toàn xã hội. Chỉ bởi điều đó mà giai cấp vô sản mang được một phẩm chất cao quý là triệt để cách mạng, cùng với tinh thần quốc tế cao cả, phấn đấu cho lợi ích chung, không chỉ giải phóng mình mà cho toàn thể loài người, xóa bỏ sự thống trị, nô dịch của chủ nghĩa tư bản không chỉ trong phạm vi dân tộc mà trên toàn thế giới. Đại công nghiệp đã rèn cho giai cấp vô sản những đức tính tổ chức và kỷ luật để thực thi sứ mệnh lịch sử của nó.

 

doc10 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1230 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" Tác giả : Th.s. Nguyễn Văn Thành - P.Trưởng khoa Kinh tế File đính kèm: Không có      Cách đây vừa đúng 160 năm, ngày 24 tháng 2 năm 1848, tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” do Mác và Ăng ghen soạn thảo đã được xuất bản ở Luân Đôn - thủ đô nước Anh, một trong những cái nôi của chủ nghĩa tư bản.      Tuyên ngôn đã chứng tỏ sức mạnh vĩ đại của tư tưởng - lý luận tiên tiến, vạch thời đại của thế giới quan khoa học và cách mạng, ở chỗ không chỉ giải thích thế giới một cách khoa học mà còn cải tạo thế giới đó bằng cách mạng. Những nguyên lý C.Mác và Ăngghen trình bày trong tác phẩm này là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác bao gồm 3 bộ phận hợp thành là triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Tuyên ngôn là ngọn cờ tư tưởng dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng loài người vĩnh viễn thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột giai cấp, bảo đảm cho loài người được thực sự sống trong hòa bình, tự do và hạnh phúc. Những tư tưởng khoa học, cách mạng vạch thời đại trong Tuyên ngôn có giá trị tổ chức, cổ vũ, động viên lớn lao đối với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.      Trước hết, những giá trị khoa học của Tuyên ngôn thể hiện qua những nguyên lý cách mạng của chủ nghĩa xã hội khoa học, trở thành kim chỉ nam hành động cho các Đảng cộng sản sau này.      Một là, Tuyên ngôn đã vạch rõ, từ khi lịch sử xã hội loài người đã phân chia giai cấp, đã xuất hiện những đối kháng giai cấp thì đấu tranh giai cấp là một trong những động lực của lịch sử. Tuyên ngôn viết: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả phường hội và thợ bạn, nói tóm lại những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn đối kháng với nhau đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau”(1) .Các cuộc đấu tranh này là sự phản ánh về mặt xã hội của sự vận động kinh tế và sản xuất để giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong các thời đại lịch sử khác nhau. Với tư tưởng này, Tuyên ngôn đã thể hiện quan điểm duy vật về lịch sử. Đó là việc thể hiện quan điểm duy vật triệt để trong việc nhận thức xã hội. Bằng sự phân tích quá trình phát triển kinh tế qua các thời đại lịch sử, Mác và Ăng ghen đã chỉ rõ nguyên nhân cuối cùng của mọi sự biến đổi xã hội chính là bắt nguồn từ sự thay đổi trong đời sống vật chất. Điều đó có nghĩa là, mọi sự thay đổi trong đời sống tinh thần không thể tìm nguyên nhân từ bản thân nó mà phải giải thích và tìm cội nguồn từ sự thay đổi của đời sống kinh tế, và muốn thay đổi ý thức, đời sống tinh thần thì phải cải tạo, biến đổi đời sống vật chất đã sinh ra nó.      Thứ hai, Tuyên ngôn đã luận chứng cho vai trò cách mạng mang tính lịch sử thế giới của giai cấp vô sản trong việc lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự ra đời của giai cấp vô sản được Tuyên ngôn chỉ rõ, đó là do nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại, cạnh tranh tự do đã đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống trị về kinh tế và chính trị. Song nền sản xuất đại công nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản đã tạo ra lực lượng xã hội ngày càng mạnh mẽ để chống lại chính chủ nghĩa tư bản, đó là giai cấp vô sản. “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình mà nó còn tạo ra những người sử dụng những vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”(2). Trong sự phân tích của Mác-Ăng ghen, giai cấp vô sản sở dĩ thực sự là một giai cấp cách mạng bởi nó đại diện và tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới, tiên tiến của toàn xã hội, cho một phương thức sản xuất tiên tiến của lịch sử, nó đại biểu cho xu thế, triển vọng của tương lai. Nó không có lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu. Nó đại biểu cho lợi ích của toàn xã hội. Giai cấp vô sản tìm thấy lợi ích chân chính của mình khi đấu tranh cho lợi ích của toàn xã hội. Chỉ bởi điều đó mà giai cấp vô sản mang được một phẩm chất cao quý là triệt để cách mạng, cùng với tinh thần quốc tế cao cả, phấn đấu cho lợi ích chung, không chỉ giải phóng mình mà cho toàn thể loài người, xóa bỏ sự thống trị, nô dịch của chủ nghĩa tư bản không chỉ trong phạm vi dân tộc mà trên toàn thế giới. Đại công nghiệp đã rèn cho giai cấp vô sản những đức tính tổ chức và kỷ luật để thực thi sứ mệnh lịch sử của nó.     Thứ ba, Tuyên ngôn đã vạch rõ con đường đấu tranh của giai cấp vô sản. Để đấu tranh giành thắng lợi thì giai cấp vô sản cần có một Đảng thực sự sáng suốt về mặt tư tưởng cho cuộc đấu tranh của mình. Đảng tập hợp trong hàng ngũ của mình những người ưu tú nhất của giai cấp vô sản. Đảng đi đầu quần chúng vô sản trong đấu tranh. Sự ra đời của Đảng cộng sản là tất yếu để đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử. Mác - Ăng ghen đã vạch rõ mục tiêu của giai cấp vô sản và Đảng của nó là tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền, trở thành một giai cấp thống trị, tức là nắm chính quyền để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Nhưng Đảng cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, Đảng là một bộ phận gắn liền với giai cấp. Lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích giai cấp, mục đích của Đảng là mục đích của giai cấp, Đảng là đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản. Kết quả của phong trào vô sản không dừng lại ở sự ra đời của chính Đảng mà còn biểu hiện ở chỗ giai cấp vô sản biết hành động theo sự lãnh đạo của Đảng. Con đường phát huy sức mạnh của Đảng cộng sản trước hết phải giữ vững và cũng cố mối liên hệ giữa Đảng và giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Tuyên ngôn đã đưa ra một nhận định sắc bén và đầy tinh thần lạc quan cách mạng: “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau” (3).     Thứ tư, Tuyên ngôn chỉ rõ giai cấp vô sản chỉ có thể đạt được mục đích bằng con đường đấu tranh giai cấp, dùng bạo lực cách mạng để lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, bởi trong cuộc cách mạng ấy, những người cộng sản nếu mất chỉ là mất xiềng xích, còn được thì được cả thế giới. Nhiệm vụ nặng nề mà giai cấp vô sản phải thực hiện sau khi giành được chính quyền là từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh vực vì quyền lợi của nhân dân lao động. Nguyên tắc sách lược chung của Đảng cộng sản là ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống chế độ tư sản đương thời và tập hợp  các lực lượng dân chủ nhưng những người cộng sản phải luôn giữ vững tính độc lập của giai cấp mình.      Thứ năm, để đập tan luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản của giai cấp tư sản, Tuyên ngôn đã khẳng định và bảo vệ một loạt những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản. “Lý luận của những người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra.” (4). Mà lý luận của những người cộng sản là sự phản ánh hiện thực khách quan của phong trào vô sản.     Trong vấn đề sở hữu, Tuyên ngôn đã chỉ rõ, đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản là xóa bỏ sở hữu tư sản. Giai cấp tư sản đã xuyên tạc rằng những người cộng sản xóa bỏ cái riêng của cá nhân, tức là xóa bỏ sở hữu do cá nhân của mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá nhân, sở hữu mà người ta bảo là cơ sở của mọi tự do, mọi hoạt động và mọi sự độc lập của cá nhân. Tuyên ngôn đã giải thich rằng tư bản không phải là lực lượng cá nhân, nó là lực lượng xã hội, nó chỉ có thể vận động được là nhờ sự hoạt động chung của nhiều người. Người sở hữu thì không lao động, người lao động thì không được quyền sở hữu, xã hội vận động trong hai cực đối lập ấy, chỉ có xóa bỏ chế độ tư hữu mới giải quyết được sự  đối lập trong xã hội. Điều đó có nghĩa là xóa bỏ tư hữu ở đây không phải là xóa bỏ sở hữu mang tính chất cá nhân mà là xóa bỏ tư hữu về tư bản. Vì tư hữu tư bản là cơ sở để bóc lột sức  lao động của người khác. “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác.” Ở nước ta hiện nay mục tiêu vẫn là xóa bỏ tư hữu tư bản, xác lập chế độ công hữu để xóa bỏ áp bức bóc lột nhưng trong điều kiện lực lượng sản xuất đang ở trình độ chưa cao, chúng ta còn phải chấp nhận còn tồn tại hình thức sơ hữu tư nhân bằng thừa nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Về sau, khi lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao, nước ta sẽ từng bước xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.      Tuyên ngôn cũng đã trình bày rõ vấn đề dân tộc và quốc tế. Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản nắm quyền đại diện cho tổ quóc, dân tộc. Lợi ích của tổ quốc, dân tộc cơ bản vẫn là lợi ích của giai cấp tư sản. Vì vậy, giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc.      Hai là, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là tác phẩm có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối vơi cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Chỉ vài thập niên sau khi Tuyên ngôn ra đời, công xã Pari bùng nổ và đứng vững hơn 70 ngày. 70 năm sau thời điểm Mác - Ăng ghen khởi thảo Tuyên ngôn, cách mạng tháng 10 năm 1917 đã giành thắng lợi tại nước Nga, mở ra thời đại mới, thời kỳ quá độ từ chủ ngfhĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Hiện nay, sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là tổn thất vô cùng nặng nề, nhưng đó không phải là sự “cáo chung của CNXH”, nó chỉ càng làm nổi bật hậu quả của một loạt mô hình duy trì quá lâu những khiếm khuyết, biến dạng đã dẫn chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào trì trệ, khủng hoảng.      Thực tiễn của Việt Nam, Trung Quốc và một số nước khác hiện nay vẫn đang vững bước trên con đường xây dựng CNXH, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới cải cách, mở rộng giao lưu hội nhập và hợp tác quốc tế chính là bằng chứng sinh động, vững chắc khẳng định tính chân lý của chủ nghĩa Mác được thể hiện trong tuyên ngôn.      Xu hướng toàn cầu hóa đã được dự báo trong tuyên ngôn. “Nền đại công nghiệp đã xây dựng nên thị trường thế giới vốn được chuẩn bị từ khi phát hiện ra châu Mỹ”, “Vì luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp hoàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ khắp nơi”(5) . Toàn cầu hóa rõ ràng là gắn liền với chủ nghĩa tư bản và hiện nay cũng đang bị chủ nghĩa tư bản chi phối lợi dụng để phục vụ cho mục đích của họ, hay nói cách khác, toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đang đi trong quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Đứng trước tình hình đó, Đảng ta đưa ra chủ trương chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đảng ta xác định: chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa chính là sự vận dụng đúng đắn quy luật phát triển kinh tế – xã hội, khắc phục tối đa mặt trái của cơ chế thị trường, tạo dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh, tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện công bằng xã hội, xây dựng một xã hội công bằng dân chủ văn minh, mọi người lao động đều được hưởng những giá trị vật chất và tinh thần do mình tạo ra, toàn xã hội quan tâm đến xóa đói giảm nghèo.      Ngày nay, do phải đối mặt với CNXH hiện thực, phải đối phó với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên dù bản chất áp bức, bóc lột tàn bạo không thay đổi nhưng chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có sự điều chỉnh. Sự điều chỉnh này làm cho nhiều người lầm tưởng bản chất của chủ nghĩa tư bản đã thay đổi như việc quan tâm đến người thất nghiệp, cho công nhân mua cổ phần, phát triển phúc lợi xã hội... Nhưng thực chất đó là việc trích một phần nhỏ giá trị thặng dư mà chủ nghĩa tư bản bóc lột được để nhằm xoa dịu đấu tranh giai cấp, bảo vệ cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Ngay cuối năm 2007, ở nước Mỹ với dân số 301 triệu người thì vẫn có đến 35 triệu người đói, 11 triệu người không biết đọc, tội phạm gia tăng, tỷ lệ tù nhân trên đầu người cao nhất thế giới. Trong khi đó chính phủ Mỹ đã chi cho 2 cuộc chiến tranh I Rắc và Apganixtan lên đến 700 tỷ USD (Báo Nhân dân ngay 6/1/2008). Như vậy, bản chất của chủ nghĩa tư bản như đã trình bày trong tuyên ngôn đó là bản chất bóc lột - do chế độ tư hữu quy định, vẫn không hề thay đổi. Giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản luôn chạy theo lợi nhuận, nó không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào  khác, ngoài lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo múc” không tình, không nghĩa. Vì vậy, tuyên ngôn đã đặt ra nhiệm vụ cho giai cấp vô sản là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và không chỉ giải phóng mình mà cho toàn thể loài người thoát khỏi áp bức bóc lột. Tuyên ngôn nêu lên mục tiêu, bản chất của xã hội tương lai là sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do và toàn diện của tất cả mọi người.      Tóm lại, sự ra đời của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đánh dấu sự ra đời và chín muồi của chủ nghĩa Mác. Giá trị, sức sống bền vững của tuyên ngôn phản ánh giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác. Giá trị, sức sống đó đã được thực tiễn cách mạng thế giới kiểm chứng qua nhiều lần thử thách nghiệt ngã. Giá trị, sức sống và ý nghĩa thời đại của bản Tuyên ngôn vẫn được khẳng định bằng thực tiễn cách mạng ở các nước xã hội chủ nghĩa. Công cuộc cải cách, đổi mới với nhiều thành tựu của Trung Quốc, Việt Nam, sự đứng vững của nước Cu ba XHCN trước sự bao vây cấm vận của đế quốc Mỹ, các phong trào cánh tả ở Châu Mỹ la tinh với khẩu hiệu “CNXH thế kỷ XXI”...  là những minh chứng về tác động và ý nghĩa thực tiễn của tuyên ngôn của Đảng cộng sản.      Tuyên ngôn của Đảng cộng sản luôn đồng hành với Đảng và cách mạng Việt Nam. Tư tưởng khoa học và phương pháp cách mạng của tuyên ngôn đã được Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo trong những năm đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Giá trị khoa học của Tuyên ngôn trước hết giúp Đảng có được cơ sở lý luận và phương pháp luận đúng đắn trong phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm làm sáng tỏ hơn về CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.      160 năm là quãng thời gian dài so với đời của một con người, nhưng lại là ngắn so với lịch sử tiến hóa của nhân loại. Vượt qua thời gian của lịch sử, những giá trị của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là bất diệt, là mặt trời, là ngọn đèn soi sáng con đường cách mạng Việt Nam đi tới tương lai ./. Những cống hiến lớn lao của Ph. Ăng-ghen vào lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị và tính thời sự đối với công cuộc đổi mới của đất nước ta, đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, tăng cường vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay. Khi đánh giá công lao to lớn của Ph. Ăng-ghen đối với phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản thế giới, V.I. Lê-nin viết: “Sau bạn ông là Các Mác, Ăng-ghen là nhà bác học và người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh. Từ ngày mà vận mệnh đã gắn liền Các Mác và Phri-đrích Ăng-ghen thì sự nghiệp suốt đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ. Cho nên muốn hiểu Phri-đrích Ăng-ghen đã làm gì cho giai cấp vô sản thì phải nhận rõ ý nghĩa của học thuyết và hoạt động của Mác đối với sự phát triển của phong trào công nhân hiện đại”.(1) Mặc dù Ph. Ăng-ghen rất khiêm tốn, luôn luôn tự nhận mình là “cây vĩ cầm thứ hai” bên cạnh C. Mác, luôn khẳng định vai trò sáng lập hàng đầu thuộc về C. Mác, song qua lịch sử hình thành chủ nghĩa Mác, chúng ta đều nhận thấy những đóng góp to lớn, dấu ấn không thể nào phai của Ph.Ăng-ghen. C. Mác đánh giá Ph. Ăng-ghen là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa xã hội hiện đại, còn V.I. Lê-nin thì khẳng định: “Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ăng-ghen”.(2) Chúng ta đều biết rằng chủ nghĩa Mác là một hệ thống hoàn chỉnh, toàn vẹn và chặt chẽ bao gồm ba bộ phận cấu thành không thể tách rời: triết học mác-xít mà nội dung của nó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kinh tế chính trị học mà nền tảng là học thuyết giá trị thặng dư, và chủ nghĩa xã hội khoa học. Với hai phát hiện khoa học vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư và với vai trò tổ chức, giáo dục phong trào công nhân quốc tế, cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội khoa học với tính cách là học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng loài người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột và tha hóa của chủ nghĩa tư bản. Học thuyết do C. Mác và Ph. Ăng-ghen sáng lập là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng. Các ông đã vạch rõ sự phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nêu lên những mặt tiến bộ, đồng thời cũng vạch rõ những khuyết tật và mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Phù hợp với lý thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, coi sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên, Ph. Ăng-ghen cho rằng, chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bởi một phương thức sản xuất mới, cao hơn, tiến bộ hơn, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Ph. Ăng-ghen đã đóng góp quan trọng trong việc nhận thức đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy, lý luận của chủ nghĩa Mác trở thành vũ khí sắc bén, ngọn đuốc soi đường cho phong trào đấu tranh giai cấp công nhân giành thắng lợi, đưa phong trào công nhân từ đấu tranh tự phát đến tự giác, từ “giai cấp tự mình” đến “giai cấp cho mình”. Có thể khẳng định việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phát kiến vĩ đại thứ ba cùng với hai phát kiến vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, càng làm cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học. Theo Ph. Ăng-ghen, giai cấp công nhân có 2 đặc điểm cơ bản là: 1- Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, giai cấp công nhân là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính công nghiệp ngày càng hiện đại trong nền sản xuất mang tính xã hội hóa cao. Giai cấp công nhân là giai cấp lao động chủ yếu trong nền sản xuất hiện đại; 2 - Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân phải bán sức lao động cho các nhà tư bản và bị tư bản bóc lột về giá trị thăng dư vì họ không có tư liệu sản xuất. Ông khẳng định: Người lao động hoặc công nhân (working men) và người vô sản; giai cấp công nhân, giai cấp không có của, giai cấp vô sản như những từ đồng nghĩa. Mặc dù là giai cấp lao động chủ yếu trong nền sản xuất hiện đại, là “lực lượng sản xuất hàng đầu” như V.I. Lê-nin khẳng định, giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa không những về đời sống vật chất (tiền công thấp, chỉ đủ tái sản xuất sức lao động, điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, tình trạng thất nghiệp, vấn đề nhà ở khó khăn, việc sử dụng lao động nữ và trẻ em không phù hợp) mà cả về đời sống tinh thần như tình trạng thất học, không có điều kiện tham gia các hoạt động văn hóa, tinh thần. Từ thực tế này trong quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản, Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là: “Sản xuất đã trở thành một hành vi xã hội; trao đổi và cùng với trao đổi là sự chiếm hữu, vẫn là những hành vi cá nhân, hành vi của những người riêng biệt: sản phẩm của lao động xã hội bị nhà tư bản cá thể chiếm hữu. Đó là mâu thuẫn cơ bản, từ đó nảy sinh ra tất cả những mâu thuẫn trong đó xã hội hiện nay đang vận động, những mâu thuẫn mà đại công nghiệp đang làm cho thấy đặc biệt rõ: Tách người sản xuất khỏi tư liệu sản xuất. Giam hãm người lao động vào trong chế độ lao động làm thuê suốt đời. Sự đối lập giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”(3). Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động được hình thành và phát triển gắn với nền sản xuất công nghiệp hiện đại, có trình độ xã hội hóa ngày càng cao, đại biểu cho lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại hiện nay, đó là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp của xã hội. Giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo và tổ chức tiến trình cách mạng vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, như Ph. Ăng-ghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do những điều kiện khách quan quy định”. Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp, giai cấp công nhân cũng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Khi chủ nghĩa Mác xâm nhập phong trào công nhân, sự kết hợp này đã dẫn đến sự ra đời của đảng cộng sản. Lúc này, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chuyển từ tự phát sang tự giác, từ đấu tranh kinh tế chuyển sang đấu tranh chính trị. Ph. Ăng-ghen nhấn mạnh, trong cuộc đấu tranh chống lại quyền lực liên hiệp của giai cấp hữu sản, chỉ khi giai cấp vô sản tự tổ chức được thành một đảng độc lập với tất cả chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập ra thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp độc lập được. Như vậy đảng cộng sản là yếu tố quyết định để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Chính V.I. Lê-nin xuất phát từ thực tiễn nước Nga đã tổng kết: Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản thu được. C. Mác và Ph. Ăng-ghen giả định, chủ nghĩa xã hội ra đời từ xã hội tư bản phát triển trình độ cao, điều này phù hợp với lý luận về hình thái kinh tế - xã hội coi sự phát triển của xã hội loài người như một quá trình lịch sử - tự nhiên. Nhiệm vụ khoa học của hai ông không phải vạch ra mô hình của chủ nghĩa xã hội với mọi chi tiết của nó, đúng như V.I. Lê-nin đã khẳng định “Trong tài liệu của Mác, người ta không thấy mảy may một ý định nào nhằm bịa ra những ảo tưởng, nhằm đặt ra những dự đoán vu vơ về những điều mà người ta không thể nào biết được. Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học đặt, chẳng hạn, vấn đề tiến hóa của một giống sinh vật mới, một khi đã biết nguồn gốc của nó và định được rõ rệt hướng của những biến đổi của nó”(4). Còn C. Mác và Ph. Ăng-ghen luôn nhấn mạnh quan điểm “chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo” mà là “một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại”. Cái “trạng thái hiện nay”, theo Ăng-ghen bao gồm: Thứ nhất, là đối kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Thứ hai, là tình trạng vô chính phủ trong sản xuất, kết quả của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã phân tích hết sức khoa học sự phát triển của xã hội mới, dự báo một cách thiên tài hai giai đoạn phát triển của xã hội cộng sản, với giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội, mà về mọi phương diện nó còn mang những tì vết của chủ nghĩa tư bản, chẳng hạn dấu vết của pháp quyền tư sản thể hiện trong nguyên tắc phân phối theo lao động. Do vậy, trong giai đoạn này vẫn phải thực hiện nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, đến giai đoạn sau khi lượng sản xuất đã phát triển tới trình độ cao, các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội đã chín muồi mới đủ điều kiện để thực hiện nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Ph. Ăng-ghen đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Muốn đối xử với chủ nghĩa xã hội như là một học thuyết khoa học, cần phải đặt nó trên một mảnh đất hiện thực. Trong tác phẩm Chống Đuy-rinh, khi phê phán Đuy-rinh đã có thái độ phủ định sạch trơn đối với tư tưởng của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng như Xanh-xi-mông, Phu-ri-ê, Ô-oen, Ph. Ăng-ghen khẳng định: những ý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng là sự phản ánh chưa trưởng thành của chủ nghĩa tư bản và chỉ ra nguyên nhân của sự chưa chín muồi những ý tưởng về chủ nghĩa xã hội không tưởng "Tương ứng với một trạng thái chưa trưởng thành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, với những quan hệ giai cấp chưa trưởng thành, là những lý luận chưa trưởng thành. Việc giải quyết những nhiệm vụ xã hội còn ẩn giấu trong những quan hệ kinh tế chưa phát triển"(5). Ph. Ăng-ghen chỉ ra rằng, về nội dung th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docgia_tri_khoa_hoc_va_y_nghia_thuc_tien_cua_tac_pham_136.doc
Tài liệu liên quan