Giáo trình tài chính học

Giáo trình tài chính học được biên soạn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn mới về tài chính của kinh tế thị trường trong nước và quốc tế để người học và người đọc dễ hình dung những vấn đề tài chính của nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển, mở cửa và hội nhập.

Giáo trình tài chính học được biên soạn nhằm cung cấp những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính, hệ thống tài chính, thị trường tài chính và những nội dung chủ yếu ở các lĩnh vực khác nhau của hoạt động tài chính như: Ngân sách nhà nước, bảo hiểm, tín dụng, tài chính doanh nghiệp, tài chính quốc tế. Qua đó giúp cho người học và người đọc có phương pháp tiếp cận dễ dàng về vấn đề lý thuyết và thực tiễn mới về tài chính của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang trong quá trình phát triển, mở cửa và hội nhập. Đồng thời giúp cho người học có nền tảng kiến thức cơ sở để tiếp cận học các môn học thuộc chuyên ngành kinh tế.

 

doc231 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1142 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình tài chính học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
qui định cụ thể về đối tượng tham gia, điều kiện hưởng chế độ, thu chi mỗi quỹ tương ứng Câu hỏi chương 4 1. Trình bày sự cần thiết của hoạt động bảo hiểm? 2. Nêu các đặc điểm của bảo hiểm? 3. Trình bày các vai trò của bảo hiểm trong nền kinh tế? 4. Phân biệt những nét cơ bản giữa bảo hiểm kinh doanh và bảo hiểm phi kinh doanh? 5. Phân tích các vai trò của bảo hiểm xã hội đối với người lao động? Chương V THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH I. Những vấn đề cơ bản về thị trường tài chính 1. Sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính Cơ sở hình thành thị trường tài chính xuất phát từ yêu cầu khách quan của sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Sự phát triển của nền kinh tế, hàng hoá tiền tệ ngày càng cao, xuất hiện nguồn cung và cầu về vốn lớn và thường xuyên để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Sự kết nối giữa cung và cầu về vốn được thực hiện dưới nhiều hình thức. Hình thức thứ nhất: Quan hệ vay mượn trực tiếp. Đây là hình thức đơn giản nhất cũng tồn tại lâu đời nhất là những quan hệ vay mượn trực tiếp giữa các tầng lớp dân cư hoặc quan hệ tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp. Với hình thức này thì quy mô vốn vận động không lớn và phạm vi điều tiết vốn không rộng vì chủ yếu diễn ra trên cơ sở quen biết và tín nhiệm giữa hai chủ thể trong quan hệ tín dụng. Hình thức thứ hai: Sự ra đời và phát triển của các tổ chức tài chính trung gian như ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các công ty tài chính... Hoạt động của các tổ chức này thực sự là nhịp cầu giao lưu giữa cung và cầu vốn. Với sự phát triển nền kinh tế hàng hoá, các ngân hàng đã mở rộng quy mô hoạt động với số lượng chi nhánh ngày càng gia tăng và trở thành trung tâm tín dụng của nền kinh tế. Sự xuất hiện các tổ chức tài chính trung gian đã giúp cung và cầu về vốn trong nền kinh tế gặp nhau dễ dàng hơn, thúc đẩy việc luân chuyển vốn nhanh chóng hơn. Chủ thể cung ứng nguồn tài chính có được địa chỉ tin cậy để gửi tiền nhàn rỗi của mình. Chủ thể cần nguồn tài chính biết được chỗ để vay. Bên cạnh đó hình thức này còn có những hạn chế nhất định. Đứng trên góc độ người có nguồn vốn nhàn rỗi thì việc bỏ vốn vào ngân hàng để được hưởng lãi chỉ phù hợp với những người muốn an toàn cho nguồn vốn tiết kiệm. Tuy nhiên, lãi suất ngân hàng không phải luôn luôn hấp dẫn người có tiền gửi tiền vào ngân hàng. Trong nhiều trường hợp, việc gửi tiền vào, rút tiền ra là phiền hà, phức tạp, khó khăn trong khi lãi suất lại không đáng kể. Vì vậy, đối với một số nhà đầu tư thì việc gửi tiền thông qua ngân hàng trở nên đơn điệu và hạn hẹp về phạm vi lựa chọn phương án cho vay, bởi họ không biết một cách chính xác đồng vốn của họ đã được đầu tư trong lĩnh vực nào của nền kinh tế. Đứng trên góc độ người cần vốn thì bị giới hạn phạm vi lựa chọn phương án cho vay của chủ thể cung ứng nguồn tài chính; người cần nguồn tài chính cũng không phải luôn luôn dễ dàng vay vốn của ngân hàng, nhất là khi thực hiện các phương án đầu tư có sự rủi ro và mạo hiểm cao. - Hình thức thứ ba: Thông qua phát hành các chứng từ có giá (cổ phiếu, trái phiếu). Hình thức này được phát triển khi mà các chủ thể cung ứng vốn không muốn đầu tư thông qua tổ chức trung gian. Họ muốn chủ động tìm kiếm nguồn vốn đầu tư thông qua phát hành các chứng từ có giá. Phát triển sớm nhất là các tờ công trái do ngân hàng Nhà nước phát hành để huy động vốn nhằm thoả mãn nhu cầu chi và sau này khi các doanh nghiệp cần vốn đầu tư thì các loại cổ phiếu, trái phiếu ra đời ngày càng nhiều trong nền kinh tế. Sự có mặt của các giấy tờ có giá đã thu hút được sự quan tâm của giới đầu tư. Vì sự đa dạng, phong phú về chủng loại của các giấy tờ có giá mà bản thân nó còn giúp nhà đầu tư sẽ biết chính xác đường đi đồng vốn của mình đầu tư ở đâu, thời gian nào. Bên cạnh đó, giấy tờ có giá còn có đặc điểm có thể thực hiện chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường nên nhà đầu tư cảm thấy họ không bị bó buộc trong một phạm vi may rủi hạn hẹp. Khi nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển, nhiều hình thức huy động vốn mới linh hoạt hơn nảy sinh và phát triển, góp phần tốt hơn vào việc giải quyết cân đối giữa cung và cầu về các nguồn lực tài chính trong xã hội, làm xuất hiện các công cụ huy động vốn là các giấy tờ ghi nợ dưới các dạng khác nhau: doanh nghiệp phát hành trái phiếu, thương phiếu; Nhà nước phát hành công trái, trái phiếu công trình..., đặc biệt các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu để tạo lập, bổ sung vốn kinh doanh. Các giấy ghi nợ và cổ phiếu đều là giấy tờ có giá gọi chung là các chứng khoán. Khi xuất hiện chứng khoán cũng xuất hiện nhu cầu mua bán, chuyển nhượng giữa các chủ sở hữu khác nhau: trong khi người này có nhu cầu rút vốn ra khỏi lĩnh vực đầu tư hoặc di chuyển vốn đầu tư sang lĩnh vực khác cần bán chứng khoán thì người khác có nhu cầu đầu tư cần mua lại chứng khoán đó. Điều này làm xuất hiện một thị trường đặc biệt để cân đối cung cầu về vốn trong nền kinh tế đó là thị trường tài chính. Như vậy, cơ sở khách quan cho sự ra đời thị trường tài chính là sự giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế thông qua các công cụ tài chính đặc biệt là các loại chứng khoán, làm nảy sinh nhu cầu mua bán, chuyển nhượng chứng khoán giữa các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Chính sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá và tiền tệ mà đỉnh cao của nó là kinh tế thị trường làm nảy sinh một loại thị trường mới là thị trường tài chính. Có thể hiểu: - Thị trường tài chính là chiếc cầu nối giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, là nơi gặp gỡ các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. - Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán quyền sử dụng các khoản vốn ngắn hạn hoặc dài hạn thông qua những phương thức giao dịch và những công cụ tài chính đặc trưng nhất định. Vậy, thị trường tài chính là thị trường mà ở đó diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định. Để tạo lập một môi trường sôi động ở thị trường tài chính trên thực tế cần có sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó có ba yếu tố cơ bản: Đối tượng của thị trường, công cụ và chủ thể giam gia trên thị trường. 2. Đối tượng và công cụ của thị trường tài chính 2.1.Đối tượng của thị trường tài chính Đối tượng của thị trường tài chính bao gồm những nguồn cung và cầu về vốn trong xã hội của các chủ thể kinh tế như nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xă hội và các tầng lớp dân cư. Thị trường tài chính là một thị trường đặc biệt nên đối tượng mua bán trên thị trường tài chính là một loại hàng hoá đặc biệt, đó là quyền sử dụng các nguồn tài chính ngắn hạn hoặc dài hạn. Hàng hoá được đem ra mua bán ở đây không phải là số tiền của người dư thừa mà chính là quyền sử dụng số tiền đó trong một thời gian nhất định. Giá trị sử dụng của hàng hoá đặc biệt này chính là quyền được sử dụng nguồn tài chính nhàn rỗi của người bán theo mục đích của người mua như là một số vốn để hoạt động. Giá cả mua bán trên thị trường tài chính thể hiện ở phần lợi tức người mua trả cho người bán quyền sử dụng nguồn tài chính. Thông thường giá cả được thoả thuận trước khi diễn ra quan hệ mua bán, tuy nhiên giá cả cũng có thể không xác định trước như trường hợp người mua phát hành cổ phiếu vì giá cả tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động của người mua. Hình thức biểu hiện cụ thể của giá cả tuỳ thuộc vào hình thức mua bán, chẳng hạn: Vay nợ thông thường thì giá cả là lợi tức tiền vay; Người mua phát hành cổ phiếu, trái phiếu thì giá cả là lợi tức trái phiếu, lợi tức cổ phần... Thực chất của các quan hệ giao dịch trên thị trường tài chính là việc mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua hình thức bên ngoài là mua bán chứng khoán giữa các chủ thể có cung cầu về vốn với nhau. Chủ thể tham gia trên thị trường tài chính là những thể nhân hay những pháp nhân đại diện cho những nguồn cung và cầu về vốn, chủ yếu là các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm... Chủ thể tham gia trên thị trường bao gồm cả người mua và người bán. Người mua quyền sử dụng nguồn tài chính trên thị trường tài chính là người đang có khó khăn tạm thời về vốn, người phát hành chứng khoán, người bán chứng khoán. Người bán quyền sử dụng nguồn tài chính trên thị trường tài chính là người có nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi, người mua chứng khoán, khi nhượng đi quyền sử dụng nguồn tài chính của mình, người bán quyền sử dụng nguồn tài chính nhận được những chứng khoán xác nhận việc bán đó và quyền lợi có liên quan đến việc bán quyền sử dụng nguồn tài chính đó. Trên thị trường tài chính diễn ra việc mua đi, bán lại các chứng khoán đã lưu hành và việc mua bán có thể diễn ra nhiều lần. Tuy nhiên về cơ bản người mua chứng khoán vẫn là người có dư thừa vốn nhường lại quyền sử dụng vốn đó trong một thời gian để được quyền hưởng những khoản lợi tức nhất định, còn người bán chứng khoán vẫn là người cần vốn. Vì thế quan hệ mua bán lại chứng khoán trên thị trường phản ánh sự thay đổi chủ sở hữu chứng khoán, phản ánh sự chuyển dịch quyền được hưởng các khoản lợi tức. Tóm lại, đối tượng mua bán trên thị trường tài chính là mua bán quyền sử dụng nguồn tài chính ngắn hạn hoặc dài hạn còn đối tượng giao dịch cụ thể trên thị trường là các loại chứng khoán. 2.2 Công cụ của thị trường tài chính Trên thị trường tài chính để thực hiện việc chuyển giao quyền sử dụng các nguồn tài chính người ta sử dụng các công cụ của thị trường tài chính. Các công cụ được sử dụng trên thị trường tài chính là các chứng khoán. Theo luật chứng khoán số 70/2006 QH 11 của Quốc hội ngày 29/6/2006. Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: * Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; * Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán. - Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành. - Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. - Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng. - Quyền mua cổ phần là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành kèm theo đợt phát hành cổ phiếu bổ sung nhằm bảo đảm cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phiếu mới theo những điều kiện đã được xác định. - Chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng khoán được quyền mua một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được xác định trước trong thời kỳ nhất định. - Quyền chọn mua, quyền chọn bán là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua lựa chọn quyền mua hoặc quyền bán một số lượng chứng khoán được xác định trước trong khoảng thời gian nhất định với mức giá được xác định trước. - Hợp đồng tương lai là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất định vào ngày xác định trước trong tương lai. Tóm lại: Chứng khoán là chứng từ dưới dạng giấy tờ hoặc ghi trên hệ thống điện tử xác nhận các quyền hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Trên thị trường tài chính đứng ở gốc độ khác nhau thì chứng khoán đem lại lợi ích như sau: + Đối với người sở hữu chứng khoán: Thứ nhất, làm phương tiện đầu tư để thu lời đối với những chủ thể có thừa nguồn tài chính; Thứ hai, sử dụng làm vật thế chấp, trả nợ tiền vay ngân hàng, hoặc có thể mua bán chuyển nhượng tuỳ theo sự quy định có tính pháp lý đối với thể thức của mỗi loại chứng khoán; + Đối với các chủ thể cần nguồn tài chính: Chứng khoán có công dụng làm phương tiện huy động, tập trung nguồn tài chính sử dụng cho những mục đích nhất định. + Đối với nền kinh tế: Chứng khoán còn là phương tiện để phân phối nguồn tài chính giữa các khu vực và các ngành trong nền kinh tế sử dụng có hiệu quả. Qua đó giúp tập trung được nguồn vốn tiết kiệm chuyển thành nguồn vốn đầu tư nội lực của quốc gia, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống phúc lợi cho toàn xã hội. Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau thì có các loại chứng khoán: + Căn cứ theo kỳ hạn huy động vốn: Chứng khoán ngắn hạn và chứng khoán trung và dài hạn. Chứng khoán ngắn hạn được sử dụng trên thị trường tiền tệ, còn chứng khoán trung và dài hạn được sử dụng trên thị trường vốn. + Căn cứ theo chủ thể phát hành: chứng khoán được chia thành 3 loại. Chứng khoán chính phủ và chứng khoán chính quyền địa phương: Là các chứng khoán do chính phủ và chính quyền địa phương phát hành. Các chứng khoán này thường là các tín phiếu, trái phiếu được chính quyền địa phương và chính phủ đảm bảo thanh toán tiền gốc và lãi đã được xác định trước, thông qua khoản chi trả nợ vay của ngân sách Nhà nước. Do vậy loại chứng khoán này có mức độ tín nhiêm cao, ít bị rủi ro. Chứng khoán của ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng: Loại chứng khoán này được phát hành nhằm huy động nguồn tài chính phục vụ cho các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng, bao gồm: Chứng chỉ tiền gửi, các loại trái phiếu (ngắn hạn hoặc dài hạn), cổ phiếu. Chứng khoán của các doanh nghiệp: Là chứng khoán của các doanh nghiệp công nghiệp, thương nghiệp... như cổ phiếu của công ty cổ phần, các loại trái phiếu của doanh nghiệp, thương phiếu. + Căn cứ theo lợi ích chứng khoán (theo tính chất thu nhập do chứng khoán đưa lại), chứng khoán được chia thành 2 loại: Chứng khoán có thu nhập cố định: Là loại chứng khoán đảm bảo cho người sở hữu được hưởng phần thu nhập theo thoả thuận trước, không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của người phát hành. Ví dụ: Các loại công trái, tín phiếu kho bạc, trái phiếu công ty... Chứng khoán có thu nhập biến đổi: Là loại chứng khoán mà người sở hữu được hưởng phần thu nhập phụ thuộc vào kết quả hoạt động của người phát hành. Ví dụ: cổ phiếu của công ty cổ phần. + Căn cứ theo tính chất sử dụng nguồn vốn huy động: Chứng khoán có thể chia thành 2 loại Chứng khoán sơ cấp: Là chứng khoán của các tổ chức, của chính phủ, của chính quyền các địa phương và của các doanh nghiệp phát hành bán lần đầu tiên. Các chủ thể phát hành chứng khoán sơ cấp sẽ trực tiếp sử dụng nguồn tài chính huy động được do phát hành chứng khoán cho việc sản xuất kinh doanh hay cho các nhu cầu chi tiêu công cộng. Chứng khoán thứ cấp: Là chứng khoán của các tổ chức tài chính, tín dụng phát hành. Các tổ chức này có được nguồn tài chính do phát hành chứng khoán thứ cấp sẽ sử dụng nó để mua các chứng khoán sơ cấp hoặc cho vay. + Căn cứ theo tính chất chứng khoán: Chứng khoán có thể chia thành 3 loại Chứng khoán vốn: Là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu một phần công ty cổ phần. Chứng khoán vốn do các công ty cổ phần phát hành. Người sở hữu chứng khoán vốn là người sở hữu một phần công ty cổ phần và có quyền hưởng các khoản thu nhập của công ty. Chứng khoán nợ: Là chứng khoán xác nhận một khoản nợ của người phát hành đối với người sở hữu chứng khoán. Chứng khoán nợ thể hiện sự cam kết của người phát hành sẽ thanh toán những khoản tiền lãi và tiền gốc vào những thời điểm nhất định. Chứng khoán phái sinh: Là chứng khoán thể hiện quyền được mua cổ phiếu, trái phiếu theo những điều kiện nhất định đã được thoả thuận trước. Ví dụ: chứng quyền, chứng khế, hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn. - Căn cứ theo tiêu chuẩn pháp lý: + Chứng khoán vô danh: Là chứng khoán không ghi tên người chủ sở hữu trên tờ chứng khoán. Việc chuyển nhượng loại chứng khoán này đơn giản, dễ dàng, không cần phải có các thủ tục pháp lý rườm rà. + Chứng khoán hữu danh: Là loại chứng khoán có ghi rõ họ tên người chủ sở hữu trên tờ chứng khoán đó. Việc chuyển nhượng loại chứng khoán này được thực hiện bằng thủ tục đăng ký tại cơ quan phát hành. 3. Phân loại thị trường tài chính 3.1. Căn cứ theo phương thức huy động nguồn tài chính - Thị trường các công cụ nợ: Trên thị trường này, các chủ thể huy động nguồn tài chính thông qua phương thức chung nhất là đưa ra một công cụ vay nợ. Chúng là sự thoả thuận có tính chất hợp đồng, trong đó người vay phải thanh toán cho người giữ công cụ một khoản tiền cố định trong những khoảng thời gian đều đặn cho tới thời điểm quy định trước là đợt thanh toán cuối cùng được thực hiện. Lúc này người vay phải hoàn trả luôn cả vốn và phần lãi tiền vay còn lại cho người nắm giữ công cụ. Như vậy, trên thị trường nợ, chủ thể huy động nguồn tài chính chỉ có thể sử dụng nguồn đó trong những khoảng thời gian cố định. - Thị trường vốn cổ phần: Trên thị trường này, các chủ thể huy động nguồn tài chính thông qua phương thức phát hành cổ phiếu. Các công ty cổ phần có quyền sử dụng nguồn tài chính này suốt trong thời gian tồn tại và hoạt động của công ty. Các cổ đông sẽ là đồng sở hữu công ty cổ phần. 3.2. Căn cứ vào phương thức tổ chức thị trường - Thị trường sơ cấp: Đây là thị trường phát hành chứng khoán mới và bán cho người đầu tiên mua. Đặc điểm nổi bật của thị trường sơ cấp là nó tạo ra các chứng khoán mới. Sự hoạt động của thị trường sơ cấp huy động nguồn tài chính trong xã hội chuyển thành vốn đầu tư cho nền kinh tế. Thông qua thị trường này, nguồn tài chính vận động từ người đầu tư sang chủ thể phát hành chứng khoán. Đây là thị trường cung ứng các công cụ tham gia trên thị trường tài chính. - Thị trường thứ cấp: Đây là thị trường tài chính trong đó thực hiện giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp, đáp ứng nhu cầu chuyển nhượng vốn đầu tư, tạo nên tính thanh khoản cho các công cụ trên thị trường. Thị trường thứ cấp không có tác dụng huy động thêm vốn, không hỗ trợ việc đầu tư mới. Chức năng cơ bản của thị trường thứ cấp là tăng thêm tính thanh khoản cho các công cụ tài chính đã được phát hành có tính hấp dẫn hơn, được ưu chuộng hơn và do đó làm dễ dàng hơn việc phát hành và bán chúng ở thị trường sơ cấp. Qua đó góp phần tăng sức thu hút đối với công chúng tham gia trên thị trường này. Trên thị trường này diễn ra việc mua bán chứng khoán giữa các nhà đầu tư. Thị trường tài chính thứ cấp làm thay đổi chủ thể sở hữu chứng khoán, không làm tăng vốn cho nền kinh tế. 3.3. Căn cứ vào tính chất pháp lý - Thị trường tài chính chính thức: Là bộ phận thị trường tài chính mà tại đó các hoạt động huy động, cung ứng, giao dịch các nguồn tài chính được thực hiện theo những nguyên tắc, thể chế nhất định, được Nhà nước quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật. Các chủ thể tham gia thị trường này với quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của họ được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. - Thị trường tài chính không chính thức: Là bộ phận thị trường tài chính mà ở đó các hoạt động huy động, cung ứng, giao dịch các nguồn tài chính được thực hiện theo sự thoả thuận giữa người cung cấp nguồn tài chính và người cần nguồn tài chính mà không theo nguyên tắc, thể chế do Nhà nước quy định. 3.4. Căn cứ vào thời gian sử dụng nguồn tài chính huy động được - Thị trường tiền tệ: Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính được chuyên môn hoá đối với các nguồn tài chính được trao quyền sử dụng ngắn hạn. Đặc trưng nổi bật nhất của thị trường tiền tệ là hàng hoá có tính thanh khoản cao, mức rủi ro thấp. Trọng tâm của thị trường tiền tệ là cung cấp phương tiện giúp các cá nhân, doanh nghiệp nhanh chóng điều chỉnh tình hình thanh khoản thực của họ theo số lượng tiền mong muốn. Hình thức tài trợ vốn đặc trưng là tài trợ gián tiếp thông qua hoạt động của ngân hàng thương mại. Chủ thể tham gia thị trường tiền tệ bao gồm các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng (công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, công ty tài chính...), các doanh nghiệp, các hộ gia đình. Ngân hàng trung ương tham gia thị trường tiền tệ chủ yếu với vai trò kiểm soát thị trường và điều hoà tiền tệ bằng sự can thiệp vào hoạt động của thị trường thông qua việc tăng hoặc giảm lãi suất tái chiết khấu, tăng hoặc giảm mức dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại và thông qua nghiệp vụ thị trường mở. - Thị trường vốn Thị trường vốn là một bộ phận của thị trường tài chính được chuyên môn hoá đối với các nguồn tài chính được trao quyền sử dụng dài hạn. Thị trường vốn cung cấp tài chính cho những dự án đầu tư dài hạn, với hình thức tài trợ trực tiếp các chủ thể có nhu cầu sẽ chủ động phát hành chứng khoán trên thị trường để huy động. So với thị trường tiền tệ, thị trường vốn có độ rủi ro cao hơn. Những người huy động vốn trên thị trường vốn chủ yếu và quan trọng là các doanh nghiệp. Những người cung cấp vốn trên thị trường vốn là các tổ chức tài chính như: Ngân hàng, công ty bảo hiểm và công chúng. Thị trường vốn là nhịp cầu để chuyển tiết kiệm của những doanh nghiệp thặng dư qua những doanh nghiệp thiếu hụt. Qua đó thị trường vốn đóng góp vào sự ổn định kinh tế bằng cách cân đối tiết kiệm với đầu tư và góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống cho người dân khi thị trường vốn hoạt động có hiệu quả. Giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ có mối quan hệ khăng khít với nhau. Sự phát triển mạnh mẽ và lành mạnh của thị trường tiền tệ sẽ thúc đẩy sẽ phát triển của thị trường vốn. Các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường tiền tệ có thể sử dụng kỹ thuật để chuyển đổi các nguồn tài chính có thời hạn sử dụng ngắn thành các nguồn tài chính có thời hạn sử dụng dài cung cấp cho thị trường vốn. Sự phát triển của thị trường vốn sẽ kích thích thị trường tiền tệ phát triển. Nhìn chung, thị trường tài chính là một loại thị trường có đặc trưng riêng về hàng hoá, cũng như phương thức giao dịch. Thị trường tài chính là tổng hoà các mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế, do đó rất khó có thể phân loại một cách rạch ròi như các loại thị trường hàng hoá thông thường. Việc phân chia thị trường tài chính thành các bộ phận khác nhau dựa trên hình thức vận động của các nguồn tài chính và cơ chế giao dịch chỉ mang ý nghĩa tương đối. 4. Chức năng và vai trò của thị trường tài chính 4.1 Chức năng của thị trường tài chính - Chức năng dẫn vốn Thị trường tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ những người tạm thời thừa vốn đến những người tạm thời thiếu vốn. Cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, chính phủ và cá nhân để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư và tiêu dùng trong một nền kinh tế. Thị trường tài chính cho phép chuyển vốn những người không có cơ hội đầu tư sinh lời tới những người có cơ hội đầu tư sinh lời. Chức năng tiết kiệm Thông qua thị trường tài chính, người tiết kiệm có thể kiếm được thu nhập dưới hình thức tiền lãi, cổ tức, tiền lời của vốn. Thông qua thị trường tài chính, điều tiết lãi suất hấp dẫn và gửi tín hiệu đến những nhà tiết kiệm, khuyến khích tăng tiết kiệm dành vốn cho đầu tư, hạn chế tiêu dùng và ngược lại. Như vậy, thị trường tài chính cung cấp một cơ chế động viên tiết kiệm từ đó tạo ra các nguồn vốn cho đầu tư tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Chức năng thanh khoản Thị trường tài chính cung cấp phương thức chuyển đổi các loại tài sản tài chính thành tiền mặt. Chính điều đó làm cho các nhà đầu tư ưa chuộng hơn và dễ dàng thực hiện chức năng dẫn vốn và chức năng tiết kiệm của thị trường tài chính. 4.2 Vai trò của thị trường tài chính Thị trường tài chính được coi là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường. Việc hình thành và phát triển của thị trường tài chính góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Có thể thấy vai trò của thị trường tài chính thể hiện trên các mặt sau: Một là, thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong việc huy động các nguồn tài chính nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cơ sở khách quan cho sự ra đời và phát triển thị trường tài chính từ yêu cầu giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng cung ứng các nguồn tài chính trong xã hội, trong hoạt động của các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Với các công cụ huy động vốn phong phú, đa dạng và với cơ chế hoạt động linh hoạt, thị trường tài chính có khả năng huy động tối đa các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi trong xã hội ở nhiều lĩnh vực, nhiều chủ thể với nhiều mức độ khác nhau, góp phần vào việc tài trợ cho các hoạt động kinh tế xã hội. Sự tài trợ của thị trường tài chính đối với sự phát triển nền kinh tế được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp. + Tài trợ trực tiếp: Người cần vốn phát hành các loại chứng khoán sơ cấp để huy động nguồn vốn nhàn rỗi của người có vốn nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động của mình. Ở đây, quan hệ giữa người có vốn và người cần vốn không phải qua bất kỳ trung gian nào, nguồn tài chính vận động thẳng từ người thừa vốn đến người thiếu vốn trong khi chứng khoán vận động theo chiều ngược lại. + Tài trợ gián tiếp: Các trung gian tài chính phát hành chứng khoán thứ cấp để huy động các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi của những người có vốn, sau đó mới dùng số tiền này mua lại chứng khoán sơ cấp của những người thiếu vốn. Ở đây, nguồn tài chính không vận động thẳng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docgiao_trinh_tai_chinh_hoc_4302.doc