Giáo trình Văn học hiện đại Trung Quốc

Lịch sử hiện đại Trung Quốc được đánh dấu bằng cuôc chiến tranh Nha phiến (1840), đất nước

phong kiến mấy ngàn năm bắt đầu cuộcchuyển mình dữ dội, kéo dài hơn một thế kỷ, trải qua biết bao

đau khổ và tủi nhục, mãi cho đến năm 1949, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được thành lập.

Nhân chuyện một người Anh buôn bán thuốc phiện bị bắt, chính phủ Anh lấy cớ gây ra cuộc chiến

tranh với triều đình Mãn Thanh, sử thường gọi là cuộc chiến tranh Nha phiến. Trung Hoa đại bại, ký

điều ước Nam Kinh, phải cắt Hương Cảng cho Anh độc quyền và mở năm thương cảng cho người Anh

được vào buôn bán đó là: Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải.

Tiếp theo là liên quân Anh Pháp tấn công Thiên Tân, Bắc Kinh. Trung Hoa lại phải ký điều ước

Bắc Kinh (1860) mở thêm bảy thương khẩu nữa, cho phép các giáo sĩ và thương nhân châu Âu lưu thông

khắp nơi, cho Âu Mỹ hưởng quyền lãnh sự tài phán.

pdf70 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Văn học hiện đại Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa sự đúng sai khi chiếc đầu lâu đã chết năm trăm năm trở lại nguyên hình, sống lại để có thịt có da túm lấy ông đòi áo quần, đòi tay nải, thì ông không thể không chống lại chủ trương trước đây của mình, lẩm bẩm mãi mới phân rõ sống – chết, xưa – nay, lớn – bé, sang – hèn, một lòng muốn phân định rõ vật và ta, làm rõ phải trái. Bằng lối đối thoại sinh động thú vị, Lỗ Tấn dứt khoát tuyên bố sự phá sản của Tề vật luận, chứng thực bản thân chủ nghĩa hư vô cuối cùng cũng chỉ có thể rơi vào cõi hư vô mà thôi. Tư tưởng dân tộc thất bại chủ nghĩa sau “18-9” tương đối lan tràn, giới trí thức phản kháng một cách tiêu cực, trốn tránh đấu tranh, do đấy chủ nghĩa hư vô đã xuất hiện đúng lúc. Lỗ Tấn vận dụng hình thức nghệ thuật tiến hành càn quét, cùng tạp cảm phối hợp tác chiến, từ tầm cao mà nhìn, đấu tranh cho “hiện tại”. Hình thức tác phẩm ở Lỗ Tấn chỉ là một thử nghiệm. Sự xuất hiện của chúng nói lên rằng: giải quyết chính xác mối quan hệ giữa nghệ thuật và chính trị, làm cho tác phẩm văn học phát huy đặc điểm nghệ thuật phục vụ chính trị tốt hơn. Về mặt này Lỗ Tấn là một mẫu mực kiệt xuất trong các nhà văn hiện đại từ Ngũ tứ đến nay. Đúng như Lỗ Tấn trong Lời tựa đã nói Chuyện cũ viết lại vẫn là những bài “tốc tả chiếm phần lớn”. Điều này đặc biệt rõ rệt ở 5 tác phẩm thời kỳ sau. Ví dụ viết Lão Tử, ông đã nhiều lần dùng một câu nói giống nhau: “Lão Tử ngồi không chút nhúch nhích giống như một khúc gỗ” (Xuất quan). Tả Bá Di, Thúc Tề vì “kìm ngựa mà can gián” rồi bị trục xuất, bốn giáp sĩ hai lần “cung kính đứng nghiêm” chào họ, sau đó kéo họ đi, đẩy họ ra (Hái rau vi). Ví dụ khác như đối thoại giữa Mặc Tử và Công Thâu Ban (Phản đối chiến tranh), cảnh tượng lính đi tuần tóm được cổ áo Trang Tử (Cải tử hoàn sinh). Bất kể Văn học hiện đại Trung Quốc - 51- Vũ Minh Tiến Khoa Ngữ Văn là xây dựng nhân vật hoặc miêu tả tình tiết, đều khác với Gào thét và Bàng hoàng. Về cơ bản dùng phương pháp phác hoạ, và luôn luôn châm biếm hoá. Cuộc sống hiện đại được sử dụng làm chi tiết chính là thích ứng với yêu cầu của châm biếm hoá. Lỗ Tấn không xoá và che dấu màu sắc hiện đại của những chi tiết này, mà coi chúng là một thủ pháp của sự khoa trương làm nổi bật tính cách nhân vật và tình tiết câu chuyện. Những khái niệm hiện đại ở đây càng nổi bật thì càng không thể lẫn lộn với sự thực lịch sử được. Độc giả có thể từ ý nghĩa nội tại mà hiểu chúng, coi chúng là danh từ rất cụ thể của một loại vật chất hoặc tinh thần nào đó, từ đó mà có ấn tượng sâu sắc. Những thủ pháp nghệ thuật của Chuyện cũ viết lại khiến người ta nghĩ đến tác phẩm Cái mũi của Gôgôn. Lỗ Tấn đã viết về Cái mũi như sau: “điều đặc biệt là tuy nói về những chuyện quái dị, nhưng lại dùng bút pháp tả thực”1. Chuyện cũ viết lại sử dụng những chi tiết của cuộc sống hiện đại viết về người xưa mà không đến nỗi làm cho họ chết hơn.2 Tác phẩm rất ít dùng bút mực để vẽ lên hình tượng của họ, vừa không làm mất tính chân thật của bản thân câu chuyện mà lại hiện lên linh hồn đủ loại của những người hiện đại sau Ngũ tứ, đặc biệt là những người ở thập kỷ 30. Thành tựu tư tưởng mà nó đạt được không tách rời hình thức biểu hiện của nó. Sự thống nhất hoàn mỹ giữa chính trị và nghệ thuật của Chuyện cũ viết lại , đặc biệt là hình thức và phong cách mới mẻ của nó đã gây nên sự chú ý và cuộc tranh luận rộng rãi. Giống như nhiều nhà văn vĩ đại, Lỗ Tấn suốt đời không mệt mỏi tìm tòi trong sáng tác, căn cứ vào yêu cầu cách mạng của thời đại và đặc điểm chiến đấu của cá nhân mà sáng tác ra nhiều thể loại văn học. Ơû những thời kỳ khác nhau, ở những bộ môn khác nhau, ông đã làm gương và lập ra những tiêu chuẩn đáng chú ý. Tập truyện ngắn Gào thét và Bàng hoàng, tập tản văn Nhặt cánh hoa tàn, tập thơ văn xuôi Cỏ dại và những tập tạp văn đa dạng, thành thục, linh hoạt đều là lá cờ đầu trong lịch sử văn học hiện đại Trung Quốc. Chuyện cũ viết lại viết lại những chuyện lịch sử và câu chuyện thần thoại, phát huy đầy đủ đặc điểm chiến đấu của tác giả, về thể tài có nhiều sáng tạo, cũng thể hiện tinh thần tiên phong trong nghệ thuật của nhà văn vĩ đại. 3.Tạp văn. Đồng thời với việc sáng tạo tiểu thuyết, Lỗ Tấn còn viết khá nhiều tạp văn, tản văn và thơ văn xuôi. Tạp văn là vũ khí nghệ thuật của ông sử dụng để mổ xẻ xã hội, đả kích kẻ thù. Nó sắc bén linh hoạt, khuôn khổ không gò bó. Tản văn và thơ văn xuôi với phong cách trong sáng, thâm trầm, bao hàm cả hai sắc thái kể chuyện và trữ tình. Nội dung tư tưởng của những tác phẩm này cao thấp khác nhau, nhưng khuynh hướng chung là nhất trí, và bằng các hình thức mới lạ, nhiều màu nhiều vẻ, mỗi tác phẩm đều làm phong phú và đầy đặn thêm cho thành tựu suốt 10 năm đầu của văn học hiện đại. Tạp văn manh nha từ “cách mạng văn học” và “cách mạng tư tưởng”3. Khác với các hình thức truyền thống của thể loại văn này trong quá khứ, tạp văn là một thể loại mới ra đời rất thích ứng với phong trào Ngũ tứ. Vì thế ngay từ buổi đầu, Lỗ Tấn đã rất coi trọng. Tạp văn sớm nhất của Lỗ Tấn là bài Tuỳ cảm lục đăng trong tạp chí Tân thanh niên năm 1918, về sau được mở rộng trận địa trên các loại báo chí như Thần báo phụ san, Kính báo phụ san, Quốc dân tân báo phụ san, Ngữ ti, Mãng nguyên vàMãnh tiến Oâng nói: “cũng có người khuyên tôi không nên viết các bài bình luận ngắn như thế này. Yù tốt đó, tôi vô cùng cảm kích, hơn nữa không phải tôi không biết sáng tác là cao quí. Thế nhưng, khi cần phải viết những cái như thế, có lẽ vẫn cứ phải viết thôi. Tôi cho rằng, nếu như trong cung điện nghệ thuật lại có lắm điều cấm kị, phiền phức như thế, thì thà chẳng bước vào còn hơn”4. Lỗ Tấn coi trọng tác 1 Ghi thêm sau bản dịch Cái mũi – Lỗ Tấn dịch văn tập, tập 10 trang 660. 2 Chuyện cũ viết lại- Lời tự tựa. 3 Nam xoang bắc điệu tập: Nguy cơ của văn tiểu phẩm. 4 Hoa cái tập: Lời tựa. Văn học hiện đại Trung Quốc - 52- Vũ Minh Tiến Khoa Ngữ Văn dụng chiến đấu của văn học, đã không ngừng sáng tác tạp văn. Dưới ảnh hưởng của ông, có nhiều nhà văn cũng viết tạp văn, rồi rầm rộ thành một phong trào. Những tạp văn trước đây của Lỗ Tấn được tập hợp trong các tập như : Phần, Nhiệt phong, Hoa cái tập và Hoa cái tập tục biên. Những tạp văn đó, dựa vào đặc điểm của bản thân hình thức nghệ thuật, trực tiếp biểu hiện được tinh thần chống đế quốc chống phong kiến triệt để như dầu sôi lửa cháy, đề cập rộng rãi tới các vấn đề mà tiểu thuyết chưa đề cập, hoặc không có khả năng tiếp cận. Ơû Trung Quốc, hình thái ý thức phong kiến lấy đạo nho là tiêu biểu từng thống trị hơn 2000 năm, hệ thống nghiêm ngặt, luật lệ chặt chẽ. Cách mạng Tân Hợi về căn bản chưa lay chuyển được thể chế đó, cho đến tận đêm trước phong trào Ngũ tứ chất độc của loại tư tưởng được tích tụ nhiều năm ấy, vẫn chi phối tâm lý toàn xã hội, tạo thành sức ì của lịch sử, bài xích và chống phá các dòng tư tưởng ngoại lai. Và mỗi khi về chính trị hễ dòng nước ngược phản động dâng cao, thì thế lực ấy càng điên cuồng hung hãn. Trong xã hội, đâu đâu cũng thấy ca ngợi công đức tổ tiên, ngưỡng mộ ngàn xưa, sùng bái đạo Nho, khuyên răn hiếu thuận, sôi kinh nấu sử, tôn kính Khổng Khâu, thậm chí lấy danh nghĩa của nhà nho để tin sùng Thái thượng cảm ứng thiên, và làm các việc đón xác chết, lễ rắn thần, tu tiên luyện đan Lỗ Tấn cho rằng : “Cái nhà nước may mà sống sót ấy, cậy có nền văn minh cố hữu và cũ rích, đã tác hại làm cho mọi cái trở thành xơ cứng, cuối cùng rồi cũng bước vào con đường diệt vong mà thôi”. Bởi vậy Trung Quốc nếu muốn cải cách “bước đi thứ nhất đương nhiên là phải quét sạch những đồ phế thải ấy đi, để tạo cơ hội cho những sinh mệnh mới ra đời!”. Theo ông, phong trào Ngũ tứ phải là “sự mở đầu của cơ hội đó”1. Là một nhà cách mạng dân chủ triệt để, trước làn sóng lịch sử đang sôi sục, phê phán xã hội rộng lớn đã trở thành một sắc thái riêng trong thời kỳ đầu của tạp văn Lỗ Tấn. Chỉ với Tuỳ cảm lục đăng trong tạp chí Tân thanh niên đủ thấy “có bài vì cầu tiên, tĩnh toạ, đấu quyền mà viết, có bài vì cái gọi là “bảo tồn quốc tuý” mà viết, có bài vì bọn quan liêu cũ thời đó tự hào có kinh nghiệm mà viết, có bài thì vì những bức tranh đả kích trên tờ Thời báo ở Thượng Hải mà viết”2. Từ triết học hư vô đến chủ nghĩa nô lệ, từ “Aùi quốc luận” tự kiêu mù quáng, đến hình ảnh xã hội quái đản ly kỳ, thượng hạ cổ kim không cái gì không bàn đến. Những vấn đề mà các tạp văn ấy đề cập đến rất nhiều, nhưng trước sau vẫn quán xuyến tinh thần thời Ngũ tứ cái gọi là “Democracy tiên sinh” và “Science tiên sinh” cũng tức là đòi hỏi dân chủ và khoa học. Sự đòi hỏi đó được thể hiện cụ thể trong tạp văn của Lỗ Tấn. Trước tiên là sự phản đối đế quốc thuần tuý. Cuộc đấu tranh giữa văn hoá mới và văn hoá cũ khởi đầu từ đêm trước Ngũ tứ đánh dấu cuộc cách mạng dân chủ tư sản chống đế quốc, chống phong kiến bước sang giai đoạn mới. Trên mặt trận tư tưởng đấu tranh càng quyết liệt, càng triệt để hơn, đúng như chủ tịch Mao Trạch Đông đã nói: “Phong trào Ngũ tứ trở thành cuộc vận động cách tân văn hoá, đó chỉ qua là một hình thức biểu hiện của cuộc cách mạng dân chủ tư sản chống đế quốc, chống phong kiến của Trung Quốc”3. Phái thủ cựu lấy danh nghĩa “bảo tồn quốc tuý” nhằm bảo vệ văn ngôn, đề xướng quốc học, ca ngợi cái gọi là “ đạo đức cổ truyền, văn minh cổ truyền”, mục đích của nó là làm cho tư tưởng phong kiến tiếp tục giữ địa vị thống trị, để ngăn chặn trào lưu tư tưởng mới truyền bá và phát triển. Trong các bài Chuyện bộ râu, Cảm tưởng khi soi gương, Bàn về câu chửi mẹ nó!, và tuyệt đại bộ phận Tuỳ cảm lục trong Nhiệt phong, Lỗ Tấn đã nhiều lần bài xích các “nhà quốc tuý”. Oâng chỉ rõ “ở Trung Quốc, từ tục bó chân, để đuôi sam, hút thuốc phiện đến việc mua bán người, nạn đa thê những cái gọi là quốc tuý của bọn họ, chẳng cái nào không hợp với nền văn hoá của giống người dã man”4. Các “nhà quốc tuý” thậm chí còn cảm thấy “chỉ cần từ xưa đến nay cứ như vậy, thì là bảo bối rồi. Dẫu rằng chỉ là một cái nhọt, nếu nó có mọc trên thân thể người Trung Quốc, thì cũng phải là “nơi hồng đỏ ấy, tươi tựa hoa đào, 1 Ra khỏi tháp ngà. Hậu ký. 2 Nhiệt phong : Lời tựa. 3 Phong trào Ngũ tứ – Mao Trạch Đông tuyển tập, tập 2, trang 522. 4 Nhiệt phong: Tuỳ cảm lục số 42, số 37, số 36, số 62. Văn học hiện đại Trung Quốc - 53- Vũ Minh Tiến Khoa Ngữ Văn khi nó vỡ ra, đẹp như dòng sữa, quốc tuý là ở đó”, tuyệt hết chỗ nói”1. Khi mà những trí thức, đạo đức, phẩm hạnh, tư tưởng tiến bộ đã trở thành trào lưu thế giới, mà lại cứ khư khư bảo tồn những khuôn phép tập tục cũ rích được bắt đầu bằng chữ “quốc”, thì kết quả ấy tất nhiên sẽ là chúng ta bảo tồn được quốc tuý, mà quốc tuý thì không thể bảo tồn được chúng ta: “người Trung Quốc, tách ra khỏi người thế giới”.2 Thứ hai là bài trừ tư tưởng mê tín lạc hậu. Từ trước đến nây chế độ phong kiếnvẫn gắn bó với tư tưởng mê tín lạc hậu, giai cấp thống trị lợi dụng uy thần phép quỷ, nhân quả, luân hồi, đầu độc dân chúng bằng thuyết số mệnh khiến họ yên phận với cuộc đời bị trị, không dám vùng lên đấu tranh. Bài trừ mê tín là một trong những biện phápmở đường cho quần chúng giác ngộ thời Ngũ tứ, lấy mỹ dục thay cho thuyết tôn giáo của Thái Nguyên Bồi, Bàn về đả phá thần tượng của Trần Độc Tú, và các bài chống mê tín dị đoan của Trần Đại Tề, Tiền Huyền Đồng, Lưu Bán Nông đều có ảnh hưởng to lớn thời bấy giờ. Trong các bài Bàn về các loại chụp ảnh, Nhàn đàm cuối xuân và cả các bài số 33, 38 và 53 trong Tuỳ cảm lục, Lỗ Tấn không ngừng tấn công vào các tập tục ngu si mê muội. Oâng chỉ rõ: nên biết rằng “thuốc súng ngoài việc dùng để làm pháo ra, la bàn ngoài việc dùng để xem phong thuỷ ra” còn có thể làm nhiều việc khác quan trọng hơn3. Muốn điều trị “căn bệnh truyền kiếp” muốn tẩy trừ “yêu khí” trong xã hội, chỉ có một “phương thuốc hữu hiệu” là khoa học. Vì khao hhọc dạy cho người ta biết đạo lý rõ ràng, dạy cho người ta biết suy nghĩ đúng đắn, không được làm bậy bạ, cho nên lẽ dương nhiên nó trở thành lực lượng đối địch với những người mê tín.thữ ba là chủ trương giải phóng xã hội. Lễ gaío phong kiến,quan niệm huyết thống từ nhiều năm nay trói buộc con người, trở thành thứ xiềng xích đối với con người về mặt tinh thần, nhất là phụ nữ và thanh niên thời Ngũ tứ luôn luôn coi gia đìnhlà một mắt xíh quan trọng trong việc cải taạ« xã hội, không chỉ báo Tân thanh niên mà rất nhiều loại báo chí và các tập san khác thậm chí còn mở những chuyên múc riêng để nghiên cứu vấn đề phụ nữ và thanh niên. Trong các bài tạp văn như Quan niệm về tiết liệt của tôi Ngày nay chúng ta nen kàm cha như thế nào?, Nôra đi rồi sẽ ra sao, Bàn về sự sụp đổ của tháp lôi phong và hàng loạt bại khác, Lỗ Tấn đã thàn công mãnh liệt vào danh giáo hủ bại lế giáo ăn thịt người. Oâng phản đối chủ nghĩa quả phụ, phản đối chủ nghĩa vườn không nhà trống, tuyên truyền cách mạng gia đình. Theo ông, phụ nữ chỉ khi nào gình được quyền lợi về kinh tế, thì mới có thể giành được sự bình đẳng chân chính, đòi hỏi người làm cha phải giải phóng cho con mình, “hãy gánh lấy cái gánh nặng của tập quán, hãy dùng vai ghì lấy cánh cửa chặn đen tối, thả acho con em mình ra chỗ sáng sủa rộng rãi”. Biện pháp căn bản là quét sạch chế độ phong kiến, tiêu diệt “thời đại muốn làm nô lệ cũng không xong” và “thời đại tạm thời được làm nô lệ”, để sáng tạo ra “một thời đại thứ ba chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc”.tạp văn của Lỗ Tấn không vhỉ giàu tính chiến đấu mà còn có một ma lực nghệ thuật cao độ. Oâng giỏi về việc sử dụng hình tượng sinh động và ngôn ngữ hài hước để chứng minh cho luận điểm chặt chẽ và lôgíc của mình. Những bài văn ngắn trong Nhiệt phong vừa tinh tws chắt lọc, vừa rõ ràng dễ hiểu, bài nào cũng sắc bén như dao găm. Những bài tạp văn tương đối dài trong Phần (Nấm mồ) thì lại khí thế nhịp nhàng, tầng lớp phân minh, thể hiện rõ đặc diểm ung dung tự chủ. Sau phong trào Ngũ tứ không lâu thì Mặt trận thống nhất văn hoá mới bắt đầu chia rẽ. Cùng với sự phát triển của tình hình cách mạng, cùng với sự thành lập Đảng cổng sản Trung Quốc, sự chia rẽ ngày càng có xu hướng công khai. Những bài tạp văn trong Hoa cái tập như: Thông tấn, Cái này và cái kia, Bỗng nghĩ ra, Thư Bắc Kinh, Đọc kinh năm thứ 14 vẫn viết về sự chống đối các tư tưởng “tôn vinh Khổng Tử, sùng bái Nho học, chuyên chú kinh sử và phục cổ”. Lỗ Tấn bất mãn về việc “đa số quốc dân đều đang chui rúc trong cái mớ truyền thống cứng nhắc”, bởi vậy ông lại liên tưởng đến vấn đề “Quốc đân tính” và đặt câu hỏi: “Lẽ nào cái gọi là quốc dân tính, quả thật lại khó thay đổi thế sao?”. Nhưng 1 Nhiệt phong: Tuỳ cảm lục số 42, số 37, số 36, số 62. 2 Nhiệt phong: Tuỳ cảm lục số 42, số 37, số 36, số 62. 3 Nhiệt phong: Tuỳ cảm lục số 42, số 37, số 36, số 62. Văn học hiện đại Trung Quốc - 54- Vũ Minh Tiến Khoa Ngữ Văn không lâu sau, ông lại tự giải đáp : “Tuy là quốc dân tính, nhưng nếu cần cải cách, cứ cải cách”. Ông nêu ra: “Cái cấp bách của nhiệm vụ trước mắt là: một phải sinh tồn, hai phải ấm no, ba phải phát triển. Nếu kẻ nào giám ngăn trở tiền đề đó, thì bất kể là cổ hay kim, là người hay quỷ tất cả đều phải đập cho tan nát”. Lập trường của Lỗ Tấn kiên quyết và triệt để. Sau này, ông lại nhạy bén cảm thấy rằng thái độ của thế lực cũ với những cái mới đã có thay đổi, có điều đó chỉ là thay đổi về chiến thuật, “không phải là biến mình cho hợp với sự vật mới, mà là biến sự vật mới cho hợp với mình”1. Sự thực ấy khiến ông có đầy đủ lý do để phản đối việc “chỉnh lý quốc cố”. Ông nói: “Ba bốn năm về trước, có một trào lưu tư tưởng làm hỏng mọi việc cũng đã nhiều, các học giả đều khuyên mọi người vào phòng nghiên cứu, các văn nhân lại nói tốt nhất nên chuyển đến cung điện nghệ thuật Điều đó tuy là tự mình tình nguyện, nhưng phần lớn vì tư tưởng mới mà vẫn trúng kế của “lão pháp tử”2. Trên thực tế, nguyên nhân căn bản của sự “trúng kế” đó là do “tự mình tình nguyện”. Khoảng trước và sau sự kiện Ngũ tạp, làn sóng chống đế quốc của quần chúng dâng cao, cánh hữu của giai cấp tư sản, đại biểu cho lợi ích của chủ nghĩa đế quốc do Hồ Thích cầm đầu kết cấu với thế lực phong kiến, ngăn cản cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân trên nhiều mặt. Mũi nhọn tấn công của tạp văn thời kỳ này của Lỗ Tấn từ chỗ phê phán xã hội rộng lớn, chuyển sang đấu tranh chính trị gay gắt. Nửa cuối Hoa cái tập, và trọn vẹn Hoa cái tập tục biên cùng với phần cuối tập Nấm mồ đều là các tạp văn viết xoay quanh các sự kiện như sự kiện Ngũ tạp, vụ án bi thảm “18-3”, phong trào Trường nữ sinh sư phạm Bắc Kinh. Tác giả tập trung đả kích bọn thân sĩ Aâu hoá, và bọn bồi bút cúc cung tận tụyphục vụ bọn quan liêu quân phiệt, vạch rõ nhiện vụ và ý nghĩa mới của cuộc đấu tranh cách mạng dân chủ khi bọn cánh hữu của giai cấp tư sản và thế lực phong kiến cấu kết với nhau. Các tập san đại biểu cho cơ quan ngôn luận của giai cấp tư sản lúc đó là Thần báo phụ san do Từ Chí Ma kế tục biên tập (bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 năm 1925) và Hiện đại bình luận xuất bản thay tờ báo Nỗ lực, Hồ Thích tuy không trực tiếp tham gia biên tập các tập san đó, nhưng lại đứng sau màn cổ vũ tích cực. Phong trào yêu nước của quần chúng bùng lên, một bộ phận thành viên trong bọn họ vội vàng thổ lộ tâm can với đế quốc. Từ Chí ma nói: “Đả đảo đế quốc” nào là “khẩu hiệu thời thượng”, nào là “hiện tượng chia rẽ và ghen ghét”3. Trần Nguyên lại giễu cợt quần chũng cho rẵng họ “hèn nhát, chỉ hô đánh mà không giám ra tay: Đánh! Đánh! Tuyên chiến! Người Trung Quốc như vậy đấy, thật là”4. Lỗ Tấn căm giận chỉ ra rằng: “quần chúng hô đánh mà không đánh thì quả thật là “nhát” thật, thế nhưng “dứng tít tận đằng xa” mà “nhổ nước bọt” vào đầu quần chúng, lấy việc đó để “chứng minh rằng người Trung Quốc đáng bị đánh mà không lên tiếng” thì quả thực là một sự “bỉ ổi” còn trên cả hèn nhát”5. Trong cao trào của Trường nữ sinh sư phạm Bắc Kinh, Lỗ Tấn cho ra đời nhiều bài tạp văn nhằm thẳng vào sự vu cáo bôi nhọ của bọn Trần Nguyên, ủng hộ cuộc đấu tranh của học sinh, vạch ra ngọn nguồn của những “luận điệu hoang đường” đó. Trong Một chút ví dụ ông đã dùng hình tượng sinh động để bịt mồm bọn thân sĩ Aâu hoá. Oâng nói: bọn chúng chẳng qua chỉ là dắt bầy dê vào lò mổ, “trên cổ còn đeo một chiếc nhạc nhỏ, được coi là huy hiệu của giai cấp trí thức”. Ví dụ đó không bao lâu đã được chứng minh môït cách chính xác. Ngày 28 tháng 3 năm 1926, Đoàn Kỳ Thụy bắn giết nhân dân đưa đơn thỉnh nguyện, 47 học sinh và thị dân bị chết, hơn 150 người khác bị thương. Thế mà bọn văn nhân kiểu “dẫn đầu đàn dê” ấy lại nói rằnghọc sinh không nên tham gia vào “phong trào quần chúng”, như vậy là tự nhảy vào “chỗ chết”, và đổ trách nhiệm lên đầu vị “lãnh đạo dân chúng”. Lỗ Tấn đau đớn quá đã “một lời dứt khoát” yêu cầu thanh niên phải giác ngộ ngay và quyết tâm hơn trước sự kiện “đẫm máu 1 Hoa cái tập: Bổ bạch 2 Hoa cái tập: Thông tấn 3 Rômanh Rôlăng – Thần báo phụ san, số 1299. 4 Nhàn đàm – Hiện đại bình luận, quyển 2, kỳ 38. 5 Hoa cái tập: Không phải là nhàn đàm (2). Văn học hiện đại Trung Quốc - 55- Vũ Minh Tiến Khoa Ngữ Văn này”. Trong bài văn nổi tiếng Nhớ Lưu Hòa Trân, ông tự nói rõ sự kiện này có mấy chỗ ông không ngờ tới: “Một là nhà cầm quyền sao lại hung tàn đến như vậy, hai là các chuyên gia đồn nhảm sao lại bỉ ổi đến như thế, ba là con gái Trung Quốc khi lâm nạn sao họ có thể ung dung được như vậy”.Điều thứ ba này quả thực đã cổ vũ Lỗ Tấn rất nhiều, đồng thời ông cũng lấy đó để cổ vũ người khác: “Dũng sĩ chân chính, sẽ càng phải hăng hái hơn xông lên phía trước”. Ông dự cảm thấy: tình thế đã đẩy đến đêm trước cửa một cuộc chiến đấu lớn, “Im lặng! Ôi im lặng! Không nổ ra từ trong im lặng, thì sẽ diệt vong trong im lặng mà thôi”. Ông chỉ rõ “Đây không phải là một sự việc kết thúc, mà là bắt đầu một sự việc”1. Và bọn thân sĩ Âu hóa, đồng thời với viêïc hoàn thành nhiệm vụ “dẫn đầu đàn dê” của nó, cũng là lúc chúng lộ rõ chân tướng: “Chúng là dê, đồng thời cũng là thú dữ, nhưng khi gặp phải con thú dữ, dữ hơn chúng, chúng bèn hiện hình là dê, khi gặp được dê yếu hơn chúng, chúng bèn biến thành thú dữ”2. Tạp văn của Lỗ Tấn không chỉ bao hàm kiến giải kinh tế, mà luôn khắc hoạ được những hình tượng mang ý nghĩa điển hình, vạch trần bộ mặt thật của bọn tay sai đế quốc. Oâng có nhiều cách ví von sát thực đối với bọn trí thức thuộc cánh hữu của giai cấp tư sản, ví như “những con mèo điệu bộ”, “những con chó còn nghiêm khắc hơn cả chủ”, “những con muỗi trước khi hút máu người còn vo ve mấy bài nghị luận”, “những con nhặng ong ầm ỹ suốt nửa ngày, khi ngừng thì chẳng qua cũng chỉ liếm được một tí mồ hôi” và còn “phóng uế lên đó”. Những con chó “Tuy là chó, nhưng lại giống mèo, chiết trung, công bằng, hoà nhã, đứng đắn, cái dáng ấy thật đáng kính”, thế rồi lại ngang nhiên giở bộ mặt quá khích, làm như chỉ có mình biết được “đạo trung dung”. Lỗ Tấn rất giỏi tường thuật sự thật, thông qua bình luận kỹ càng, sau đó nhào nặn nên thành hình tượng cụ thể, để lại cho bạn đọc những ấn tượng và bài học sâu sắc. Những sự đổi thay của xã hội và sự từng trải trong chiến đấu nhiều năm qua, cho ông có sự cảm ứng nhanh nhạy, bất cứ một trò giả dối nào đều không tránh được đôi mắt sắc bén của ông. Oâng hiểu kỹ tính chất của xã hội cũ thế lực cũ, do đó ông sẵn sàng có những chiến thuật và chiến lược đối phó với chúng. Lo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhxhvh0024_p1_7379.pdf