Khóa luận Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam – thực trạng và triển vọng

Từ sau khi đất nước Việt Nam giành độc lập hoàn toàn, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện của một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến. Đặc điểm này một mặt nói lên khó khăn của nước ta trong tham gia vào phân công lao động quốc tế, ảnh hưởng đến cung, cầu về hàng hóa, mặt khác nói lên tính cấp thiết, tất yếu của mở rộng ngoại thương và tham gia thị trường thế giới để tạo tiền đề cho phát triển sản xuất hàng hóa ở nước ta.

Bên cạnh đó, bối cảnh quốc tế có những thay đổi căn bản, sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN kiểu cũ đã làm Việt Nam mất đi nguồn viện trợ lớn cũng như mất đi bạn hàng trong quan hệ trao đổi hàng hóa quốc tế. Các xu hướng mới của thế giới ngày nay bắt đầu phát triển, trong đó có xu thế chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường và mở cửa của các quốc gia trên thế giới.

Trước tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi, đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới để không bị tụt hậu so với thế giới. Việt Nam phải phát huy nội lực kết hợp nguồn ngoại lực bên ngoài để có thể đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo đói, lạc hậu. Thực trạng đất nước vào giữa thập kỉ 80 với những khó khăn mới gay gắt và phức tạp đã đặt ra một yêu cầu khách quan, bức xúc có ý nghĩa quyết định trên bước đường đi lên, đó là phải đổi mới toàn diện mọi mặt đời sống kinh tế xã hội.

Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) của Đảng đã đánh dấu mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta, trong đó đổi mới kinh tế là lĩnh vực quan trọng. Đại hội VI đã rút ra một bài học kinh nghiệm “phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới”. Do đó Đảng và Nhà nước ta đă đưa ra chính sách kinh tế đối ngoại trong sự nghiệp đổi mới của nước ta như sau :

- Đẩy mạnh xuất khẩu.

- Phát triển và mở rộng hợp tác kinh tế và khoa học kĩ thuật với bên ngoài, áp dụng rộng rãi các hình thức hợp tác và liên kết với các nước XHCN và các nước khác.

- Đa dạng hóa thị trường và phương hướng hoạt động theo quan điểm “mở cửa”, từng bước gắn nền kinh tế quốc dân với nền kinh tế thế giới, thị trường trong nước với thị trường quốc tế.

Trên đà đổi mới, Đại hội VII của Đảng đã quyết định chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 1991 – 2000, giải pháp để thực hiện thành công chiến lược này chính là thực hiện công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Như vậy, hoạt động xuất khẩu được đặc biệt chú trọng. Công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu đòi hỏi Việt Nam phải phát triển một nền ngoại thương hiện đại, đẩy mạnh xuất khẩu – coi xuất khẩu là nhiệm vụ trọng tâm của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy, trong hơn 10 năm thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta đã thu được những kết quả khả quan, song cũng còn những hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện.

Xuất nhập khẩu hàng hóa có vai trò vô cùng quan trọng đối với nước ta trong những năm vừa qua. Do đó, sinh viên xin được chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp : “Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam – Thực trạng và triển vọng” để nghiên cứu, đánh giá tình hình xuất nhập khẩu những năm qua, những thành công, những hạn chế từ đó đưa ra một vài biện pháp thúc đẩy hoạt động ngoại thương của Việt Nam trong những năm tới.

Bài viết gồm 3 chương :

Chương 1. Một số vấn đề chung về ngoại thương và kinh nghiệm của một số nước.

Chương 2. Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ 1990 đến nay.

Chương 3. Triển vọng và các giải pháp phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam.

 

 

doc82 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Khóa luận Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam – thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Từ sau khi đất nước Việt Nam giành độc lập hoàn toàn, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện của một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến. Đặc điểm này một mặt nói lên khó khăn của nước ta trong tham gia vào phân công lao động quốc tế, ảnh hưởng đến cung, cầu về hàng hóa, mặt khác nói lên tính cấp thiết, tất yếu của mở rộng ngoại thương và tham gia thị trường thế giới để tạo tiền đề cho phát triển sản xuất hàng hóa ở nước ta. Bên cạnh đó, bối cảnh quốc tế có những thay đổi căn bản, sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN kiểu cũ đã làm Việt Nam mất đi nguồn viện trợ lớn cũng như mất đi bạn hàng trong quan hệ trao đổi hàng hóa quốc tế. Các xu hướng mới của thế giới ngày nay bắt đầu phát triển, trong đó có xu thế chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường và mở cửa của các quốc gia trên thế giới. Trước tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi, đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới để không bị tụt hậu so với thế giới. Việt Nam phải phát huy nội lực kết hợp nguồn ngoại lực bên ngoài để có thể đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo đói, lạc hậu. Thực trạng đất nước vào giữa thập kỉ 80 với những khó khăn mới gay gắt và phức tạp đã đặt ra một yêu cầu khách quan, bức xúc có ý nghĩa quyết định trên bước đường đi lên, đó là phải đổi mới toàn diện mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) của Đảng đã đánh dấu mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta, trong đó đổi mới kinh tế là lĩnh vực quan trọng. Đại hội VI đã rút ra một bài học kinh nghiệm “phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới”. Do đó Đảng và Nhà nước ta đă đưa ra chính sách kinh tế đối ngoại trong sự nghiệp đổi mới của nước ta như sau : - Đẩy mạnh xuất khẩu. - Phát triển và mở rộng hợp tác kinh tế và khoa học kĩ thuật với bên ngoài, áp dụng rộng rãi các hình thức hợp tác và liên kết với các nước XHCN và các nước khác. - Đa dạng hóa thị trường và phương hướng hoạt động theo quan điểm “mở cửa”, từng bước gắn nền kinh tế quốc dân với nền kinh tế thế giới, thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Trên đà đổi mới, Đại hội VII của Đảng đã quyết định chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 1991 – 2000, giải pháp để thực hiện thành công chiến lược này chính là thực hiện công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Như vậy, hoạt động xuất khẩu được đặc biệt chú trọng. Công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu đòi hỏi Việt Nam phải phát triển một nền ngoại thương hiện đại, đẩy mạnh xuất khẩu – coi xuất khẩu là nhiệm vụ trọng tâm của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy, trong hơn 10 năm thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta đã thu được những kết quả khả quan, song cũng còn những hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện. Xuất nhập khẩu hàng hóa có vai trò vô cùng quan trọng đối với nước ta trong những năm vừa qua. Do đó, sinh viên xin được chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp : “Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam – Thực trạng và triển vọng” để nghiên cứu, đánh giá tình hình xuất nhập khẩu những năm qua, những thành công, những hạn chế từ đó đưa ra một vài biện pháp thúc đẩy hoạt động ngoại thương của Việt Nam trong những năm tới. Bài viết gồm 3 chương : Chương 1. Một số vấn đề chung về ngoại thương và kinh nghiệm của một số nước. Chương 2. Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ 1990 đến nay. Chương 3. Triển vọng và các giải pháp phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam. Chương 1. Một số vấn đề chung về ngoại thương và kinh nghiệm của một số nước Trước hết, chúng ta sẽ cùng xem xét cơ sở lý thuyết về ngoại thương - một số lý thuyết về ngoại thương và sự vận dụng lý thuyết đó của một số nước, để thấy được tầm quan trọng của hoạt động ngoại thương đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia trong điều kiện hội nhập vào nền kinh tế thế giới. 1.1. Một số vấn đề chung về ngoại thương Câu hỏi đặt ra là : Ngoại thương là gì ? Vì sạo lại có ngoại thương ? Vì sao trong nền kinh tế hiện đại các quốc gia lại xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ ? Quốc gia nào có lợi trong việc trao đổi hàng hóa này ? Những nhân tố nào ảnh hưởng đến hoạt động ngoại thương giữa các quốc gia ? 1.1.1. Khái niệm và vai trò của ngoại thương đối với nền kinh tế Ngoại thương là sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ (hàng hóa hữu hình và vô hình) giữa các quốc gia. Điều này có nghĩa là hoạt động ngoại thương mang tính quốc tế. Thông thường, việc trao đổi mua bán này lấy tiền tệ làm môi giới và tuân theo nguyên tắc ngang giá. Đồng tiền được sử dụng để thanh toán có thể là đồng tiền quốc gia của một bên, hoặc đồng tiền của một nước thứ ba (thường là những đồng tiền mạnh như đôla) hoặc vàng. Ngoài ra còn có hình thức trao đổi trực tiếp được gọi là “hàng đổi hàng”, tức là sự trao đổi trực tiếp một hàng hóa hay dịch vụ này để lấy một hàng hóa hay dịch vụ khác. Các bên tham gia mua bán có thể là các cơ quan nhà nước, các công ty tư nhân, hoặc các cá nhân. Hoạt động ngoại thương bao gồm : xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa hữu hình và vô hình, gia công tái xuất khẩu, xuất khẩu tại chỗ (bán hàng thu ngoại tệ trong nước)... Trong đó, xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt động ngoại thương ở các nước nói chung và ở nước ta nói riêng. Trong khuôn khổ luận văn, khi nghiên cứu về ngoại thương sinh viên chỉ xin đề cập đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa hữu hình – lĩnh vực hoạt động chiếm phần lớn trong tỉ trọng ngoại thương của các quốc gia nói chung, và của Việt Nam nói riêng. Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hóa, dịch vụ của nước mình sang thị trường nước ngoài. Nhập khẩu là hoạt động mua hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài vào thị trường nội địa. Nhìn chung, trong hoạt động xuất nhập khẩu thì hàng hóa, dịch vụ luôn được di chuyển vượt qua phạm vi biên giới quốc gia. Xuất nhập khẩu hàng hóa hữu hình như nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, lương thực thực phẩm, các loại hàng tiêu dùng... Xuất nhập khẩu hàng hóa vô hình như các bí quyết công nghệ, bằng phát minh sáng chế, phần mềm máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các dịch vụ lắp ráp thiết bị máy móc, dịch vụ du lịch và nhiều loại hình dịch vụ khác... Bên cạnh đó còn có hình thức xuất khẩu tại chỗ. Trong xuất khẩu tại chỗ, hàng hóa, dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hóa dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế. Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt được hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh. Lợi ích thu được từ ngoại thương là gì ? Khi các nước trao đổi hàng hóa và dịch vụ cho nhau, họ đều có lợi, kể cả khi một bên sản xuất tất cả mọi sản phẩm có hiệu quả cao hơn bên kia. Bởi trong quá trình trao đổi buôn bán giữa hai quốc gia, đã làm cho tổng sản phẩm tiêu dùng của cả hai nước được tăng lên, cao hơn so với khi các quốc gia không trao đổi buôn bán với bên ngoài. Nghĩa là lượng sản phẩm tiêu dùng trong quốc gia đã vượt ra ngoài giới hạn khả năng sản xuất của quốc gia đó. Buôn bán đem lại nguồn lợi thông qua việc cho phép các nước xuất khẩu những hàng hóa mà quá trình sản xuất sử dụng tương đối nhiều nguồn lực sẵn có dồi dào trong nước, trong khi nhập khẩu những hàng hóa mà quá trình sản xuất đòi hỏi phải sử dụng nhiều nguồn lực mà trong nước khan hiếm. Hoạt động ngoại thương cũng hướng các nước đi vào chuyên môn hóa sản xuất ở phạm vi hẹp hơn các mặt hàng, cho phép họ đạt được hiệu quả cao khi sản xuất theo quy mô lớn. Hoạt động ngoại thương, có thể nói có một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của một quốc gia hiện nay, bởi nó mang lại những hiệu quả hữu ích sau đây cho nền kinh tế : Thứ nhất, ngoại thương làm biến đổi cơ cấu giá trị sử dụng của sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước thông qua việc xuất khẩu và nhập khẩu nhằm đạt cơ cấu có lợi cho nền kinh tế trong nước – làm lợi cho nền kinh tế quốc dân về mặt giá trị sử dụng. Thứ hai, ngoại thương đã góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân, do việc mở rộng trao đổi mà khai thác triệt để lợi thế của nền kinh tế trong nước trên cơ sở phân công lao động quốc tế, nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành. Chúng ta thấy rằng, khi chưa có hoạt động ngoại thương, một nước sản xuất và tiêu dùng sản phẩm hàng hóa dịch vụ của mình theo hướng sản xuất tự cung tự cấp, trao đổi trong nước, không có mối liên hệ với các bạn hàng nước ngoài. Quốc gia đó chỉ có thể tiêu dùng những sản phẩm mà quốc gia có đủ nguồn lực để sản xuất, còn những hàng hóa mà quốc gia không có đủ nguồn lực để sản xuất thì những sản phẩm đó quốc gia sẽ không có để tiêu dùng. Khi quốc gia mở rộng hoạt động ngoại thương của nước mình, quốc gia đó đã tăng phần giá trị sử dụng của nước mình lên, do đã có thêm được một phần hàng hóa dịch vụ từ hoạt động nhập khẩu tiêu thụ ở trong nước, mà phần lớn những sản phẩm này quốc gia khó, hoặc không thể sản xuất được. Xét về mặt số lượng và chủng loại hàng hóa thì rõ ràng, ngoại thương đã làm cho số lượng và chủng loại hàng hóa tăng lên trong nước, người tiêu dùng có quyền được sử dụng những sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài vào, có nghĩa là giá trị sử dụng đã được tăng lên. Chất lượng sản phẩm hàng hóa dịch vụ cũng tăng lên, do các sản phẩm nhập khẩu có chất lượng cũng như mẫu mã vô cùng phong phú. Các nhà sản xuất các sản phẩm cùng loại trên thị trường nội địa cũng phải cải tiến công nghệ, để cạnh tranh với sản phẩm ngoại nhập. Kết quả là hàng hóa dịch vụ ngày một cải tiến, chất lượng mẫu mã phong phú, số lượng tăng lên mà giá thành lại hạ, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của dân chúng. Như vậy, xét về phía người tiêu dùng, ngoại thương đã đem lại cho họ nhiều sự lựa chọn hơn trong việc mua sắm các hàng hóa dịch vụ, người tiêu dùng sẽ được sử dụng những sản phẩm hàng hóa dịch vụ tốt nhất, với giá thành rẻ nhất. Giá trị sử dụng của sản phẩm xã hội đã tăng lên đáng kể so với khi không mở rộng hoạt động ngoại thương. Về phía các doanh nghiệp trong nước, họ phải cải tiến công nghệ, áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, tăng năng suất lao động, tổ chức quản lý một cách hiệu quả v.v... để có thể sản xuất được những sản phẩm đảm bảo đủ chất lượng, mẫu mã đẹp, phong phú, từ đó cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu, tạo sự vững mạnh trên thị trường trong nước. Điều này có nghĩa là hoạt động ngoại thương của một quốc gia đã tạo đà cho các doanh nghiệp trong nước phải liên tục đổi mới để đứng vững trên thị trường trong nước, từng doanh nghiệp vững mạnh cũng đồng nghĩa với việc nền kinh tế của quốc gia đó ngày một tăng trưởng và phát triển lành mạnh. Hơn nữa, có đổi mới công nghệ không chỉ để giữ được thị phần trong nước mà đổi mới công nghệ, tạo sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, các doanh nghiệp sẽ có thể bán được hàng hóa của mình trên thị trường quốc tế, thu khoản lợi nhuận đáng kể, đem lại nguồn ngoại tệ cho quốc gia. Chính yêu cầu phải phát huy được những lợi thế của quốc gia như về nguồn lực tự nhiên, nguồn lao động giá rẻ, hay khoa học kĩ thuật hiện đại đã làm cho một quốc gia lựa chọn những ngành, lĩnh vực mà quốc gia đó có lợi thế so sánh hơn quốc gia khác để tập trung phát triển những ngành, lĩnh vực này. Sự chuyên môn hóa sản xuất đã làm cho cơ cấu nền kinh tế dần thay đổi phù hợp với tiềm lực phát triển của quốc gia đó. Cơ cấu kinh tế phù hợp lại tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Sự cạnh tranh trong hoạt động ngoại thương giữa các doanh nghiệp trong cùng một nước, giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài, giữa các quốc gia với nhau thể hiện ở chính sản phẩm hàng hóa dịch vụ mà doanh nghiệp, quốc gia đó cung ứng trên thị trường. Sự cạnh tranh này ngày càng gay gắt quyết liệt nhưng lại rất lành mạnh đã làm cho năng suất lao động ngày một tăng lên và giá thành sản phẩm hạ đến mức tối thiểu. Xét một cách tổng thể thì ngoại thương có một vai trò vô cùng to lớn trong quá trình tồn tại, phát triển của một quốc gia. Một quốc gia ngày nay, hoạt động kinh tế không thể loại trừ hoạt động ngoại thương, nếu không quốc gia đó cũng xem như “một quốc gia chết” vì không có một mối liên hệ nào với môi trường bên ngoài, với môi trường thế giới luôn biến đổi không ngừng. Không có ngoại thương một quốc gia không thể tự mình thực hiện những quá trình thay đổi căn bản bộ mặt của đất nước, vì không một quốc gia nào có đủ điều kiện và nguồn lực để thực hiện mọi hoạt động kinh tế của mình. Ngoại thương đã làm cho nền kinh tế quốc dân của một nước vận động và phát triển cùng với xu thế của thế giới, theo kịp những thay đổi của thế giới, cũng như làm cho thị trường trong nước đạt được hiệu quả cao hơn rất nhiều. Một mối liên hệ chặt chẽ giữa xuất khẩu và nhập khẩu đã làm cho hoạt động ngoại thương của một quốc gia được vận hành thông suốt. Xuất khẩu và nhập khẩu luôn luôn ràng buộc với nhau. Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu. Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng hóa xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài, đặc biệt là nước nhập khẩu. Một quốc gia xuất khẩu những hàng hóa mà họ sản xuất ra với một lợi thế so sánh so với các hàng hóa trên thị trường quốc tế. Như vậy là nguồn lực trong nước đã được tận dụng một cách có hiệu quả. Ngược lại, một quốc gia thường nhập khẩu những hàng hóa mà họ không có khả năng sản xuất hoặc sản phẩm không đủ sức cạnh tranh, do không có lợi thế so sánh, vì vậy chi phí sản xuất trong nước cao hơn so với chi phí trung bình của thế giới. Xuất khẩu và nhập khẩu luôn được duy trì song song trong hoạt động ngoại thương. Sự tồn tại song song với một tỉ lệ xuất và nhập hợp lý chính là biểu hiện của một nền kinh tế hoạt động hiệu quả. Bởi nếu chỉ có xuất khẩu không thôi thì không đáp ứng được hết những nhu cầu của thị trường trong nước, còn nếu chỉ nhập khẩu thì thị trường trong nước lại phụ thuộc quá lớn vào hàng hóa của nước ngoài, nền kinh tế trong nước không phát triển được, các hàng hóa trong nước không có điều kiện cọ sát trên thị trường thế giới, từ đó cải tiến để phù hợp với thế giới. Chưa kể đến việc quốc gia đó không đủ kinh phí để nhập khẩu ngày một nhiều hơn số lượng hàng hóa của nước ngoài. Tóm lại, hoạt động ngoại thương giữ một vai trò không nhỏ trong sự phát triển của một quốc gia trong hoàn cảnh thế giới hiện nay. Bởi ngoại thương là cách thức tiếp cận thị trường thế giới phổ biến nhất, gắn trực tiếp với hoạt động trao đổi hàng hóa dịch vụ với thế giới. Trong đó cả xuất khẩu và nhập khẩu đều có vai trò quan trọng như nhau, và phải được điều chỉnh một cách hợp lý. Điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu một cách hợp lý chính là việc làm cho hoạt động ngoại thương của quốc gia đó ngày một phát triển, tạo thuận lợi cho sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế – và là sự thể hiện vai trò của ngoại thương một cách rõ nét nhất : làm thay đổi cơ cấu kinh tế của một quốc gia theo hướng ngày một tiên tiến hiện đại và phù hợp với sự thay đổi chung của thế giới. 1.1.2. Một số lý thuyết cơ bản về ngoại thương Sau đây là một số lý thuyết cơ bản về ngoại thương, giải thích tại sao các nước lại có lợi khi tham gia vào hoạt động trao đổi hàng hóa với nước ngoài. * Lý thuyết thương mại dựa trên lợi thế tuyệt đối (Lý thuyết của Adam Smith, bắt đầu từ giữa thế kỉ XVIII) Theo A.Smith mỗi quốc gia nên chuyên môn hóa vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối, sau đó tiến hành trao đổi những sản phẩm chuyên môn hóa này thì các bên tham gia đều có lợi. Ví dụ minh họa bằng số của lợi thế tuyệt đối : Sản phẩm Nước Mỹ Nước Anh Lương thực (kg/người/h) 6 4 Vải (m/người/h) 4 5 Ví dụ trên cho thấy năng suất lao động về sản xuất lương thực ở nước Mỹ lớn gấp 6 lần nước Anh. Như vậy, chi phí để sản xuất 1kg lương thực ở nước Mỹ chỉ bằng 1/6 của nước Anh. Nước Mỹ có lợi thế tuyệt đối về sản xuất lương thực. Năng suất lao động về sản xuất vải ở nước Anh gấp 5/4 lần của nước Mỹ. Như vậy chi phí để sản xuất 1m vải ở Anh chỉ bằng 4/5 của nước Mỹ. Nước Anh có lợi thế tuyệt đối về sản xuất vải. Phân tích lợi ích của thương mại : Giả sử nếu như không có thương mại, nước Mỹ chỉ đem 6kg lương thực để đổi 4m vải và ngược lại. Còn nước Anh đưa 1kg lương thực để đổi 5m vải và ngược lại. Khi có thương mại, nước Mỹ sẽ chuyên môn hóa về sản xuất lương thực (sản phẩm nước Mỹ có lợi thế tuyệt đối) và năng suất lao động là 6kg/h , nước Anh sẽ chuyên môn hóa về sản xuất vải (sản phẩm nước Anh có lợi thế tuyệt đối) và năng suất lao động là 5m vải/h. Khi đó hai nước trao đổi sản phẩm cho nhau và tỉ lệ trao đổi là 6kg lương thực đổi lấy 6m vải, so với trao đổi trong nước, nước Mỹ dư ra được 2m vải : tiết kiệm được 1/2h lao động. Đối với nước Anh, để có 6kg lương thực thì phải bỏ ra 6h , nhưng nước Anh dùng 6h đó vào sản xuất vải và sản lượng vải đạt được là 30m (6h x 5m). Nước Anh dùng 6m vải để đổi 6kg lương thực, số lượng vải còn lại là 24m : tiết kiệm được gần 5h lao động. A.Smith đã chứng minh được rằng : thương mại dựa trên lợi thế tuyệt đối đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia. Tuy vậy, A.Smith không giải thích được hiện tượng : Một nước có lợi thế hơn hẳn các nước khác hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối nào cả thì chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế là ở đâu và thương mại quốc tế sẽ diễn ra như thế nào đối với các nước này ? Có nghĩa là lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần nhỏ của thương mại là thương mại giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Lợi thế tuyệt đối là một trường hợp của lợi thế so sánh. * Lý thuyết lợi thế so sánh (lợi thế tương đối) Theo quy luật lợi thế so sánh, do D.Ricardo phát hiện, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào hoạt động ngoại thương để tạo ra lợi ích. Khi tham gia vào hoạt động ngoại thương, quốc gia đó sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hóa mà việc sản xuất chúng ít bị bất lợi nhất (đó là những hàng hóa có lợi thế tương đối) và nhập khẩu các loại hàng hóa mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất (đó là hàng hóa không có lợi thế tương đối). Mô hình đơn giản của D.Ricardo dựa trên các giả thiết sau đây : a. Thế giới chỉ có hai quốc gia và chỉ sản xuất hai mặt hàng, mỗi quốc gia có lợi thế về một mặt hàng. b. Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất có thể di chuyển trong mỗi nước, nhưng không di chuyển giữa các nước. c. Công nghệ sản xuất ở hai nước là cố định. d. Chi phí sản xuất cố định. e. Không có chi phí vận tải. g. Thương mại hoàn toàn tự do giữa hai nước. Nội dung : Một nước luôn có thể và rất có lợi khi tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Bởi vì phát triển ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Một quốc gia chuyên môn hóa vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hóa của mình để đổi hàng nhập khẩu từ các nước khác. Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn hẳn các nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối so với các nước khác trong sản xuất mọi sản phẩm, thì vẫn có thể và vẫn có lợi khi tham gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế. Bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng khác. Ví dụ minh họa lợi thế so sánh của hai quốc gia : Sản phẩm Nước Mỹ Nước Anh Lương thực (kg/ng – h) 6 1 Vải (m/ng – h) 4 2 Nước Mỹ có lợi thế tuyệt đối về sản xuất hai sản phẩm. Tuy nhiên, nếu so sánh giữa lương thực và vải thì Anh có lợi thế so sánh về vải, vì năng suất lao động sản xuất vải của Anh chỉ bằng 1/2 năng suất lao động sản xuất vải của Mỹ (2 so với 4). Trong khi đó năng suất lao động sản xuất lương thực của Anh chỉ bằng 1/6 so với Mỹ. Ngược lại, chi phí sản xuất cả hai sản phẩm ở Mỹ đều thấp hơn so với Anh, nhưng như thế không có nghĩa là Mỹ sẽ sản xuất cả hai sản phẩm mà chỉ tập trung sản xuất sản phẩm nào có lợi thế so sánh. Năng suất lao động sản xuất lương thực của Mỹ gấp 6 lần so với Anh (6 so với 1). Năng suất lao động sản xuất vải của Mỹ gấp 2 lần so với Anh (4 so với 2). So sánh : Mỹ có lợi thế so sánh về sản xuất lương thực. Phân tích lợi ích của thương mại : Nếu như không có thương mại, nước Mỹ chỉ có thể đem 6kg lương thực đổi lấy 4m vải và ngược lại, đem 4m vải để đổi lấy 6kg lương thực, còn nước Anh đem 1kg lương thực đổi lấy 2m vải và ngược lại, đem 2m vải để đổi lấy 1kg lương thực. Khi có thương mại, nước Mỹ sẽ chuyên môn hóa về sản xuất lương thực, còn nước Anh sẽ chuyên môn hóa về sản xuất vải. Nước Mỹ dùng 6kg lương thực để đổi lấy 6m vải. Như vậy, so với trao đổi trong nước dư ra được 2m vải (nên tiết kiệm được 1/2 h lao động). Nước Anh muốn có 6kg lương thực thì phải bỏ ra 6h, nay 6h đó được dùng vào sản xuất vải (sản phẩm nước Anh có lợi thế so sánh) và sản xuất ra một lượng vải là 12m vải. Nước Anh dùng 6m vải để đổi lấy 6kg lương thực, như vậy lượng vải còn dư ra 6m (tiết kiệm được 3h lao động). Qua đó D.Ricardo đã chứng minh được rằng : thương mại dựa trên lợi thế so sánh đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia. Song hạn chế là không giải thích được nguồn gốc phát sinh thuận lợi của một nước đối với một loại sản phẩm nào đó, do vậy không giải thích triệt để nguyên nhân sâu xa của quá trình thương mại quốc tế. * Lý thuyết chuẩn về thương mại quốc tế : mô hình thương mại với chi phí cơ hội tăng, đồng thời có tính đến cầu. + Giới hạn khả năng sản xuất với chi phí cơ hội tăng. Chi phí cơ hội tăng là việc quốc gia phải hi sinh (bỏ ra) nhiều và nhiều hơn một sản phẩm để dành tài nguyên cho việc sản xuất một đơn vị sản phẩm khác. Chi phí cơ hội tăng kết quả đường giới hạn khả năng sản xuất là một đường cong lõm nhìn từ gốc tọa độ. + Tỉ lệ biên của sự di chuyển. Chi phí cơ hội tăng được biểu thị qua một khái niệm là tỉ lệ biên của sự di chuyển (MRT). Như vậy, tỉ lệ biên của sự di chuyển sản phẩm X đối với sản phẩm Y được biểu thị qua số lượng sản phẩm Y mà quốc gia cần phải bỏ ra để sản xuất tăng thêm một đơn vị sản phẩm X. MRT được đo bằng độ nghiêng tuyệt đối của đường giới hạn sản xuất tại điểm sản xuất. + Đường cong bàng quan đại chúng. Đường cong bàng quan đại chúng chỉ ra sự kết hợp khác nhau của hai sản phẩm mà sản lượng của chúng tương đương (bằng) với sự thỏa mãn đúng như nhau của người tiêu dùng. Nghĩa là người tiêu dùng có thái độ “bàng quan” giữa hai điểm bất kỳ trên đường cong đó. Đường cong bàng quan càng nằm xa hơn về phía Đông Bắc so với gốc tọa độ thể hiện sự thỏa mãn càng lớn và ngược lại, những đường cong càng gần gốc tọa độ biểu hiện sự thỏa mãn còn ít. Đặc điểm của đường bàng quan đại chúng là có độ nghiêng âm (tức dốc xuống), lồi về điểm gốc tọa độ và không giao nhau. Để biểu thị số lượng sản phẩm Y mà quốc gia 1 phải bỏ ra để thay thế tiêu dùng trên một đơn vị sản phẩm X, làm cho mức độ thỏa mãn chung là không thay đổi, người ta dùng đại lượng có tên gọi là tỉ lệ thay thế biên tế (MRS). MRS được đo bằng độ nghiêng của đường bàng quan đại chúng tại điểm tiêu dùng. Phân tích cơ sở và lợi ích từ thương mại với chi phí cơ hội tăng Vì có sự khác nhau trong giá cả sản phẩm so sánh giữa hai quốc gia là biểu hiện của lợi thế so sánh nên hai quốc gia tiến hành thương mại với nhau để cùng có lợi. Tuy nhiên, vì mỗi quốc gia chuyên môn hóa vào sản xuất sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh nên họ phải chịu một chi phí cơ hội tăng lên. Quá trình chuyên môn hóa cứ tiếp tục cho đến khi nào giá cả sản phẩm so sánh ở cả hai quốc gia trở nên bằng nhau, và tại đó thương mại đạt trạng thái cân bằng. Cuối cùng với thương mại cả hai quốc gia đều tiêu dùng nhiều hơn so với khi không có thương mại. Biểu đồ : Phân tích lợi ích của thương mại với chi phí cơ hội tăng Y Quốc gia 1 III E 80 A 60 B Pb=1 50 130 70 0 Quốc gia 2 Y X B’ 120 E’ 60 A’ III’ X 0 80 40 Bắt đầu từ điểm xuất phát A (điểm cân bằng khi không có thương mại), quốc gia 1 chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm X và di chuyển xuống phía dưới trên đường giới hạn sản xuất, gánh chịu chi phí cơ hội tăng trong sản xuất sản phẩm X (thể hiện độ nghiêng tăng lên của đường giới hạn sản xuất). Bắt đầu từ điểm A’ quốc gia 2 chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm Y nên nó chuyển động lên phía trên theo đường giới hạn sản xuất, chịu chi phí cơ hội tăng trong sản xuất sản phẩm Y, thể hiện độ nghiêng giảm của đường giới hạn sản xuất. (Một sự giảm chi phí cơ hội của sản phẩm X, nghĩa là làm tăng chi phí cơ hội đối với sản phẩm Y). Quá trình chuyên môn hóa có tiếp tục cho đến khi giá cả sản phẩm so sánh ngang bằng nhau giữa hai quốc gia. Giá cả sản phẩm so sánh chung ấy sẽ đạt tới đâu đó giữa 1/4 và 4 là những giá cả sản phẩm so sánh của hai quốc gia trước khi có thương mại. Tại điểm này mậu dịch sẽ cân bằng. Khi có thương mại, sản xuất của quốc gia 1 chuyển từ điểm A xuống điểm B trên đường giới hạn sản xuất. Tại đây quốc gia 1 đổi 60X lấy 60Y từ quốc gia 2 (tỉ lệ trao đổi là 1 đổi 1). Cuối cùng quốc gia 1 sẽ tiêu dùng tại điểm E (70X và 80Y) trên đường bàng quan III. Nếu so sánh với điểm A thì quốc gia 1 đã có lợi 20X và 20Y. Tương tự như vậy, sản xuất củ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100659.doc
Tài liệu liên quan