Khoá luận tốt nghiệp : hiệp định thương mại việt - Mỹ với vấn đề xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang mỹ

Ngày nay, xu thếquốc tếhoá và toàn cầu hoá là xu thếchung của các nước, các

khu vực và toàn thếgiới. Các nước ngày càng phát triển thì càng phụthuộc lẫn

nhau nhiều hơn trên tinh thần hợp tác bình đẳng, tôn trọng chủquyền và cùng có

lợi.

pdf88 trang | Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 957 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Khoá luận tốt nghiệp : hiệp định thương mại việt - Mỹ với vấn đề xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT - MỸ VỚI VẤN ĐỀ XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM SANG MỸ NGƯỜI THỰC HIỆN : TRẦN LƯU HOÀNG LỚP A1CN9 KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : THS. PHẠM THU HƯƠNG HÀ NỘI 2003 2 LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay, xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá là xu thế chung của các nước, các khu vực và toàn thế giới. Các nước ngày càng phát triển thì càng phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn trên tinh thần hợp tác bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và cùng có lợi. Việt Nam từ khi mở cửa kinh tế đến nay đã thu được nhiều thành công, mà thành công trong phát triển kinh tế là rất quan trọng. Cán cân thương mại giữa Việt Nam và các nước ngày càng lớn. Trên con đường hội nhập vào xu thế quốc tế hoá của kinh tế thế giới, quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với các nước là vô cùng quan trọng. Cho đến nay Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với trên 120 nước, đã ký Hiệp định thương mại với trên 60 nước và thoả thuận về quy chế tối huệ quốc với hơn 70 nước và vùng lãnh thổ, trong đó quan hệ thương mại với Hoa Kỳ là rất quan trọng. Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ được thiết lập năm 1995 đã giúp cho thương mại giữa hai nước ngày càng được cải thiện. Tiến trình bình thường hoá quan hệ kinh tế đã được cụ thể hoá bằng Hiệp định thương mại Việt - Mỹ ngày 13/7/2000, trong đó hai bên cam kết dành cho nhau qui chế tối huệ quốc ngay lập tức và vô điều kiện. Hiệp định thương mại giữa hai nước đã là tiền đề quan trọng cho hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Mỹ, một thị trường lớn có nhiều phân đoạn. Tuy nhiên với trình độ sản xuất còn hạn chế, hàng Việt Nam gặp không ít thách thức khi vào thị trường này. Do đó, Việt Nam cần phải đưa ra được những định hướng, chủ trương kịp thời để thực hiện Hiệp định thương mại hiệu quả góp phần phát triển tốt kinh tế đất nước. Hiểu được tầm quan trọng của Hiệp định thương mại đối với hoạt động xuất nhập khẩu của đất nước, em chọn đề tài: “Hiệp định thương mại Việt- Mỹ với vấn đề xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ”. Nội dung của khoá luận tốt nghiệp được trình bày trong 3 chương : 3 Chương I: Tổng quan về Hiệp định thương mại Việt- Mỹ và nhu cầu của thị trường Mỹ. Chương II: Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và cơ hội - thách thức đối với việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ Chương III: Đánh giá việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ Em đã cố gắng thu thập, xử lý thông tin và đem những kiến thức đã học được ở trường Đại học Ngoại thương để hoàn thành khoá luận này. Tuy nhiên, do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của thày cô và bạn bè để khoá luận được hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Phạm Thu Hương, THS, Giảng viên trường Đại học Ngoại thương, đã hướng dẫn em hoàn thành khoá luận này. 4 CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT- MỸ VÀ NHU CẦU CỦA THỊ TRƯỜNG MỸ. I. Tổng quan về Hiệp định thương mại Việt-Mỹ 1. Bối cảnh cuộc đàm phán thương mại Việt - Mỹ 1.1 Bối cảnh chung Xu hướng phát triển kinh tế thế giới hiện nay là toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế tác động mạnh mẽ đến sự phát triển thương mại trên phạm vi toàn thế giới. Toàn cầu hoá là hướng tới một nền kinh tế toàn cầu thống nhất không còn biên giới quốc gia về kinh tế. Đó là, quá trình liên kết hợp nhất của các nền kinh tế quốc gia vào kinh tế thế giới trên tất cả các lĩnh vực: sản xuất, thương mại, đầu tư, tài chính, thông tin, vận tải, bảo hiểm, dịch vụ … Trình độ phát triển ngày càng cao, hình thành các hệ thống sản xuất, phân phối tài chính, các mạng lưới thông tin liên lạc, giao thông vận tải toàn cầu, hình thành các công ty xuyên quốc gia, các hệ thống tài chính quốc tế và các trung tâm kinh tế thế giới quan trọng. Những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều, trở nên bức xúc, đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu của các quốc gia. Chúng ta có thể thấy hàng loạt các vấn đề nóng bỏng toàn cầu như: Thương mại, đầu tư, tiền tệ, dân số, lương thực, năng lượng, môi trường… Môi trường toàn cầu ngày càng bị phá hoại, các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt; Dân số thế giới tăng nhanh trở thành một thách thức lớn; Các dòng vốn toàn cầu vận động tự do không có sự phối hợp điều tiết đã làm nảy sinh các cuộc khủng hoảng liên tiếp ở Châu âu, Châu Mỹ, và Châu á trong các thập kỷ cuối thể kỷ vừa qua. Điều cần thiết là phải có sự phối hợp toàn cầu để đối phó với các thách thức đó. Chính sách của từng chính phủ chỉ tác động ở từng quốc gia riêng lẻ. Còn trên bình diện thế giới chưa có một “bàn tay hữu hình” chung làm chức năng điều tiết toàn cầu. Mà sau khi chấm dứt chiến 5 tranh lạnh, chấm dứt sự đối đầu giữa các cường quốc thì thời kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển đã làm cho kinh tế thế giới sôi động hơn. Các nước trao đổi buôn bán với nhau nhiều hơn. Toàn cầu hoá là một quá trình tất yếu, là hệ quả của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, của các phương tiện khoa học công nghệ. Toàn cầu hoá, khu vực hoá dẫn đến hội nhập quốc tế. Trong xu hướng đó, các nước ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau, tạo điều kiện đẩy lùi nguy cơ chiến tranh thế giới. Duy trì môi trường hoà bình ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế quốc gia, khu vực và thế giới ngày càng phát triển. Tự do hoá thương mại, xoá dần đi các hàng rào thuế quan, phi thuế quan, các phân biệt đối xử trong quan hệ buôn bán quốc tế. Buôn bán quốc tế chuyển sang một thời kỳ mới đó là mở rộng tự do buôn bán được cụ thể hoá bằng việc ra đời WTO và những ưu đãi thương mại trong khuôn khổ hợp tác cùng có lợi. 1.2. Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hoá như vậy, vấn đề hội nhập để phát triển theo kịp thế giới đối với Việt Nam là một tất yếu khách quan. Con đường thích hợp với Việt Nam là hội nhập để kết nối thị trường trong nước với khu vực và trên thế giới, tạo ra môi trường kinh doanh có khả năng cạnh tranh cao. Với đường lối đối ngoại rộng mở Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước, sẵn sàng mở rộng hợp tác, quan hệ hữu nghị với các nước trên thế giới, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Hội nhập là quá trình tham gia vào cạnh tranh quốc tế cũng như cạnh tranh ở thị trường nội địa. Hội nhập tốt thì sản phẩm của Việt Nam sẽ có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế, các nguồn đầu vào của sản xuất và kinh doanh trong nước ngày càng phong phú, dễ lựa chọn những loại hàng hoá có chất lượng cao mở rộng tiêu dùng trong nước, kích thích nhu cầu, tăng đầu tư và đưa ra những sản phẩm có chất lượng cao ngang tầm quốc tế. Khi thực hiện tự do hoá thương mại, Việt Nam tham gia nhanh chóng vào hệ thống phân công lao động quốc tế hiện đại. 6 Hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới giúp Việt Nam phát triển kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng cách với các nước khác trong khu vực và thế giới. Kinh tế Việt Nam chuyển đổi nhanh sang kinh tế thị trường với định hướng mạnh vào xuất khẩu đưa kinh tế Việt Nam mở rộng về quy mô và trình độ. Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam đã diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau: Song phương, tiểu khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Đáng kể là, trong thời gian vừa qua, tiếp theo việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ, hai bên đã tiến hành nhiều vòng đàm phán để ký kết các Hiệp định kinh tế song phương. Từng bước bình thường hoá quan hệ kinh tế thương mại. Trong khi đó ở khu vực, từ khi là thành viên của ASEAN, Việt Nam ngày càng nỗ lực thực hiện các chương trình hợp tác kinh tế, đặc biệt là chương trình khu vực mậu dịch tự do AFTA. Sau một thời gian chuẩn bị, Việt Nam đã là thành viên APEC năm 1998. Đối với tiến trình hợp tác Á - Âu (ASEM) chúng ta đã cùng các nước Châu á khác tham gia tích cực hội nghị cấp cao ASEM – 3 ở Seoul (Hàn quốc). Việt Nam cũng tích cực chuẩn bị đàm phán để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) một tổ chức kinh tế thương mại toàn cầu thể hiện sự hội nhập với kinh tế thế giới. Ngoài ra Việt Nam cũng hợp tác với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) để phục vụ tốt cho tiến trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Việt Nam là một nước đang phát triển, có nền kinh tế chuyển đổi, tham gia hội nhập với xuất phát điểm tương đối thấp so với các nước trong khu vực. Do đó, hội nhập kinh tế đem đến nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng có không ít khó khăn. Để hội nhập có hiệu quả, chúng ta phải phát huy tối đa nội lực, thực hiện nhiều cải cách, điều chỉnh hợp lý cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu lại kinh tế trong nước phù hợp với phát triển kinh tế quốc tế. Cải cách bên trong sẽ hỗ trợ hội nhập nhanh và hiệu quả. Ngược lại hội nhập kinh tế sẽ đẩy nhanh tiến trình cải cách trong nước hiệu quả hơn. 2. Tiến trình đàm phán ký kết Hiệp định thương mại Việt – Mỹ 2.1. Kết quả đạt được qua các vòng đàm phán. 7 Đàm phán ký kết Hiệp định thương mại với Mỹ là một yêu cầu quan trọng nhằm tạo môi trường pháp lý cho quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển và làm tiền đề cho việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam được thuận lợi hơn. Vấn đề cốt lõi của Hiệp định thương mại giữa hai nước cũng như gia nhập WTO của Việt Nam là Mỹ dành cho Việt Nam Quy chế Quan hệ Thương mại bình thường (NTR) trong quan hệ song phương hay đa phương. Mục tiêu cần đạt được là hai nước sẽ dành cho nhau NTR trên cơ sở có đi có lại, không điều kiện và không phải xem xét lại hàng năm. Hầu hết các quốc gia có quan hệ thương mại với Mỹ đều được hưởng NTR. Quy chế này quy định các mức thuế thấp đánh vào hàng nhập khẩu đã đạt được trong các vòng đàm phán về tự do thương mại. Khi Việt Nam còn chưa được hưởng NTR thì hàng Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ phải chịu thuế suất cao, làm cho hàng hoá Việt Nam bán trên thị trường Mỹ kém hấp dẫn, thậm chí không có khả năng cạnh tranh với hàng hoá sản xuất tại Mỹ. Tháng 10/1995, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam và Đại diện Thương mại Mỹ thoả thuận hai bên tập trung thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại và chuẩn bị đàm phán Hiệp định thương mại. Tháng 11/1995, Đoàn Liên bộ Mỹ thăm Việt Nam để tìm hiểu Hệ thống luật lệ thương mại, đầu tư của Việt Nam. Tháng 4/1996, Mỹ trao cho Việt Nam bản “Những yếu tố bình thường hoá quan hệ kinh tế - thương mại với Việt Nam”. Tháng 7/1996, Việt Nam trao cho Mỹ bản “Năm nguyên tắc bình thường hoá quan hệ kinh tế - thương mại và đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ” đáp lại văn bản nói trên. Để ký kết được Hiệp định thương mại, Việt Nam và Mỹ đã tiến hành đàm phán qua các vòng: - Vòng 1 : Từ 2/9/1996 đến 26/9/1996 tại Hà Nội. - Vòng 2 : Từ 9/12/1996 đến 11/12/1996 tại Hà Nội. - Vòng 3 : Từ 12/4/1997 đến 17/4/1997 Mỹ trao cho Việt Nam văn bản dự thảo Hiệp định đề cập đến các vấn đề như : 8 Quy định về giá và điều tiết giá. Hệ thống thuế. Các trợ cấp đối với mỗi lĩnh vực của nền kinh tế nhất là đối với nông nghiệp. Chế độ đầu tư. Cán cân thanh toán. Thuế quan nhập khẩu, bao gồm tất cả thuế quan ưu đãi, phí hải quan, miễn thuế. Các biện pháp tự vệ và các đền bù thương mại khác (Chống bán phá giá và thuế đối kháng). Giấy phép nhập khẩu. Các công ty, doanh nghiệp Nhà nước. Tiêu chuẩn và chứng nhận hàng hoá nhập khẩu, các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ. Hoạt động đối ngoại. Hệ thống thống kê và phát hành các ấn phẩm về ngoại thương. Hệ thống bảo hộ quyền tác giả. Các bước tự do hoá thương mại trong tương lai được thể hiện trong các quy định và các bộ luật của quốc gia... - Vòng 4 : Từ 6/10/1997 đến 11/10/1997 tại Washington, sơ bộ trao đổi về những quy định chung và chương Thương mại hàng hoá trong Hiệp định. - Vòng 5 : Từ 16/5/1998 đến 22/5/1998 tại Washington. - Vòng 6 : Từ 15/9/1998 đến 22/9/1998 tại Hà Nội. Tại các vòng đàm phán 5, 6 hai bên tập trung trao đổi tổng thể về Thương mại hàng hoá, Sở hữu trí tuệ, Thương mại dịch vụ và Đầu tư. Sau 6 vòng đàm phán đầu tiên, nhìn chung các vấn đề cơ bản của một Hiệp định thương mại đã được đưa ra đàm phán và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ sau: + Các bên cơ bản thống nhất được các lĩnh vực quan trọng là dựa trên các chuẩn mực của WTO để đưa ra dự thảo Hiệp định như chương về Thương mại hàng hoá, Sở hữu trí tuệ, tuy nhiên có một số vấn đề có thể mở rộng hơn WTO nhưng đang bàn ở diễn đàn khác như Đầu tư. 9 + Các bên qua thời gian giải thích về chính sách hiện hành của mình đã hiểu biết nhau hơn và đã có thể đánh giá được mức độ cam kết sẽ được các bên chấp nhận ở mức độ nào nhưng chưa thể đi đến những kết luận cụ thể vì những vấn đề còn khác nhau thường phải do cấp cao quyết định còn ở cấp chuyên viên chưa thể quyết định được. + Các bên đã đưa ra dự thảo của mình với quy mô khác nhau nhưng cũng ở mức hàng trăm trang (nếu kể cả các phụ lục thì dài hơn nhiều) và dựa trên cơ sở đó để so sánh và tiến hành đàm phán rõ quan điểm của nhau. Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các công ty Mỹ ở Việt Nam, Quy chế Đối xử quốc gia trong thương mại dịch vụ và đầu tư, mức độ mở cửa thị trường cho hàng hoá của nhau là những nội dung chính của vòng đàm phán thứ 6 ở cấp chuyên viên. Tại vòng đàm phán này nhiều nội dung đã được làm rõ và tuy vẫn còn nhiều sự khác biệt, hai bên cũng đã thoả thuận được một số vấn đề cụ thể. Bên Việt Nam đồng ý thực hiện hầu hết những quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), trừ vấn đề thuế nhập khẩu, nhưng không thể đồng ý với yêu cầu của phía Mỹ muốn Việt Nam bãi bỏ ngay những chính sách không phù hợp với những quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Khu vực tự do mậu dịch ASEAN (AFTA) như chế độ hạn ngạch, hàng rào phi quan thuế...và áp dụng ngay những quy định đó trong quan hệ thương mại với Mỹ, trước khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của hai tổ chức này. - Vòng 7 : Từ 15/3/1999 đến 19/3/1999 tại Hà Nội. Tại vòng đàm phán thứ 7, hai đoàn tập trung trao đổi những vấn đề quan trọng nhất còn lại chưa xử lý được trong các vòng đàm phán trước nằm ở các chương “ Phát triển Quan hệ đầu tư”, “ Thương mại dịch vụ”, “ Thương mại hàng hoá” và “ Sở hữu trí tuệ”. Cuộc đàm phán đã đạt được kết quả tốt đẹp. Phần lớn các vấn đề nêu ra đã tìm được tiếng nói chung, khoảng cách giữa hai bên đã được thu hẹp. Hai đoàn hài lòng với kết quả đàm phán. Tuy nhiên, hai đoàn cũng ghi nhận còn một số vấn đề thuộc lĩnh vực quyền thương mại và dịch vụ mà hai bên sẽ xem xét và thảo luận tiếp để có thể sớm đi đến ký kết Hiệp định thương mại nhằm thúc đẩy 10 quá trình bình thường hoá quan hệ kinh tế - thương mại, tăng cường trao đổi phát triển hàng hoá và hợp tác đầu tư giữa hai nước. - Vòng 8: Từ 14/6/1999 đến 18/6/1999 tại Washington. Nội dung của vòng đàm phán thứ 8 là giải quyết các vấn đề còn tồn tại từ vòng trước. Cả hai bên đều tỏ thái độ thiện chí và cố gắng nhằm giải quyết những vướng mắc còn tồn đọng. Theo các thành viên đoàn Việt Nam, những vấn đề còn lại tuy không nhiều nhưng lại nằm rải rác ở mỗi chương, nhưng đây lại là những vấn đề khó nhất. Dư luận Mỹ, đặc biệt là giới doanh nghiệp Mỹ rất quan tâm ủng hộ việc ký kết Hiệp định thương mại giữa hai nước. Họ đã tổ chức viết thư lên các nghị sỹ Quốc hội Mỹ kiến nghị đẩy nhanh quá trình bình thường hoá quan hệ kinh tế với Việt Nam, điều này góp phần cải thiện bầu không khí quan hệ giữa hai nước. Quyết định miễn áp dụng Đạo luật bổ sung Jackson - Vanik đối với Việt Nam là một dấu hiệu tốt cho việc phát triển mối quan hệ Việt - Mỹ, nhất là trước vòng đàm phán thứ 8. Các vấn đề do phía Việt Nam đưa ra đều được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và chuẩn mực quốc tế. Phía Việt Nam đã đưa ra một lộ trình hợp lý để thực hiện các nguyên tắc của WTO trong bối cảnh Việt Nam là một nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Ông Nguyễn Đình Lương, Trợ lý Bộ trưởng Thương mại, Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam khẳng định rằng các đề xuất nói trên thể hiện nỗ lực cao nhất của Việt Nam để tiến tới kết thúc quá trình đàm phán và ký Hiệp định thương mại giữa hai nước, thể hiện đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là hội nhập kinh tế thế giới, tạo điều kiện để Việt Nam phát huy cao độ nội lực, nhằm xây dựng một nền kinh tế vững mạnh. Ông Nguyễn Đình Lương tỏ ý mong muốn phía Mỹ thể hiện sự hiểu biết thực sự và có đánh giá đầy đủ hơn về những nỗ lực của phía Việt Nam trong các đề xuất được đưa ra tại vòng đàm phán này, để có thể sớm kết thúc đàm phán và tiến tới ký kết Hiệp định thương mại giữa hai nước trong thời gian sớm nhất. Hai bên đã thu hẹp đáng kể nhiều vấn đề tồn tại, tạo thuận lợi cho việc bình thường hoá quan hệ thương mại giữa hai nước nhưng vẫn 11 còn một số vấn đề quan trọng chưa được giải quyết như dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm ... Đại sứ Mỹ Pete Peterson cho rằng những cơ sở tài chính ở Việt Nam hiện nay vẫn còn rất non nớt và phải khá lâu nữa mới có thể sánh ngang hàng với những hệ thống tài chính quốc tế. Chính vì thế, Mỹ đòi hỏi Việt Nam phải củng cố các cơ sở tài chính trong nước để có thể cạnh tranh trên thương trường quốc tế cũng như thoả mãn những đòi hỏi trong nước. Như vậy, trong tương lai, Việt Nam sẽ phải cho phép những cơ sở tài chính cũng như các hãng bảo hiểm của nước ngoài vào làm ăn tại đây. - Vòng 9 : Từ 23/7/1999 đến 25/7/1999 tại Hà Nội, gặp mặt cấp Bộ trưởng - Hiệp định đã được thoả thuận về nguyên tắc. - Vòng 10 : Từ 28/8/1999 đến 2/9/1999 tại Washington, xử lý các vấn đề về kỹ thuật. - Vòng 11: 3/7/2000 tại Washington, hoàn tất Hiệp định. Qua 11 vòng đàm phán, hai bên đều thể hiện sự quyết tâm thúc đẩy nhanh tiến trình đàm phán ký kết Hiệp định thương mại. Cả Việt Nam và Mỹ đều bày tỏ sự quan tâm tới quá trình bình thường hoá quan hệ về kinh tế vì các doanh nghiệp của cả hai phía đang mong đợi điều này. Tuy nhiên không phải vì lợi ích trước mắt mà bỏ qua những lợi ích lâu dài nên các bên vừa quyết tâm đàm phán vừa phải bảo vệ lợi ích lâu dài của mình. Ngày 13/7/2000 tại Washington (tức ngày 14/7/2000 ở Việt Nam), Bộ trưởng Thương mại Việt Nam Vũ Khoan và bà Charlene Barshefsky, Đại diện Thương mại thuộc phủ Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã thay mặt Chính phủ hai nước ký Hiệp định giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước, kết thúc một quá trình đàm phán lâu dài và kiên trì. Hiệp định được ký đúng vào dịp kỷ niệm lần thứ 5 ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, đã hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. 2.2 . Ý nghĩa của Hiệp định. 12 Sau sự kiện Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết, giới báo chí và doanh nhân của cả hai nước đều tỏ ý vui mừng trước những nỗ lực mà hai phía đã đạt được trong suốt 4 năm liền đàm phán bền bỉ. Hiệp định được ký kết dựa trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế và các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), có tính đến Việt Nam là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế và đang hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Hiệp định có hiệu lực (sau khi được Quốc hội của hai Nhà nước phê chuẩn) sẽ đánh dấu việc bình thường hoá hoàn toàn quan hệ Việt - Mỹ, tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ kinh tế - thương mại hai nước phát triển trên cơ sở cân bằng lợi ích, phù hợp với mong muốn của nhân dân hai nước. Cho đến nay, Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại với trên 60 nước và thoả thuận về Quy chế Tối huệ quốc với hơn 70 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, đối với nước ta đây là lần đầu một Hiệp định thương mại mang tính chất đồng bộ, đề cập một cách toàn diện tới các lĩnh vực kinh tế - thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, bản quyền, sở hữu trí tuệ được ký kết. Việc ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ vừa là kết quả vừa tạo thêm điều kiện để tiếp tục triển khai chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Chắc chắn Hiệp định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước, cho phép tăng nhanh kim ngạch trao đổi thương mại không chỉ với Mỹ mà cả với các nước khác, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Mỹ tham gia vào các hoạt động kinh tế ở Việt Nam. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết là bước đi lịch sử trong quá trình bình thường hoá, hoà giải và hàn gắn giữa hai dân tộc, thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam với cộng đồng Quốc tế và tăng cường mậu dịch giữa hai nước. Hiệp định này không chỉ bảo đảm lợi ích của hai nước Việt Nam và Mỹ mà còn là một đóng góp tích cực cho hoà bình, ổn định, hợp tác để phát triển ở khu vực và 13 trên thế giới. Mỹ cũng đánh giá Hiệp định này là một bước tiến quan trọng của việc Việt Nam tham gia Tổ chức thương mại thế giới và khẳng định tích cực ủng hộ Việt Nam gia nhập tổ chức này. Với thiện chí và quyết tâm của cả hai bên, chúng ta tin rằng Hiệp định thương mại Việt - Mỹ sẽ được thực hiện đầy đủ trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng lợi ích và chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, góp phần phát triển kinh tế - thương mại của hai quốc gia nói riêng và thế giới nói chung. Việc ký kết và thực hiện Hiệp định là phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được yêu cầu đó, các ngành, các cấp và các doanh nghiệp cần ra sức phát huy tối đa nội lực, cải tiến quản lý, tiếp thu thành tựu khoa học kỹ thuật, nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. 3. Những nội dung chủ yếu của Hiệp định Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết ngày 13/7/2000 là một sự kiện đánh dấu bước phát triển tích cực của mối quan hệ song phương kể từ ngày hai quốc gia lập quan hệ ngoại giao. Hiệp định dài gần 120 trang, gồm 7 chương với 72 điều và 9 phụ lục, đề cập đến 4 nội dung chủ yếu: Thương mại hàng hoá, Thương mại dịch vụ, Sở hữu trí tuệ và Quan hệ đầu tư. Như vậy có nghĩa là bản Hiệp định này tuy được gọi là Hiệp định về quan hệ thương mại nhưng không chỉ đề cập đến lĩnh vực thương mại hàng hoá. Khái niệm “ thương mại ” ở đây được đề cập theo ý nghĩa rộng, hiện đại, theo tiêu chuẩn của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và có tính đến đặc điểm kinh tế của mỗi nước để quy định sự khác nhau về khung thời gian thực thi các điều khoản. Do Mỹ đã tuân thủ tất cả các luật lệ của WTO và là một trong những nước tự do hoá thương mại nhất trên thế giới nên hầu như tất cả các điều khoản trong Hiệp định, Mỹ đều thực hiện ngay. Còn Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang 14 kinh tế thị trường, nên kèm theo bản Hiệp định là 9 bản phụ lục có quy định các lộ trình thực hiện cho phù hợp với Việt Nam. Hiệp định được xây dựng trên hai khái niệm quan trọng. Khái niệm “Tối huệ quốc” (đồng nghĩa với Quan hệ thương mại bình thường) mang ý nghĩa hai bên cam kết đối xử với hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước kia không kém phần thuận lợi so với cách đối xử với hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước thứ ba (đương nhiên không kể đến các nước nằm trong Liên minh thuế quan hoặc Khu vực mậu dịch tự do mà hai bên tham gia, ví dụ Mỹ sẽ không được hưởng những ưu đãi của ta dành cho các nước tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và ta cũng không được hưởng tất cả các ưu đãi Mỹ dành cho các nước khác trong Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Còn khái niệm “Đối xử quốc gia” thì nâng mức này lên như đối xử với các công ty trong nước. Hai khái niệm này quan trọng vì chúng được đề cập đến ở hầu hết các chương của bản Hiệp định. Ngoài ra, các phụ lục được dùng để liệt kê các trường hợp loại trừ, chưa hoặc vĩnh viễn không áp dụng hai khái niệm trên. Chương 1: Thương mại hàng hoá gồm 9 điều. Chương 2: Quyền Sở hữu trí tuệ gồm 18 điều. Chương 3: Thương mại dịch vụ gồm 11 điều. Chương 4: Phát triển Quan hệ đầu tư gồm 15 điều. Chương 5: Những điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động bình thường. Chương 6: Những điều khoản minh bạch và quyền được kháng cáo. Chương 7: Những điều khoản chung. Sau đây chúng ta sẽ xem xét những nội dung c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf124_572.pdf