Luận án Phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế

Các quy định hiện nay về trích lập dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ

mặc dù đã có nhiều tiến bộ,phù hợp với bản chất củatừng loại quỹ dự phòng

nhưng vẫn còn những vấn đề bất cập và như vậy sẽ rất nguy hiểm đến sự phát

triển chung của toàn thị trường như đã phân tích trong chương 2. Vì vậy, kiến

nghị Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện những quy định về trích lập dự phòng

nghiệp vụ theo hướng sau đây:

Về lãi suất kỹ thuật: theo quy định hiện hành lãi suất kỹ thuật tối đa là 80% lãi

suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất trước thời điểm

xin phê chuẩn phương pháp và cơ sở trích lập dự phòng cho tất cả các sản phẩm

bảo hiểm nhân thọ là không phù hợp như đã phân tích.Vì vậy, cơ quan quản lý

cần xem xét đưa ra nhiều mức giới hạn hơn về lãi suất kỹ thuật tương ứng với

từng thời hạn của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Ví dụ: hợp đồng BHNT có thời

hạn từ 5 đến 10 năm, lãi suất kỹ thuật tối đa là 70% lãi suất trái phiếu chính phủ

có thời hạn 10 năm; hợp đồng BHNT có thời hạn trên 10năm đến 15 năm thì lãi

suất kỹ thuật tối đa là 85% lãi suất trái phiếu chính phủ có thời hạn 10 năm Có

như vậy mới phân biệt được quyền lợi của chủ hợp đồng khi tham gia các hợp

153

Về bảng tỷ lệ tử vong: Trong thời gian qua chỉ riêng Bảo Việt sử dụng bảng tỷ lệ

tử vong trên cơ sở số liệu thống kê của dân số Việt Nam, còn các công ty bảo

hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam lại sử dụng bảng tử vong trên cơ sở số

liệu thống kê dân số của nước ngoài là không phù hợp với thị trường BHNT Việt

Nam như đã phân tích ở chương 2. Quy địnhmới nhất của Thông tư 99 yêu cầu

các công ty BHNT phải sử dụng bảng tử vong CSO 80 để định phí và lập dự

phòng là không phù hợp trên thị trường Việt Nam. Vìvậy, ngay từ bây giờ cơ

quan quản lý cần nghiên cứu và đưa ra bảng tỷ lệ tử vong chuẩn dựa trên cơ sở

thống kê của dânsố Việt Nam.

Về dự phòng chia lãi: các công ty bảo hiểm khi tính phí đã chọn mức lãi suất kỹ

thuật rất thấp để đảm bảo nguyên tắc thận trọng và nếu lãi suất đầu tư thực tế lớn

hơn lãi suất kỹ thuật thì khoản chênh lệch này hình thành nên lợi nhuận của các

công ty bảo hiểm nhân thọ được gọi là lãitài chính. Các công ty bảo hiểm phải

chia lại một phần lãi này cho chủ hợp đồng. Ở các nước có ngành bảo hiểm phát

triển, cụ thể, ở Pháp được trong luật Kinh Doanh Bảo Hiểm có quy định rõ tỷ lệ

chia lãi tối thiểu là 85% lãi tài chính cho chủ hợp đồng. Trong khi đó ở Việt Nam

trước đây, trên các văn bản pháp lý của nhà nước chưa quy định về mức chia về

lãi tài chính cho chủ hợp đồng. Điều này đã ảnh hưởng tới quyền lợi của chủ hợp

đồng. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi cho người mua bảo hiểm thì cơ quan quản lý

cần đưa ra mức khống chế tỷ lệ chia tối thiểu về lãi tài chính cho chủ hợp đồng.

Theo quy định mới nhất trong Thông tư 98, Bộ Tài chính có quy định khống chế

mức chia lãi tài chính tối thiểu là 70% tổng số lãi thu được và chỉ được áp dụng

đối với những hợp đồng được giao kết từ 1/1/2006. Có thể xem đây là một tiến bộ

của cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi cho người mua bảo hiểm. Tuy nhiên,

154

+ Lãi suất kỹ thuật

+ Lãi suất đầu tư thực tế

+ Lãi tài chính (chênh lệch giữa lãi suất đầu tư tài chính với lãi suất kỹ

thuật)

+ Tỷ lệ chia lãi tài chính

Có như vậy thì người được bảo hiểm mới hiểu được quyền lợi của mình

như thế nào, đã thỏa đáng chưa. Từ đó, có sự so sánh giữa các công ty BHNT và

đây cũng chính là một trong những phươngthức cạnh tranh mới trong thời điểm

thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay.

pdf198 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1012 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận án Phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hướng phát triển thị trường bảo hiểm, thị trường tài chính của Việt Nam…”. Trong thời gian qua, các hồ sơ xin cấp phép bị từ chối chủ yếu vì lý do này và các chủ đầu tư rất hoang mang. Vì vậy, Bộ Tài chính cần minh bạch hóa ở nội dung thẩm định này để tất cả các chủ đầu tư biết. Luận án đề xuất giải pháp cụ thể cho vấn đề này như sau: căn cứ vào qui mô thị trường, Bộ Tài chính qui định về số lượng các giấy phép được cấp tối đa trong một giai đoạn và số giấy phép được cấp tối đa trong một năm, ưu tiên cho những chủ đầu tư có năng lực tài chính lớn, đã có thời gian mở văn phòng đại diện tại Việt Nam lâu và đã có những hoạt động, đóng góp đáng kể vào sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua. Thiết nghĩ, với những qui định thêm bên cạnh những qui định hiện hành về cấp phép hoạt động một cách rõ ràng như vậy, các tổ chức đầu tư biết được hồ sơ xin cấp phép của mình không đáp ứng ở điều kiện nào, điều này cũng chính là thực hiện nguyên tắc minh bạch hóa trong hội nhập kinh tế quốc tế. 3.3.1.3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động đối với các công ty bảo hiểm Trong thời gian qua, công tác quản lý, giám sát đã được chú trọng đẩy mạnh cả về số lượng và chất lượng, cả chiều rộng và chiều sâu. Mạnh dạn đổi mới phương thức quản lý trên cơ sở hạn chế sự can thiệp hành chính vào hoạt động của các công ty, kết hợp giữa kiểm tra tại chổ và giám sát từ xa, sử dụng các công cụ phân tích tài chính kinh doanh, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động 142 và phần mềm quản lý, đồng thời nâng cao tính tự giác và tự chịu trách nhiệm của công ty. Thông qua các hoạt động của mình, cơ quan quản lý bảo hiểm đã kịp thời phát hiện, kiên quyết xử lý và chấn chỉnh những biểu hiện lệch lạc như cạnh tranh không lành mạnh, trục lợi, không tuân thủ các yêu cầu tài chính. Trong giai đoạn sắp tới, khi Việt Nam đã gia nhập vào tổ chức WTO, tình hình cạnh tranh chắc chắn sẽ diễn ra rất quyết liệt vì vậy đòi hỏi việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các công ty bảo hiểm cần được tăng cường hơn nữa theo hướng sau đây: - Cần đưa ra mức phạt cao hơn nếu công ty bảo hiểm nào vi phạm các quy định trong kinh doanh. Mức phạt được đưa ra trong Nghị định 118/2003 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm theo tác giả là chưa đủ mức răn đe để các doanh nghiệp không tái phạm. - Hoàn thiện hơn nữa hệ thống các chỉ tiêu giám sát, đặc biệt là các chỉ tiêu về tài chính: trích lập dự phòng nghiệp vụ, đầu tư, khả năng thanh toán. - Hình thành các tiêu chí làm cơ sở xếp hạng tín nhiệm các công ty bảo hiểm. Tất cả các thông tin về các công ty bảo hiểm vi phạm hoạt động và bị xử phạt trên thị trường cần được công khai hóa, thiết nghĩ điều này là cần thiết vì sẽ ảnh hưởng đến uy tín và xếp hạng tín nhiệm của công ty, nên các công ty bảo hiểm sẽ cố gắng tránh để không vi phạm nữa. 3.3.1.4. Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu về đánh giá khả năng tài chính của các công ty bảo hiểm Một trong những vấn đề rất quan trọng nhằm nâng cao vị thế và khả năng cạnh tranh của các công ty bảo hiểm đó là họ cần phải đánh giá đúng thực trạng năng lực tài chính của mình, từ đó hoạch định chiến lược đầu tư, chiến lược khách hàng, chiến lược mở rộng quy mô thị trường, tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển ổn định và có hiệu quả. 143 Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, nhất là trong điều kiện kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, bất kỳ biến động xấu nào của nền kinh tế cũng sẽ gây tác hại rất lớn đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu như hoạt động của các công ty bảo hiểm trên thị trường không thực sự có hiệu quả, không đảm bảo quyền lợi cho người được bảo hiểm hoặc công ty bảo hiểm mất khả năng thanh toán… thì sẽ gây tác động rất xấu đối với tiến trình hội nhập chung của nền kinh tế. Trong thời gian qua, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định 153/2003 về Hệ thống các chỉ tiêu giám sát doanh nghiệp bảo hiểm. Đây là cơ sở để Vụ Bảo hiểm kiểm tra và phát hiện ngay những mất cân đối có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán của các công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, kết quả của những chỉ tiêu này được xác định trên cơ sở là các số liệu trên các báo cáo tài chính hàng năm của các công ty bảo hiểm. Về nguyên tắc các báo cáo tài chính hàng năm của các công ty bảo hiểm đều được kiểm toán để xác định tính chính xác và trung thực của nó. Nhưng không loại trừ trường hợp các số liệu này đã được hợp thức hóa theo ý đồ của các giám đốc điều hành và giám đốc tài chính. Vấn đề này, trên thế giới đã từng xảy ra ở những tập đoàn lớn và ở những nước mà tính minh bạch và chính xác thông tin được tuân thủ nghiêm ngặt, đó là những trường hợp phá sản của Tập đoàn ENRON, Worldcom… do các báo cáo tài chính không chính xác. Mặt khác, khi gia nhập vào nền kinh tế thế giới thì bất cứ sự biến động bất lợi nào trên thế giới đều tác động đến nền kinh tế Việt Nam và tác động xấu đến hoạt động của các công ty bảo hiểm. Vì thế, khi đánh giá năng lực tài chính của các công ty bảo hiểm chỉ dựa vào các chỉ số tài chính được tính toán trên cơ sở số liệu của các báo cáo tài chính là chưa đủ, mà cơ quan quản lý cần dự kiến nếu có những biến động bất lợi xảy ra trong nền kinh tế thì các công ty bảo hiểm có đảm bảo được khả năng thanh toán hay không. Để dự kiến những bất lợi có thể xảy ra, trên thế giới 144 có 2 cách thức ước tính: hoặc đưa ra mức khấu trừ nhất định về số liệu của các báo cáo tài chính này, hoặc dự báo về sự gia tăng của lãi suất hay giá cổ phiếu. Sau khi dự báo những bất lợi theo cách như trên mà các chỉ số tài chính vẫn ở mức an toàn thì mới có thể đảm bảo công ty bảo hiểm đó có đủ khả năng thanh toán. Sau đây là kinh nghiệm của Mỹ và Nhật Bản trong việâc đánh giá khả năng tài chính của các công ty bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm của Mỹ có quy mô lớn nhất thế giới với khoảng 6000 công ty bảo hiểm tham gia hoạt động với nhiều tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới như AIG (American International Group), Prudential Ins Co of American, Metropolitan Life, Aetna Life, Employers Re…. Mặc dù được coi là tấm gương của chủ nghĩa tự do về kinh tế nhưng trong lĩnh vực bảo hiểm, Mỹ đã tổ chức một thị trường cực kỳ nguyên tắc và được kiểm soát hết sức chặt chẽ. Cơ quan quản lý bảo hiểm quy định phải khấu trừ toàn bộ hoặc một phần giá trị của một số hạng mục khi đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp, cụ thể như sau: + Khấu trừ toàn bộ những khoản nợ không đảm bảo của một doanh nghiệp liên kết hoặc một doanh nghiệp trực thuộc. + Khấu trừ toàn bộ lợi thế của doanh nghiệp bảo hiểm. Chẳng hạn như những lợi thế vô hình về mặt vị trí địa lý của doanh nghiệp bảo hiểm. Lợi thế của doanh nghiệp bảo hiểm là số tiền gia tăng thể hiện mức giá trị vượt quá tài sản thực có của doanh nghiệp. + Khấu trừ 2/3 giá trị tài sản cố định (ngoại trừ bất động sản). Tài sản cố định là tài sản của doanh nghiệp có thể bao gồm đất đai, nhà xưởng, máy móc, phương tiện vận tải… Hầu hết những tài sản có loại này được đánh giá căn cứ vào công việc kinh doanh đang tiến hành và trong trường hợp bán gấp, các tài sản này rõ ràng không thể bán với giá cao ngang bằng với số tiền ghi trong bảng cân đối kế toán. 145 + Khấu trừ 1/3 cổ phần trong các doanh nghiệp liên kết. Vì doanh nghiệp bảo hiểm khó có thể kiểm soát được toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên kết, do đó việc đánh giá thường dựa vào chủ quan, vì vậy khấu trừ là để đánh giá đúng thực trạng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. Nhật Bản có thị trường bảo hiểm đứng thứ hai thế giới sau Mỹ. Đặc điểm của thị trường Nhật Bản là bảo hiểm nhân thọ rất phát triển. Tuy nhiên, vào thập niên 90 của thế kỷ XX một số công ty BHNT Nhật Bản đã phá sản vì không thể thực hiện được các cam kết trong việc trả tiền bảo hiểm cho khách hàng. Chính vì vậy, hiện nay cơ quan giám sát bảo hiểm Nhật Bản và các công ty bảo hiểm, nhất là các công ty BHNT rất chú trọng trong việc đánh giá năng lực tài chính của các công ty bảo hiểm nhằm đảm bảo quyền lợi cho khách hàng. Cơ quan Quản lý bảo hiểm ở Nhật Bản cho rằng phải đánh giá năng lực tài chính của công ty bảo hiểm thông qua sự biến động của nền kinh tế cũng như những biến động khác bởi vì những biến động này có thể gây ra ảnh hưởng đối với khả năng thanh toán nói riêng và năng lực tài chính nói chung của công ty bảo hiểm. Việc đánh giá này có thể căn cứ vào các tham số tài chính nhạy cảm, đó là lãi suất thị trường và giá cổ phiếu. Việc đánh giá năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm thông qua các tham số được tiến hành theo các bước như sau: Bước 1: phân tích tình hình thực tại giữa các khoản mục trong phần tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp bảo hiểm. Bước 2: cho các tham số tài chính biến đổi và đánh giá sự biến đổi của tài sản và nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán - Lần lượt cho giá các cổ phiếu giảm xuống 10%, 20%, 30%, 40%, … - Tăng lãi suất lên 1%, 2%, 3%, 4%, … Bước 3: đánh giá sự thay đổi trong cơ cấu giữa nguồn vốn và tài sản trong bảng cân đối kế toán. Ứng với mỗi trường hợp giảm giá cổ phiếu và tăng lãi suất tiền tệ 146 sẽ cho ra một kết quả khác nhau về tương quan giữa tài sản và nguồn vốn của công ty bảo hiểm, nếu như giá cổ phiếu trung bình trên thị trường giảm xuống tới 10% mà vẫn không có sự mất cân đối giữa tài sản và nguồn vốn thì công ty bảo hiểm có thể đứng vững trước sự biến động mạnh mẽ của tình hình kinh tế, xã hội trong đất nước. Nếu kết quả giữa tài sản và nguồn vốn không tương thích với nhau khi tăng lãi suất và giảm giá cổ phiếu thì tài chính của công ty bảo hiểm cần được xem xét lại. Rõ ràng việc đánh giá năng lực tài chính của các công ty bảo hiểm ở Mỹ và Nhật Bản là rất thận trọng, trong khi đó, việc đánh giá năng lực tài chính các công ty bảo hiểm ở Việt Nam là khá đơn giản, chưa lường được hết những biến động của thị trường tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của công ty. Vì vậy với tư cách là cơ quan quản lý kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm, kiến nghị Bộ Tài chính cần phải có những phương pháp thích hợp hơn để đánh giá đúng năng lực tài chính của các công ty bảo hiểm, có như thế mới có thể làm tốt vai trò và nhiệm vụ của mình, đảm bảo thị trường bảo hiểm phát triển ổn định và bền vững. 3.3.1.5. Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ Trong thời gian qua, cơ quan quản lý đã không ngừng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo hướng công khai, minh bạch, giảm bớt các thủ tục hành chính, kịp thời xử lý các vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn quản lý nhà nước và hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của thị trường vì quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Thực hiện định hướng này, hàng loạt văn bản, chế độ mới đã được khẩn trương xây dựng và ban hành theo đúng kế hoạch đề ra và được dư luận đánh giá cao. Bên cạnh đó việc hoàn thiện các văn bản đã ban hành theo các nguyên tắc và 147 chuẩn mực quốc tế cũng được quan tâm, cụ thể là Thông tư 98, 99 thay thế cho Thông tư 71, 72. Nội dung bổ sung sửa đổi của hai Thông tư đề cập đến nhiều vấn đề, trong đó đáng chú ý có những quy định về đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian đăng ký, phê duyệt sản phẩm bảo hiểm, ấn định tỷ lệ chia lãi tối thiểu cho các chủ hợp đồng có cam kết chia lãi; tách quỹ chủ hợp đồng và quỹ chủ sở hữu trong hạch toán kế toán và xây dựng báo cáo tài chính nhằm quản lý hiệu quả hơn nguồn vốn kinh doanh và đánh giá chính xác hiệu quả đầu tư. Nhìn chung, việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản này đã góp phần thực hiện các cam kết của Chính phủ Việt Nam đối với các tổ chức tài chính quốc tế đồng thời được dư luận và các công ty bảo hiểm trên thị trường đón nhận tích cực. Tuy nhiên, những văn bản pháp lý này vẫn còn một số những bất cập. Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ những bất cập và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế như các quy định về đầu tư của bảo hiểm nhân thọ trong Nghị định 43, quy định về trích lập dự phòng nghiệp trong Thông tư 99 như đã phân tích trong chương 2. Vì vậy, Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện những bất cập này và tác giả xin đưa ra hướng hoàn thiện như sau : • Hoàn thiện những quy định về đầu tư vốn của các công ty BHNT Chính phủ cần xem xét hoàn thiện những quy định về hoạt động đầu tư trên những nội dung sau: - Bãi bỏ một phần giới hạn về lãnh thổ đầu tư: Theo quy định hiện hành, các khoản đầu tư từ vốn nhàn rỗi của các công ty bảo hiểm nhân thọ hoạt động ở Việt Nam chỉ được đầu tư trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Qui định này được đưa ra trước đây là hợp lý khi Việt Nam chưa hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và hơn nữa, Việt Nam cũng cần giữ lại số vốn này để đầu tư phát triển kinh tế. Tuy nhiên, quy định này đã hạn chế khả năng của các công ty bảo hiểm tìm kiếm cơ hội đầu tư khác tốt hơn từ thị trường vốn quốc tế. Đặc biệt, trong giai đoạn sắp tới, 148 Chính phủ sẽ tiến hành kết nối với thị trường chứng khoán Việt Nam với thị trường chứng khoán Singapore, điều này có nghĩa là các cổ phiếu của các công ty nước ngoài được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam và ngược lại, cổ phiếu của các công ty Việt Nam được niêm yết trên thị trường chứng khoán Singapore. Theo quy định hiện hành, đầu tư từ quỹ dự phòng của các công ty BHNT Việt Nam chỉ tiến hành ở Việt Nam, nghĩa là chỉ được đầu tư vào cổ phiếu của các công ty Việt Nam. Điều này là trái với thông lệ đầu tư quốc tế. Vì vậy, Chính phủ cần xem xét lại trong giai đoạn sắp tới nên bãi bỏ một phần giới hạn về lãnh thổ đầu tư bằng cách đưa ra tỷ lệ % đầu tư vốn ra nước ngoài từ quỹ dự phòng nghiệp vụ. Tham khảo một số nước ở Châu Á có quy định về tỷ lệ đầu tư ra nước ngoài như Indonesia 20% của quỹ đầu tư, Trung Quốc 80% vốn ngoại tệ. Chi tiết của các giới hạn đầu tư trong Luật một số nước được trình bày trong bảng 3.2 - Thể chế hoá nguyên tắc đa dạng hóa bằng quy định tỷ lệ đầu tư vốn tối đa vào từng loại tài sản: Kiến nghị Chính phủ cần quy định cụ thể: không nên cho phép các công ty BHNT được đầu tư quá 10% tổng giá trị quỹ dự phòng vào một loại chứng khoán được niêm yết do một tổ chức phát hành. Lý do tác giả đưa ra mức khống chế tỷ trọng vốn đầu tư tối đa 10% vào loại chứng khoán do một tổ chức phát hành vì các công ty BHNT có thể chọn đưa vào trong danh mục của mình tối thiểu là 10 loại chứng khoán của 10 tổ chức phát hành. Với số lượng chứng khoán tối thiểu là 10 loại được chọn đưa vào danh mục thì sẽ làm giảm thiểu được một nữa rủi ro của từng chứng khoán riêng lẽ theo lý thuyết đa dạng hóa và thực nghiệm tiến hành về đa dạng hóa đầu tư. Trên cơ sởø mức khống chế về tỷ trọng vốn đầu tư tối đa vào mỗi loại chứng khoán niêm yết, tác giả đã xây dựng một chương trình phần mềm về quản lý danh mục đầu tư sẽ được đề cập đến trong nhóm giải pháp đối với các công ty bảo hiểm nhân thọ. 149 Bảng 3.2. Quy định đầu tư cho các công ty bảo hiểm nhân thọ các nước Châu Á TRUNG QUỐC Loại hình đầu tư Tỷ lệ quỹ đầu tư Các giới hạn (nếu có) 1. Tiền gởi ngân hàng 100% Không giới hạn 2.- Trái phiếu và các công cụ nợ - Trái phiếu chuyển đổi - Cho vay bảo lãnh của ngân hàng 100% 20% 8% Tín dụng AA trở lên <15% tổng số phát hành <20% tổng số phát hành 3. Cho vay chủ hợp đồng Theo giá trị giải ước 4. Cổ phiếu - Đầu tư vào quỹ tương hổ - Cổ phiếu niêm yết 15% 5% <10% tổng giá trị quỹ <10% giá trị niêm yết 1 c.ty 5. Bất động sản 50% Dành cho sử dụng nội bộ 6. Đầu tư ra nước ngoài 80% vốn ngoại tệ INDONESIA Loại hình đầu tư Tỷ lệ quỹ đầu tư Các giới hạn (nếu có) 1. Tiền gởi ngân hàng 100% 20% cho mỗi ngân hàng 2.Trái phiếu CP và các chứng khoán bảo lãnh 100% 3. Cho vay chủ hợp đồng 100% Tối đa 80% giá trị giải ước 4.- Đầu tư vào quỹ tương hổ - Cổ phiếu niêm yết 20% 100% <20% giá trị niêm yết 1 c.ty 5. Bất động sản 20% Dành cho sử dụng nội bộ 6. Đầu tư ra nước ngoài 20% 7.Trái phiếu công ty và chứng khoán bảo lãnh 100% <20% giá trị niêm yết của một công ty 8. Cho vay thế chấp 20% <75% tài sản thế chấp 9. Đầu tư trực tiếp 10% (Nguồn: Giải pháp khuyến khích đầu tư hiệu quả vào nền kinh tế của các doanh nghiệp bảo hiểm, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam và Viện Khoa học tài chính, 2005)[9] - Khống chế tỷ lệ đầu tư vốn vào mỗi bất động sản: mỗi bất động sản không chiếm quá 10% giá trị quỹ dự phòng. Sở dĩ phải khống chế ở mức thấp tỷ lệ đầu 150 tư vốn của các công ty bảo hiểm nhân thọ vào mỗi bất động sản vì hiện nay thị trường bất động sản có nhiều biến động, nên mức độ rủi ro khá cao. - Đối với hoạt động cho vay: mở rộng cho vay chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Bởi vì đây là loại cho vay an toàn nhất. Còn cho vay đối với các đối tượng khác hiện nay các công ty BHNT đang gặp khó khăn vì chưa có văn bản hướng dẫn đối với hoạt động này. Trong thời gian qua, các công ty BHNT cho các tổ chức kinh tế vay bằng hình thức ủy thác thông qua một tổ chức tín dụng và như vậy đã có những bất lợi cho các công ty BHNT. Vì vậy, kiến nghị Chính phủ sớm có văn bản hướng dẫn cho vay đối với các công ty BHNT. - Về chính sách quản lý ngoại hối đối với các công ty bảo hiểm nhân thọ có vốn đầu tư nước ngoài. Các công ty BHNT nước ngoài phải góp vốn tối thiểu 10 triệu USD và trích ra 500.000 USD gởi vào NHTM làm ký quỹ bắt buộc. Trong những năm đầu hoạt động, một lượng lớn ngoại tệ được các công ty bán ra để trang trãi các chi phí ban đầu, phần còn lại được hưởng lãi suất trần theo quy định của NHNN. Chính sách quản lý ngoại hối chặt chẽ của NHNN đã gây thiệt hại cho các công ty này. Lãi suất trần 0,8%/năm vào năm 2000 và hiện nay là 1,5%/năm cho tiền gởi USD cho các pháp nhân đã tạo ra một lãi suất thực âm do mức lạm phát của Mỹ hàng năm cao hơn 2%. Hơn 5 năm qua, các NHTM được hưởng lợi lớn từ chênh lệch lãi suất thị trường và lãi suất trần. Vì vậy, để tạo điều kiện nâng cao hiệu quả đầu tư, đồng thời thu hút thêm nhiều công ty BHNT nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, Chính phủ và NHNN cần áp dụng một chính sách ngoại hối linh hoạt cho các công ty BHNT nước ngoài và không áp dụng mức lãi suất trần đối với tiền gởi ngân hàng bằng USD 151 Bảng 3.3. QUY ĐỊNH ĐẦU TƯ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ CÁC KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI Nguồn vốn đầu tư Quy định hiện hành * Đề nghị bổ sung, sửa đổi Vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc, quỹ dự trữ tự nguyện, các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng và các quỹ dùng để đầu tư hình thành từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp Không hạn chế - Không hạn chế - Xem xét bãi bỏ về lãi suất trần tiền gởi USD Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ Chỉ được phép đầu tư ở Việt Nam và phải tuân thủ những hạn chế về tỷ lệ - Trước mắt: Được phép đầu tư ở Việt Nam và phải tuân thủ những hạn chế về tỷ lệ. - Sau khi kết nối TTCK: bãi bỏ một phần giới hạn đầu tư về lãnh thổ. Mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, gởi tiền tại các tổ chức tín dụng Không hạn chế Không hạn chế về tỷ trọng chung nhưng không được vượt quá 20% tổng giá trị quỹ dự phòng tại mỗi tổ chức tín dụng Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn vào các doanh nghiệp khác Tối đa 50% Tối đa 50% nhưng không được vượt quá 10% tổng giá trị dự phòng vào một loại chứng khoán được niêm yết do một tổ chức phát hành Kinh doanh bất động sản, cho vay, ủy thác đầu tư qua các tổ chức tài chính, tín dụng Tối đa 40% - Kinh doanh bất động sản: mỗi bất động sản không quá 10% tổng giá trị dự phòng. - Cho vay chủ hợp đồng nhân thọ: không hạn chế - Ban hành ngay quy định về hoạt động cho vay của các định chế tài chính phi ngân hàng. (*Nguồn: Luật kinh doanh bảo hiểm và văn bản hướng dẫn thi hành)[3] - Khuyến khích đầu tư ra nước ngoài: Khi Việt Nam hội nhập vào ngành bảo hiểm thế giới, bên cạnh mở cửa thị trường trong nước cho phép các công ty bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng, có vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, Chính phủ cũng cần khuyến khích các công ty bảo hiểm trong nước đầu tư ra nước 152 ngoài để tìm kiếm cơ hội đầu tư trên thị trường quốc tế, đồng thời cũng là khẳng định vị thế của Việt Nam đối với thế giới. Vì vậy, ngay từ bây giờ, Chính phủ cần ban hành các quy định cụ thể về việc cho phép các công ty bảo hiểm trong nuớc đầu tư ra nước ngoài bằng hình thức trước mắt mở văn phòng đại diện và tiến tới mở chi nhánh hoặc góp vốn liên doanh, hoặc cổ đông chiến lược với các công ty bảo hiểm ở nước ngoài. Tổng hợp những kiến nghị sửa đổi và hoàn thiện các qui định về đầu tư cho các công ty BHNT ở Việt Nam được trình bày trong bảng 3.3 • Hoàn thiện những quy định về trích lập dự phòng nghiệp vụ BHNT Các quy định hiện nay về trích lập dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ mặc dù đã có nhiều tiến bộ, phù hợp với bản chất của từng loại quỹ dự phòng nhưng vẫn còn những vấn đề bất cập và như vậy sẽ rất nguy hiểm đến sự phát triển chung của toàn thị trường như đã phân tích trong chương 2. Vì vậy, kiến nghị Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện những quy định về trích lập dự phòng nghiệp vụ theo hướng sau đây: Về lãi suất kỹ thuật: theo quy định hiện hành lãi suất kỹ thuật tối đa là 80% lãi suất trái

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf46609[1].pdf