Luận văn Chất lượng công chức Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình

Ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam luôn quan tâm chú ý và coi trọng đến công tác cán bộ, vì đây chính là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc qua các nhiệm kỳ đã thể hiện rõ quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ. Những quan điểm đó được cụ thể hóa trong các Nghị quyết hội nghị của Ban chấp hành trung ương Đảng. Đặc biệt, Hội nghị trung ương lần thứ 8 (khóa VII), Hội nghị trung ương lần thứ 6 (khóa IX) của Đảng đã khẳng định cải cách hành chính nhà nước và chiến lược cán bộ, trong đó có nội dung xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là vấn đề thuộc đường lối chiến lược của Đảng ta.

Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là một trong những nội dung cải cách hành chính và là một trong 7 chương trình hành động của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010.

Những năm gần đây, đội ngũ cán bộ, công chức đã được rèn luyện, thử thách qua quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng. Kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ, công chức từng bước được nâng cao về mọi mặt, góp phần tích cực vào thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước trong giai đoạn vừa qua. Tuy nhiên, thực trạng đội ngũ công chức hiện nay vẫn bộc lộ những yếu kém, bất cập như Đảng ta đã nhận định: “đội ngũ cán bộ hiện nay xét về chất lượng, số lượng, cơ cấu nhiều mặt chưa ngang tầm với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”[23] “Năng lực và phẩm chất của nhiều cán bộ công chức còn yếu, một bộ phận không nhỏ thoái hoá, biến chất”[22]. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức chưa tương xứng, chưa đáp ứng yêu cầu công việc; tính chủ động, ý thức trách nhiệm với công việc được giao còn thấp; khả năng quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế. Một bộ phận công chức thoái hoá, biến chất, tham ô, buôn lậu, nhũng nhiễu phiền hà, thiếu công tâm, khách quan khi giải quyết công việc ; kỷ luật hành chính lỏng lẻo, bản lĩnh thiếu vững vàng, lãng phí.bị kỷ luật. Tất cả những điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và hiệu quả lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; đồng thời đặt ra đòi hỏi bức thiết phải nâng cao chất lượng công chức trong đó có đội ngũ công chức uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Ninh Bình là tỉnh được tái lập từ năm 1992 nhưng đến nay vẫn còn không ít khó khăn nhất là công tác cán bộ. Đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh đã được xây dựng chuẩn hoá nhiều mặt nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định về trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực. Điều đó đòi hỏi cần có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác cán bộ nói chung, đội ngũ công chức cấp tỉnh nói riêng để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh.

Xuất phát từ lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Chất lượng công chức Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sỹ luật học của mình.

 

doc123 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1162 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Chất lượng công chức Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 6 1.1. Khái niệm về chất lượng công chức UBND cấp tỉnh 6 1.2. Các tiêu chí đánh giá và các yếu tố bảo đảm chất lượng công chức Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh 20 1.3. Bảo đảm chất lượng công chức qua kinh nghiệm của nhà nước phong kiến Việt Nam và một số nước trên thế giới 39 Tiểu kết chương 1 48 Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC VÀ CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH 49 2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình 49 2.2. Thực trạng đội ngũ công chức Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình 55 2.3. Thực trạng chất lượng công chức UBND tỉnh Ninh Bình 57 Tiểu kết chương 2 78 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY 79 3.1. Nâng cao chất lượng công chức Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình là yêu cầu cấp thiết 79 3.2. Mục tiêu và quan điểm chỉ đạo bảo đảm chất lượng công chức Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình 82 3.3. Những giải pháp chủ yếu bảo đảm chất lượng công chức UBND tỉnh Ninh Bình hiện nay 87 Tiểu kết chương 3 111 KẾT LUẬN 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá HĐND : Hội đồng nhân dân Nxb : Nhà xuất bản UBND : Uỷ ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam luôn quan tâm chú ý và coi trọng đến công tác cán bộ, vì đây chính là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc qua các nhiệm kỳ đã thể hiện rõ quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ. Những quan điểm đó được cụ thể hóa trong các Nghị quyết hội nghị của Ban chấp hành trung ương Đảng. Đặc biệt, Hội nghị trung ương lần thứ 8 (khóa VII), Hội nghị trung ương lần thứ 6 (khóa IX) của Đảng đã khẳng định cải cách hành chính nhà nước và chiến lược cán bộ, trong đó có nội dung xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là vấn đề thuộc đường lối chiến lược của Đảng ta. Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là một trong những nội dung cải cách hành chính và là một trong 7 chương trình hành động của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010. Những năm gần đây, đội ngũ cán bộ, công chức đã được rèn luyện, thử thách qua quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng. Kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ, công chức từng bước được nâng cao về mọi mặt, góp phần tích cực vào thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước trong giai đoạn vừa qua. Tuy nhiên, thực trạng đội ngũ công chức hiện nay vẫn bộc lộ những yếu kém, bất cập như Đảng ta đã nhận định: “đội ngũ cán bộ hiện nay xét về chất lượng, số lượng, cơ cấu nhiều mặt chưa ngang tầm với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”[23] “Năng lực và phẩm chất của nhiều cán bộ công chức còn yếu, một bộ phận không nhỏ thoái hoá, biến chất”[22]. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức chưa tương xứng, chưa đáp ứng yêu cầu công việc; tính chủ động, ý thức trách nhiệm với công việc được giao còn thấp; khả năng quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế. Một bộ phận công chức thoái hoá, biến chất, tham ô, buôn lậu, nhũng nhiễu phiền hà, thiếu công tâm, khách quan khi giải quyết công việc ; kỷ luật hành chính lỏng lẻo, bản lĩnh thiếu vững vàng, lãng phí...bị kỷ luật. Tất cả những điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và hiệu quả lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; đồng thời đặt ra đòi hỏi bức thiết phải nâng cao chất lượng công chức trong đó có đội ngũ công chức uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Ninh Bình là tỉnh được tái lập từ năm 1992 nhưng đến nay vẫn còn không ít khó khăn nhất là công tác cán bộ. Đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh đã được xây dựng chuẩn hoá nhiều mặt nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định về trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực... Điều đó đòi hỏi cần có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác cán bộ nói chung, đội ngũ công chức cấp tỉnh nói riêng để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh. Xuất phát từ lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Chất lượng công chức Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chất lượng công chức là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý và sử dụng cán bộ; đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong nước. Một số đề tài nghiên cứu, sách, tạp chí có liên quan đã được công bố như: - Nguyễn Duy Gia (1990), Cải cách hệ thống tổ chức, hoạt động của bộ máy quản lý hành chính nhà nước, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức hành chính nhà nước, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội. - Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, Viện Khoa học tổ chức nhà nước (1998), Đạo đức, phong cách lề lối làm việc của cán bộ công chức theo tư tưởng Hồ chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Bùi Đình Phong (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, Nxb Lao động, Hà Nội. - Tô Tử Hạ (2003), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ công chức hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Bộ Khoa học và Công nghệ (2003): Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của nhà nước pháp quyền XHCN do dân, vì dân. - Phạm Hồng Thái (2004), Công vụ, công chức nhà nước, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. - Ngô Hải Phan (2004), Trách nhiệm của công chức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ luật học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - Thang Văn Phúc – Nguyễn Minh Phương (2005): Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Nxb. Chính trị quốc gia. - Võ Thị Thuý Hà (2007), Lịch sử phát triển và phương hướng hoàn thiện pháp luật cán bộ công chức ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tuy có nhiều công trình khoa học nghiên cứu nhưng mỗi công trình đề cập đến vấn đề ở những khía cạnh khác nhau. Cho đến hiện nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về chất lượng công chức của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ở Ninh Bình. Những quan điểm, nhận định, đánh giá của những công trình khoa học liên quan đến đề tài đều được tác giả nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công chức của UBND tỉnh Ninh Bình hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau: - Hệ thống hoá, phân tích, khái quát các vấn đề lý luận về chất lượng công chức UBND cấp tỉnh. - Phân tích thực trạng chất lượng công chức của UBND tỉnh Ninh Bình, chỉ ra ưu, nhược điểm và các vấn đề đặt ra cần giải quyết. - Đưa ra các quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng công chức của UBND tỉnh Ninh Bình. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Công chức theo quy định hiện hành có phạm vi rất rộng, không chỉ trong bộ máy hành chính nhà nước mà cả trong bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, trong các tổ chức Đảng, đoàn thể nhưng luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau: - Về thời gian: Nghiên cứu chất lượng công chức UBND tỉnh Ninh Bình từ năm 2004 đến 30/6/2009. -Về đối tượng: Công chức làm việc trong tập thể UBND và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Ninh Bình. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về cán bộ; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng hoạt động công vụ, phục vụ nhân dân. Các phương pháp cụ thể sẽ được sử dụng trong luận văn là: Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử, phương pháp chuyên gia, phương pháp dự báo, phương pháp so sánh... 6. Đóng góp mới của luận văn - Chất lượng cán bộ là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Qua việc nghiên cứu chế độ công chức của Việt Nam và một số nước trên thế giới; thực trạng chất lượng công chức của UBND tỉnh Ninh Bình, luận văn bước đầu làm sáng tỏ những hạn chế của chất lượng công chức nói chung, những yếu tố ảnh hưởng, tác động đến chất lượng công chức, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng công chức đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay - Luận văn đề xuất những giải pháp chủ yếu, thiết thực góp phần nâng cao chất lượng công chức của UBND tỉnh Ninh Bình. - Luận văn dùng làm tài liệu tham khảo cho các cấp lãnh đạo trong việc hoạch định chính sách, sắp xếp công chức phù hợp chuyên môn, đồng thời bổ sung tài liệu cho cán bộ, sinh viên trong công tác nghiên cứu và học tập. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 1.1. KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH 1.1.1. Khái niệm công chức Công chức là khái niệm được dùng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới nhưng được hiểu không giống nhau, thậm chí ngay trong phạm vi một quốc gia quan niệm về công chức qua các thời kỳ cũng khác nhau. Theo kinh nghiệm của các quốc gia đã thực hiện chế độ công chức thì công chức được hiểu là những công dân được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở trung ương hay địa phương, ở trong nước hay ngoài nước, được xếp vào một ngạch và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Với quan niệm như thế để trở thành người công chức cần phải thỏa mãn sáu điều kiện sau: - Là công dân của nước đó - Được tuyển dụng bằng hình thức thi tuyển - Giữ một công vụ thường xuyên - Làm việc trong một công sở - Lĩnh lương từ ngân sách Nhà nước [35]. Những người làm việc trong các cơ quan Nhà nước nhưng không đủ các điều kiện nói trên thì là viên chức Nhà nước. Ở một số nước, công chức chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động quản lý nhà nước. Có những nước, ngoài những người thực hiện trực tiếp các hoạt động quản lý nhà nước, công chức còn được áp dụng cho những người làm trong các cơ quan dịch vụ công. Từ năm 1859 ở vương quốc Anh, người ta đã xác định hai bộ phận của công chức như sau: - Những người do nhà Vua trực tiếp bổ nhiệm hoặc được ủy ban dân sự cấp giấy chứng nhận cho phép tham gia công tác ở cơ quan dân sự. - Những người mà toàn bộ tiền lương được cấp trực tiếp từ ngân sách thống nhất của Vương quốc liên hợp hoặc từ các khoản được Quốc hội thông qua. Nước Mỹ, người ta gọi chung những nhân viên trong ngành hành chính của Chính phủ là công chức. Công chức ở Nhật Bản gồm có công chức Nhà nước và công chức ở địa phương. Công chức nhà nước là những người được nhậm chức trong bộ máy của Chính phủ Trung ương, ngành tư pháp, quốc hội, quân đội, trường học công, xí nghiệp và đơn vị sự nghiệp quốc doanh, được lĩnh lương từ ngân sách Nhà nước. Công chức địa phương là những người làm việc và lĩnh lương từ nguồn ngân sách của địa phương. Inđônêxia xác định công chức là những người được tuyển dụng và bổ nhiệm làm việc thường xuyên ở các công sở trung ương và địa phương, một số sĩ quan cao cấp trong quân đội, những nhà quản trị các doanh nghiệp nhà nước. Ở Việt Nam, khái niệm công chức lần đầu tiên được nêu ra trong Sắc lệnh 76/ SL ngày 20/5/1950 của chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành quy chế công chức. Theo quy chế này, công chức được hiểu là những công dân Việt Nam được chính quyền tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan của Chính Phủ, ở trong hay ngoài nước, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính Phủ quy định. Như vậy, công chức chủ yếu là những người làm việc trong bộ máy nhà nước ở trung ương. Đội ngũ cán bộ đoàn thể, những người làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương không phải tất cả đều là công chức, thuộc phạm vi điều chỉnh của sắc lệnh. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh nên Quy chế công chức theo sắc lệnh này không được thực hiện đầy đủ và trong thực tế thời gian này người ta thường dùng khái niệm cán bộ để chỉ những người làm việc trong biên chế nhà nước nói chung. Những năm đầu thập kỷ 80, khái niệm công chức được xác định lại theo Nghị định số 169/HĐBT ngày 25/5/1985. Điều 1 Nghị định này quy định, công chức là: "Công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của nhà nước ở trung ương hay địa phương, ở trong nước hay ngoài nước đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp" [31]. Ngày 26/2/1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh cán bộ, công chức và được sửa đổi bổ sung năm 2003. Cán bộ, công chức quy định tại pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm: - Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên; được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn; được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước ; mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn, nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng. - Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân. - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp [41]. Tuy nhiên, Pháp lệnh nói trên không đưa ra giới hạn để phân biệt thế nào là cán bộ, thế nào là công chức, vì vậy trong năm nhóm trên không thể xác định nhóm nào là cán bộ, nhóm nào là công chức hoặc trong từng nhóm thì ai là cán bộ, ai là công chức. Để hướng dẫn thi hành pháp lệnh cán bộ, công chức, Nghị định 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính Phủ quy định công chức là: + Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm, hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên; được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn; được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, làm việc trong các cơ quan Nhà nước sau: Văn phòng Chủ tịch nước; Văn phòng Quốc hội; cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và địa phương; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp; cơ quan đại diện nhà nước ở nước ngoài; cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của Nhà nước; các tổ chức sự nghiệp khác của Nhà nước. + Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp [8]. Công chức được phân loại theo trình độ đào tạo và theo vị trí công tác. Theo trình độ đào tạo gồm các loại công chức sau: + Công chức loại A: Có trình độ đào tạo chuyên môn từ bậc Đại học trở lên. + Công chức loại B: Có trình độ đào tạo chuyên môn ở bậc trung học chuyên nghiệp, cao đẳng. + Công chức loại C: Có trình độ đào tạo chuyên môn ở bậc sơ cấp. Theo vị trí công tác gồm có: Công chức lãnh đạo (chỉ huy điều hành), và công chức chuyên môn nghiệp vụ [8]. Quan niệm về công chức như trên cũng được nhắc lại một cách tương tự trong Nghị định 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính Phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ trong các cơ quan nhà nước. Qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung ngày 9/12/2008 Quốc hội ban hành Luật cán bộ, công chức năm 2008 sẽ có hiệu lực 1/1/2010 quy định cụ thể hơn về công chức, phân biệt và giải thích rõ cán bộ và công chức. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước tổ chức chính trị-xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội( sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được đảm bảo từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [43]. Như vậy, những văn bản trước Luật cán bộ, công chức năm 2008 không định nghĩa công chức bằng việc nêu lên những đặc điểm mô tả thế nào là công chức. Để xác định ai là công chức phải căn cứ vào sự liệt kê các đối tượng công chức. Luật Cán bộ, công chức sẽ có hiệu lực trong thời gian tới đã đưa ra khái niệm mô tả để xác định cụ thể ai là công chức. Theo quy định này công chức là: + Công dân Việt Nam. + Được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch chức danh. + Trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong xây dựng luật nhưng khái niệm công chức theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 vẫn có phạm vi, đối tượng rộng bao gồm cả công chức trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân. Cách quy định của pháp luật như vậy vẫn chưa hợp lý vì hoạt động của công chức luôn gắn với quyền lực Nhà nước và pháp luật. Còn hoạt động của những người làm việc trong tổ chức chính trị-xã hội về nguyên tắc chung đều phải chấp hành pháp luật của nhà nước nhưng hoạt động của họ lại chủ yếu dựa vào điều lệ , thể chế của các tổ chức đó, tuy rằng hoạt động của các tổ chức đó cũng đều phải tuân thủ pháp luật. Công chức là bộ phận quan trọng trong nền hành chính của một quốc gia. Nền hành chính nước ta không chỉ nằm trong hệ thống chính quyền hành pháp như cách hiểu của một số nước trên thế giới. Do vậy công chức vẫn được hiểu ở phạm vi rộng. 1.1.2. Công chức ủy ban nhân dân cấp tỉnh 1.1.2.1. Khái niệm công chức ủy ban nhân dân cấp tỉnh Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), là cấp thứ 2 trong 4 cấp quản lý hành chính của bộ máy hành chính nhà nước,được xác định là cấp chiến lược, là cầu nối đầu tiên chuyển tải các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với người dân đồng thời cũng là cấp có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các quyết định trên địa bàn. Cấp tỉnh có vị trí trung tâm chi phối mọi hoạt động của các cấp chính quyền địa phương (huyện, xã), chỉ đạo phát triển toàn diện các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh trên địa bàn. Vì vậy, UBND tỉnh có những chức năng chủ yếu sau: - Quản lý hành chính theo ranh giới, lãnh thổ về các hoạt động của Đảng, nhà nước và các ngành chức năng trực thuộc và các huyện, thị xã, thành phố theo nhiệm vụ phân cấp của Chính phủ. - Vận dụng và cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các cấp, các đoàn thể và toàn dân thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh trên địa bàn tỉnh góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược là xây dựng đất nước và bảo vệ vững chắc nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. - Quản lý trực tiếp và toàn diện các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn và chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo mọi mặt của Trung ương. Để thực hiện chức năng trên, UBND tỉnh có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội, phát triển ngành, phát triển đô thị và nông thôn trong phạm vi quản lý; xây dựng kế hoạch dài hạn và hàng năm về phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh trình Hội đồng nhân dân thông qua để trình Chính phủ phê duyệt; - Chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy lợi; các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; phát triển sản xuất và bảo vệ cây trồng, vật nuôi trên địa bàn tỉnh; -Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của tỉnh; tổ chức quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh theo thẩm quyền; -Tổ chức việc lập, trình duyệt hoặc xét duyệt theo thẩm quyền các quy hoạch xây dựng vùng, xây dựng đô thị trên địa bàn tỉnh; quản lý kiến trúc, xây dựng, đất xây dựng theo quy hoạch đã được duyệt; phê duyệt kế hoạch, dự án đầu tư các công trình xây dựng thuộc thẩm quyền; quản lý công tác xây dựng và cấp phép xây dựng trên địa bàn tỉnh; - Chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý hộ khẩu; quản lý việc cư trú, đi lại của người nước ngoài ở địa phương; - Tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra việc thi hành hiến pháp, luật, các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp; tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở địa phương; - Tổ chức đăng ký, quản lý hộ tịch có yếu tố nước ngoài [42]. Để thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn trên UBND cấp tỉnh phải thông qua đội ngũ công chức thuộc thẩm quyền quản lý, sử dụng của mình (gọi chung là công chức UBND cấp tỉnh). Công chức UBND cấp tỉnh là một bộ phận của công chức nhà nước nói chung, làm việc trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, được giao những chức trách và thẩm quyền cụ thể để giúp UBND tỉnh thực hiện những chức năng, nhiệm vụ trên. Là bộ phận quan trọng cấu thành nên các cơ quan quản lý nhà nước ở cấp tỉnh, công chức UBND tỉnh đóng vai trò chủ yếu và quyết định hiệu quả công việc trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này, mà cao hơn chính là công tác của UBND tỉnh. Do vậy có thể hiểu: Công chức ủy ban nhân dân cấp tỉnh là một bộ phận của công chức hành chính nhà nước, làm việc trong tập thể ủy ban và các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân tỉnh, được ủy ban nhân dân tỉnh giao thực hiện những nhiệm vụ cụ thể và có những quyền hạn nhất định để giúp ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình 1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của công chức ủy ban nhân dân cấp tỉnh Nghị định 13/NĐ-CP ngày 4/2/2008 của Chính Phủ đã quy định thống nhất nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên toàn quốc để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Các sở và cơ quan tương đương sở (gọi chung là sở) thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và theo quy định của pháp luật. Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực cấp trên. Cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm việc theo chế độ thủ trưởng Người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (sau đây gọi chung là Giám đốc sở) chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và trước pháp luật về thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn do mình phụ trách. Căn cứ các quy định của pháp luật và phân công của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc sở ban hành Quy chế làm việc, chế độ thông tin báo cáo của cơ quan và chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện quy định đó. Giám đốc sở chịu trách nhiệm về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và các công việc được Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phân công hoặc ủy quyền; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm khi để xảy ra tham nhũng, gây thiệt hại trong tổ chức, đơn vị thuộc quyền quản lý của mình. Giám đốc sở có trách nhiệm báo cáo với Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ, cơ quan ngang Bộ về tổ chức, hoạt động của cơ quan mình; xin ý kiến về những vấn đề vượt quá thẩm quyền và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi có yêu cầu; phối hợp với Giám đốc cơ quan chuyên môn khác và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp để giải quyết các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (sau đây gọi chung là P

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan văn l2.doc
Tài liệu liên quan