Luận văn Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè tại Tổng Công ty chè Việt Nam giai đoạn 2001-2005

Trong quá trình hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào thị trường khu vực và thế giới, trước xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang nỗ lực hoà nhập vào nhịp độ phát triển của kinh tế thế giới bằng các chính sách mở cửa, đẩy mạnh xuất khẩu. Cùng với sự phát triển chung của kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam cũng đang từng bước đi lên nhờ các thế mạnh căn bản của mình, trong đó sản lượng chè xuất khẩu tăng với tốc độ khá mạnh đã đóng góp thực hiện các chương trình lớn của đất nước. Nhu cầu tiêu dùng chè đang trở thành một xu hướng chủ yếu trên thế giới và ngày càng có nhiều ưu điểm của sản phẩm đồ uống. Do vậy, việc hoà nhập và mở rộng thị trường chè Việt Nam vào thị trường chè thế giới là một đòi hỏi cấp thiết, góp phần tạo cơ sở để phát huy năng lực xuất khẩu chè, thiết lập uy tín và tạo chỗ đứng cho các sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế, tăng thu ngoại tệ cho đất nước, tạo công ăn việc làm cho lao động ở nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo.

Tuy nhiên, hiện nay ngành chè của Việt Nam còn có nhiều hạn chế nhất là trong xuất khẩu chè như: chất lượng mặt hàng xuất khẩu; chè xuất khẩu chủ yếu dưới dạng nguyên liệu thô nên lợi nhuận thu lại nhỏ hơn nhiều so với tiềm năng và lợi thế của ngành chè. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tín nhiệm của khách hàng nước ngoài và làm giảm sút thị phần tiêu thụ so với các nước xuất khẩu chè khác. Ngoài ra tình trạng phân tán, thiếu sự quản lý ở tầm vĩ mô trong bối cảnh các doanh nghiệp đang trong quá trình đổi mới, cổ phần hoá doanh nghiệp nên các nhà kinh doanh xuất khẩu chè nước ta vấp phải không ít khó khăn về vốn, sự biến động giá cả và sự cạnh tranh không cân sức với các công ty nước ngoài.

Tổng Công ty chè Việt Nam là một Tổng Công ty đầu ngành của cả nước về sản xuất và xuất khẩu chè cũng không tránh khỏi những vướng mắc đó. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm khắc phục các hạn chế và phát huy những lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu chè.

Bằng những kiến thức cơ bản về kinh tế cùng với thời gian thực tập tại Tổng Công ty chè Việt Nam và thông qua tài liêụ nghiên cứu, tôi đã chọn đề tài “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè tại Tổng Công ty chè Việt Nam giai đoạn 2001-2005” với mong muốn nhằm củng cố thêm kiến thức đã học và góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty chè Việt Nam

Luận văn này ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 3 chương:

Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu và xuất khẩu chè.

Chương II: Thực trạng xuất khẩu chè của Tổng Công ty chè Việt Nam trong thời gian qua.

Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè của Tổng Công ty chè Việt Nam giai đoạn 2001- 2005.

 

doc99 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 812 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Luận văn Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè tại Tổng Công ty chè Việt Nam giai đoạn 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở đầu Trong quá trình hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào thị trường khu vực và thế giới, trước xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang nỗ lực hoà nhập vào nhịp độ phát triển của kinh tế thế giới bằng các chính sách mở cửa, đẩy mạnh xuất khẩu. Cùng với sự phát triển chung của kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam cũng đang từng bước đi lên nhờ các thế mạnh căn bản của mình, trong đó sản lượng chè xuất khẩu tăng với tốc độ khá mạnh đã đóng góp thực hiện các chương trình lớn của đất nước. Nhu cầu tiêu dùng chè đang trở thành một xu hướng chủ yếu trên thế giới và ngày càng có nhiều ưu điểm của sản phẩm đồ uống. Do vậy, việc hoà nhập và mở rộng thị trường chè Việt Nam vào thị trường chè thế giới là một đòi hỏi cấp thiết, góp phần tạo cơ sở để phát huy năng lực xuất khẩu chè, thiết lập uy tín và tạo chỗ đứng cho các sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế, tăng thu ngoại tệ cho đất nước, tạo công ăn việc làm cho lao động ở nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, hiện nay ngành chè của Việt Nam còn có nhiều hạn chế nhất là trong xuất khẩu chè như: chất lượng mặt hàng xuất khẩu; chè xuất khẩu chủ yếu dưới dạng nguyên liệu thô nên lợi nhuận thu lại nhỏ hơn nhiều so với tiềm năng và lợi thế của ngành chè. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tín nhiệm của khách hàng nước ngoài và làm giảm sút thị phần tiêu thụ so với các nước xuất khẩu chè khác. Ngoài ra tình trạng phân tán, thiếu sự quản lý ở tầm vĩ mô trong bối cảnh các doanh nghiệp đang trong quá trình đổi mới, cổ phần hoá doanh nghiệp nên các nhà kinh doanh xuất khẩu chè nước ta vấp phải không ít khó khăn về vốn, sự biến động giá cả và sự cạnh tranh không cân sức với các công ty nước ngoài. Tổng Công ty chè Việt Nam là một Tổng Công ty đầu ngành của cả nước về sản xuất và xuất khẩu chè cũng không tránh khỏi những vướng mắc đó. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm khắc phục các hạn chế và phát huy những lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu chè. Bằng những kiến thức cơ bản về kinh tế cùng với thời gian thực tập tại Tổng Công ty chè Việt Nam và thông qua tài liêụ nghiên cứu, tôi đã chọn đề tài “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè tại Tổng Công ty chè Việt Nam giai đoạn 2001-2005” với mong muốn nhằm củng cố thêm kiến thức đã học và góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu của Tổng Công ty chè Việt Nam Luận văn này ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 3 chương: Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu và xuất khẩu chè. Chương II: Thực trạng xuất khẩu chè của Tổng Công ty chè Việt Nam trong thời gian qua. Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè của Tổng Công ty chè Việt Nam giai đoạn 2001- 2005. Chương I lý luận chung về hoạt động xuất khẩu và xuất khẩu chè I. Sự cần thiết của việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè 1. Các lý thuyết về thương mại quốc tế - Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Thương mại quốc tế là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. Các nước tham gia thương mại quốc tế đều chịu sự chi phối chung của các quy luật kinh tế. Hiểu rõ các quy luật này là một điều rất cần thiết để xác định chính xác hướng đi cho xuất khẩu của Việt Nam. 1.1. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith Cuối thế kỷ 17 các nhà trọng thương coi thương mại là hành vi tước đoạt lẫn nhau vì theo họ thương mại không tạo ra của cải, khi người này được lợi thì người kia phải chịu thiệt. Giai đoạn từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 18 các nhà kinh tế học tư sản cổ điển đã nêu ra các lý thuyết về lợi ích của thương mại quốc tế dựa vào sự chuyên môn hoá của mỗi quốc gia. Năm 1776 trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc”, Smith đã bác bỏ quan niệm sai lầm coi thương mại là quan hệ “được – mất”. Ông lập luận “Điều gì là thận trọng trong các quản lý một gia đình thì ít khi trở thành thiếu khôn ngoan trong các điều hành một vương quốc lớn. Nếu nước ngoài có thể cung cấp cho chúng ta một hàng hoá rẻ hơn chúng ta làm, thì tốt nhất chúng ta nên mua chúng bằng một phần sản lượng của những kỹ nghệ mà chúng ta có”. Cơ sở của lập luận này là các quốc gia có hiệu quả khác nhau trong việc sản xuất các sản phẩm khác nhau. Vào khoảng thời gian đó, Anh trở thành nước sản xuất hàng dệt hiệu quả nhất thế giới nhờ vào sự kết hợp những điều kiện thuận lợi về khí hậu, đất đai và kinh nghiệm tích luỹ được trong quá khứ. Trong khi đó Pháp lại sản xuất rượu vang hiệu quả nhất thế giới. Vì vậy, Anh có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất hàng dệt và Pháp có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất rượu vang. Mỗi quốc gia có một lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất một sản phẩm khi mà nó hiệu quả hơn một quốc gia khác trong sản xuất sản phẩm đó. Theo Smith, các quốc gia nên chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó bán những hàng hoá này sang quốc gia khác để đổi lấy các sản phẩm mà nước ngoài sản xuất hiệu quả hơn. Lý thuyết này cho rằng, Anh nên chuyên môn hoá sản xuất xuất khẩu hàng dệt và Pháp nên chuyên môn hoá sản xuất xuất khẩu rượu vang, Anh có thể có tất cả rượu vang mà họ cần bằng việc bán hàng dệt sang Pháp và mua rượu vang từ Pháp. Các quốc gia không nên sản xuất những hàng hoá mà họ có thể mua được với giá rẻ hơn từ nước ngoài. Bằng việc chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm có lợi thế tuyệt đối, cả hai quốc gia đều có lợi khi quan hệ thương mại với nhau. ở đây, Smith đã thể hiện một cách nhìn mới về thương mại, đó là kiểu quan hệ hai bên cùng có lợi. Để làm sáng tỏ luận điểm này, chúng ta xem ví dụ sau: Giả sử có 2 quốc gia Nhật Bản và Việt Nam cùng bỏ ra 100 giờ lao động cho mỗi sản phẩm gạo và than thu được kết quả như sau: Việt Nam sản xuất được 100 tấn gạo và 200 tấn than. Nhật Bản sản xuất được 80 tấn gạo và 400 tấn than. Nếu không có thương mại quốc tế, sức sản xuất chung của 2 quốc gia là 180 tấn gạo và 600 tấn than với tổng chi phí lao động xã hội là 400 giờ. Khi đó ở Việt Nam một đơn vị gạo có thể đổi được 2 đơn vị than, ở Nhật Bản một đơn vị gạo đổi được 5 đơn vị than. Nhìn tổng quát Việt Nam có lợi thế về sản xuất gạo, Nhật Bản có lợi thế về sản xuất than. Đó là lợi thế tuyệt đối của mỗi quốc gia. Nếu có giao thương quốc tế, Việt Nam có thể chuyên môn hoá sản xuất gạo, Nhật Bản sẽ sản xuất than khi đó với 200 giờ lao động ở Việt Nam sẽ tạo ra được 200 tấn gạo, còn ở Nhật Bản sẽ được 800 tấn than. Sức sản xuất của cả xã hội đã tăng được 20 tấn gạo và 200 tấn than so với không có sự chuyên môn hoá và thương mại quốc tế. Như vậy, trao đổi quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá theo lợi thế tuyệt đối đã làm tăng sức sản xuất chung của xã hội. Đó là cơ sở kinh tế để có thể tăng thêm lợi ích của các tác nhân tham gia vào quá trình thương mại quốc tế mà không cần có sự tước đoạt lẫn nhau như các nhà trong thương chủ nghĩa đã khẳng định. Ưu điểm của lý thuyết: Đề cao vai trò của cá nhân và các doanh nghiệp, ủng hộ một nền thương mại tự do, không có sự can thiệp của Chính Phủ. Mậu dịch tự do sẽ làm cho thế giới sử dụng tài nguyên có hiệu quả hơn, mang lại lợi ích nhiều hơn. Thấy được tính ưu của chuyên môn hoá. Tuy nhiên lại đồng nhất hoá sự phân công lao động trong nước mà không tính đến sự khác biệt giữa các quốc gia là rất lớn về thể chế chính trị, về phong tục tập quán. Hạn chế của lý thuyết: Dùng lý thuyết tuyệt đối chỉ có thể giải thích được một phần rất nhỏ trong mậu dịch thế giới ngày nay ví như giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển. Lý thuyết này không thể giải thích được trong trường hợp một nước được coi là “tốt nhất” tức là quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối để sản xuất tất cả các sản phẩm hoặc một nước được coi là “kém nhất “ tức là quốc gia đó không có một sản phẩm nào có lợi thế tuyệt đối để sản xuất trong nước. Liệu trong những trường hợp đó, các quốc gia có còn giao thương với nhau nữa không và lợi ích mậu dịch sẽ nằm ở chỗ nào? Hay lại áp dụng chính sách “Bế quan toả cảng”? Ngày nay, đặc biệt mậu dịch giữa các nước phát triển với nhau nếu dùng lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith thì không thể giải thích nổi. Để làm được điều này phải nhờ tới quy luật lợi thế so sánh của Ricardo 1.2. Lý thuyết lợi thế tương đối của David Ricardo Ricardo đã đi xa hơn một bước trong việc khám phá ra cơ chế hình thành lợi ích của thương mại. Lý thuyết lợi thế so sánh của ông được trình bày trong tác phẩm “Những nguyên lý của kinh tế chính trị học”, cho rằng bất kỳ quốc gia nào cũng có thể thu được lợi khi tham gia vào quan hệ thương mại với nước ngoài. Học thuyết lợi thế so sánh được xây dựng trên cơ sở khái niệm năng suất lao động, chi phí cơ hội và lợi thế so sánh. Để xây dựng quy luật lợi thế so sánh của mình Ricardo đã đưa ra một số giả thiết: - Chỉ có hai quốc gia và chỉ có hai loại hàng hoá. - Chi phí vận chuyển bằng không. - Mậu dịch tự do. - Lao động có thể chuyển dịch hoàn toàn chỉ trọng một quốc gia nhưng không có khả năng chuyển dịch giữa các quốc gia. - Chi phí sản xuất là cố định. - Lý thuyết tính giá trị bằng lao động. Theo quy luật này, ngay cả một quốc gia là “kém nhất” (tức là không có lợi thế tuyệt đối để sản xuất cả hai sản phẩm) vẫn có lợi khi giao thương với một quốc gia khác được coi là “tốt nhất” (tức là có lợi thế tuyệt đối để sản xuất cả hai sản phẩm). Và quốc gia thứ hai lại càng có lợi hơn so với khi họ không giao thương. Trong trường hợp này, quốc gia thứ nhất có thế chuyên môn hoá và xuất khẩu sản phẩm họ không có lợi thế tuyệt đối so với nước kia, nhưng có lợi thế tuyệt đối lớn hơn giữa hai sản phẩm trong nước (tức là họ có lợi thế so sánh hay lợi thế tương đối) và nhập khẩu sản phẩm mà lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn giữa hai sản phẩm trong nước (tức là họ không có lợi thế so sánh). Có thể tóm tắt nguyên lý lợi thế tương đối của David Ricardo thông qua ví dụ sau: Giả sử 2 quốc gia Nhật Bản và Việt Nam cùng chi ra 100 giờ lao động cho mỗi sản phẩm gạo và than thu được kết quả như sau: Nước Gạo Than Kết quả SX (Tấn) Chi phí sản xuất (giờ/tấn) Kết quả SX (Tấn) Chi phí SX (giờ/tấn) Việt Nam 100 1 400 0.25 Nhật Bản 80 1.25 200 0.5 Nội dung nguyên lý lợi thế tương đối được Ricardo phát biểu như sau: các nước cần lựa chọn mặt hàng để chuyên môn hoá sản xuất theo công thức: Khi chi phí để sản xuất sản phẩm A của nước X so với đối tác nhỏ hơn chi phí sản xuất sản phẩm B cũng của nước đó so với đối tác thì nước đó thì nước X cần chọn sản phẩm A để chuyên môn hoá. Theo công thức trên, với số liệu ở ví dụ trên Việt Nam cần chọn sản phẩm than để chuyên môn hoá (vì 0.25/0.5 < 1/1.25) và Nhật Bản nên chọn sản phẩm gạo để chuyên môn hoá (vì 1.25/1 < 0.5/0.25). Nếu Việt Nam dành toàn bộ sức lao động để chuyên sản xuất than, còn Nhật Bản sản xuất gạo, thì sức sản xuất chung của xã hội sẽ là 160 tấn gạo và 800 tấn than. So với không chuyên môn hoá thì gạo bị hụt đi 20 tấn và than tăng lên 200 tấn. Quy 200 tấn than ra thành gạo theo tỷ lệ trao đổi hiện hành là 160/180 thì lượng 200 tấn than đó tương đương với 40 tấn gạo. Tức là sản xuất của xã hội tăng thêm hơn trước 20 tấn gạo. Như vậy quy luật lợi thế tương đối của Ricardo đã đi xa hơn Adam Smith ở chỗ chứng minh rằng tất cả các quốc gia đều có lợi khi giao thương với nhau bất kể là quốc gia đó có lợi thế tương đối hay không. Tuy nhiên vào thời kỳ đó Ricardo đã chưa đưa ra được những bằng chứng xác đáng để biện minh cho lý thuyết của mình, cụ thể là: - Trong chi phí sản xuất chỉ mới tính đến 1 yếu tố duy nhất đó là lao động. Còn các yếu tố khác như vốn, kỹ thuật, đất đai và cả trình độ của người lao động thì không được đề cập đến. Do đó không thể tìm ra nguyên nhân tại sao năng suất lao động của nước này lại cao (thấp) hơn so với năng suất lao động của nước khác. - Mặc dù học thuyết này có chứng minh được lợi ích của thương mại quốc tế, nhưng vẫn không xác định được tỷ lệ giao hoán quốc tế, tức là giá cả quốc tế, căn bản vẫn là hàng đổi hàng. - Mỗi sản phẩm đem trao đổi không chỉ phụ thuộc vào chi phí sản xuất ra nó mà còn phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng sản phẩm đó ở trong nước. Ricardo đã không thấy điều này, ông chỉ chú ý đến cung mà không chú ý đến cầu đặc biệt là cầu trong nước. Do đó không xác định được giá cả tương đối của sản phẩm dùng để trao đổi giữa các nước với nhau 1.3. Lý thuyết tỷ lệ các yếu tố Heckscher- Ohlin Theo Ricardo thì nguồn gốc của lợi thế so sánh xuất phát từ sự khác biệt về năng suất lao động. Hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển, Eli Heckscher (1919) và Perti Olin (1933) đã đưa ra một cách giải thích mới về nguồn gốc của lợi thế so sánh. Theo hai ông, lợi thế so sánh của một quốc gia xuất phát từ sự khác biệt về mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất. Các yếu tố sản xuất mà hai ông đề cập đến là đất đai, lao động và tư bản. Sự khác biệt về mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất sẽ dẫn đến sự khác biệt về giá cả của các yếu tố sản xuất. Các yếu tố sản xuất càng dồi dào thì giá cả của nó càng rẻ. Vì vậy, giá cả của những hàng hoá sử dụng nhiều yếu tố sản xuất dồi dào sẽ rẻ hơn. Tương tự như Ricardo, Heckscher và Ohlin cho rằng thương mại là có lợi. Khác với Ricardo, cả hai giải thích các động thái thương mại xuất phát từ sự khác nhau về mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất. Lý thuyết xây dựng với các giả thiết: - Tất cả các nguồn lực đều được sử dụng. - Chỉ có hai quốc gia, hai hàng hoá, hai đầu vào lao động và Tư bản. - Tất cả các quốc gia có năng suất lao động như nhau (công nghệ như nhau) - Các hàng hoá khác nhau về tỷ lệ kết hợp các yếu tố sản xuất. - Các yếu tố sản xuất có thể di chuyển từ ngành này sang ngành khác nhưng không di chuyển được từ nước này sang nước khác. Mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất là cố định. - Nhu cầu không bị hạn chế. Lý thuyết này được tóm tắt với những nội dung chính: Để hiểu được vai trò của các nguồn lực trong thương mại, chúng ta bắt đầu bằng việc xem xét tác động của nguồn lực đến khả năng sản xuất của một nước. Sự gia tăng cung ứng về một yếu tố sản xuất, chẳng hạn như đất đai, ở một nước sẽ chuyển dịch đường giới hạn khả năng sản xuất một cách thiên lệch: một sự tăng cung ứng về đất đai sẽ chuyển dịch đường giới hạn ra ngoài theo hướng sản xuất hàng hoá cần tập trung nhiều đất đai hơn là theo hướng sản xuất hàng hoá cần tập trung nhiều lao động. Do đó, các nước sẽ sản xuất tương đối có hiệu quả hơn những hàng hoá cần tập trung nhiều yếu tố mà nước đó có sự cung cấp tương đối dồi dào. Sự thay đổi về mức giá tương đối của hàng hoá có tác động mạnh đến thu nhập tương đối mà các nguồn lực khác nhau thu được. Một sự gia tăng ở mức giá của hàng hoá sử dụng nhiều đất đai sẽ nâng mức tiền thuê đất theo một tỷ lệ lớn hơn, trong khi trên thực tế hạ thấp mức lương xuống. Một nước mà có nguồn cung ứng một loại nguồn lực lớn hơn tương đối so với sự cung cấp các nguồn lực khác được coi là giàu có về nguồn lực. Mỗi nước sẽ có xu hướng sản xuất nhiều hơn một cách tương đối những hàng hoá sử dụng nhiều nguồn lực mà nước đó dồi dào. Kết quả này là cơ sở của lý thuyết thương mại Heckscher- Ohlin: các nước có xu hướng xuất khẩu hàng hoá cần tập trung nhiều yếu tố sản xuất mà họ có thể cung ứng tương đối dồi dào. Do những thay đổi về giá tương đối của hàng hoá có tác động mạnh đến thu nhập tương đối các yếu tố sản xuất, và do thương mại làm thay đổi mức giá tương đối, thương mại quốc tế có những tác động mạnh đến sự phân phối thu nhập. Những người sở hữu những yếu tố mà một nước có dồi dào sẽ được lợi từ thương mại, nhưng những người sở hữu các yếu tố khan hiếm sẽ chịu thiệt. Trong một mô hình được lý tưởng hoá, thương mại quốc tế sẽ dẫn đến việc san bằng mức giá các yếu tố sản xuất như lao động hoặc vốn giữa các nước. Trong thực tế, chúng ta không thấy có sự san bằng hoàn toàn mức các giá các yếu tố sản xuất, do có sự khác biệt rất lớn về các nguồn lực, những cản trở đối với thương mại và khác biệt quốc tế về công nghệ. Bằng chứng thực tế nhìn chung không ủng hộ ý kiến cho rằng sự khác biệt về nguồn lực là yếu tố quyết định mô thức thương mại. Thay vào đó, những khác biệt về công nghệ có lẽ đóng vai trò quan trọng, như chúng ta thấy trong mô hình Ricardo. Tuy nhiên, mô hình Heckscher- Ohlin vẫn có ích như là một phương pháp để phán đoán tác động của thương mại đến sự phân phối thu nhập. 1.4. Lợi thế cạnh tranh. Xu thế hội nhập và tự do hoá thương mại vừa tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế, song cũng là những thách thức về sự cạnh tranh giữa các nền kinh tế. Về nguyên lý lợi thế tương đối và lợi thế tuyệt đối được xem xét và đánh giá bởi các yếu tố tự nhiên và kinh tế, vì vậy nó thuần tuý ở dạng tiềm năng. Đối với một nước tiềm năng về tự nhiên được ví như “rừng vàng biển bạc” nhưng vẫn bị nghèo đói nếu không có giải pháp hữu hiệu để khai thác các tiềm năng đó. Vì vậy các tiềm năng cần được đặt trong mối quan hệ với các vấn đề chính trị, xã hội, đặc biệt là môi trường và chính sách kinh tế. Chỉ trên cơ sở khai thác một cách tổng hợp các điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội và chính trị bằng hệ thống các giải pháp hữu hiệu mới tạo ra lợi thế ở sức mạnh tổng hợp cao trong sản xuất và xuất khẩu. Đó là lợi thế cạnh tranh của xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản – chè nói riêng. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, lợi thế so sánh không thể tồn tại lâu dài, mà có sự thay đổi chuyển hoá nhanh qua các giai đoạn. Việc xác định lợi thế cạnh tranh đã xem xét tới khía cạnh trí tuệ trong khai thác các tiềm năng tự nhiên, kinh tế, đó là các yếu tố động, có như vậy mới có các giải pháp chủ động khai thác lợi thế và tiềm lực của nền kinh tế trong sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nông sản trong đó đặc biệt là mặt hàng chè. Như vậy, có thể hiểu: “Lợi thế cạnh tranh là sự biểu hiện tính trội của mặt hàng đó về chất lượng và cơ chế vận hành của nó trên thị trường, tạo nên sự hấp dẫn và thuận tiện cho khách hàng trong quá trình sử dụng”. Nét đặc trưng của lợi thế cạnh tranh được biểu hiện trên các mặt: chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, khối lượng và thời gian giao hàng, tính chất và sự khác biệt của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của nước này so với các nước khác trong việc thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra còn bao gồm hệ thống chính sách vĩ mô (thuế, tỷ giá, bảo hộ…), cơ chế vận hành và môi trường thương mại. Lợi thế cạnh tranh còn biểu hiện tính kinh tế của yếu tố đầu vào cũng như yếu tố đầu ra của sản phẩm, nó bao gồm chi phí cơ hội và năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt đạt tiêu chuẩn quốc tế và thị hiếu tiêu dùng…với các đặc trưng trên có thể nói lợi thế cạnh tranh là những nội dung mang tính giải pháp về chiến lược và sách lược của đất nước trong quá trình sản xuất, trao đổi và thương mại. Vấn đề khai thác lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu nông sản được biểu hiện rõ cả về logic và lịch sử. Nhưng làm thế nào để một nước, một vùng có thể vận dụng được các lợi thế so sánh của mình? 2. Xuất khẩu cây chè ở Việt Nam là phù hợp với lợi thế so sánh của Việt Nam Từ nghiên cứu các lý thuyết về lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh có thể rút ra một số kết luận sau về việc vận dụng các lý thuyết trên vào sản xuất và xuất khẩu nông sản ở Việt Nam Thứ nhất: Trong điều kiện nông nghiệp Việt Nam từ nền nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ chuyển sang sản xuất hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần phải nhanh chóng vận dụng các lý thuyết về lợi thế so sánh để xác định hướng kinh doanh của mỗi vùng, mỗi địa phương cũng như trong từng doanh nghiệp, thậm chí trong từng đơn vị sản xuất kinh doanh. Bởi vì, chỉ trên cơ sở khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh thực hiện chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp, nông nghiệp Việt Nam mới chuyển sang sản xuất hàng hoá một cách vững chắc, từng bước thâm nhập vào thị trường nông sản thế giới. Thứ hai: Việt Nam có lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên như khí hậu, đất đai, vị trí địa lý, nguồn tài nguyên…Các nguồn lực tự nhiên ảnh hưởng tới thương mại quốc tế cũng rất rõ. Là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam á có khí hậu nhiệt đới gió mùa do chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của chế độ gió mùa Châu á. Khí hậu Việt Nam có tính đa dạng, phân biệt rõ từ Bắc vào Nam, với một mùa đông lạnh ở Miền Bắc, khí hậu kiểu Nam á ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long, với khí hậu có tính chất trung gian chuyển tiếp ở vùng ven biển Trung Bộ. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Việt Nam có thể đa dạng hoá các loại cây nông sản khác trong đó có cây chè. Thêm vào đó tiềm năng độ ẩm trong năm cao hơn 80%, lượng mưa lớn (trung bình 1800-2000mm/năm) kết hợp nguồn nhiệt giàu có đây là điều kiện thuận lợi cho việc sinh trưởng và phát triển của nhiều loại cây trồng. Như vậy với khí hậu nắng ẩm mưa nhiều, hệ số dao động nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn từ 8-12 độ C không những phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển cây chè mà còn tạo điều kiện cho cây chè tổng hợp được nhiều chất thơm tự nhiên và đặc trưng. Về đất đai, tiềm năng đất nông nghiệp của nước ta là 10-11.5 triệu ha, trong đó gần 8 triệu ha cây trồng hàng năm và 2.3 triệu ha cây trồng lâu năm. Hiện nay Việt Nam chỉ mới sử dụng hết 65% quỹ đất nông nghiệp trong đó đất trồng hàng năm là 5.6 triệu ha, trồng cây lâu năm là 86 vạn ha, ngoài ra là 33 vạn ha đồng cỏ tự nhiên. Số đất có thể mở rộng thêm phần lớn là đất dốc đã bị xói mòn, thoái hoá. Diện tích đất này ở miền núi Bắc Bộ chiếm khoảng 45% tổng diện tích, ở vùng khu 4 cũ khoảng 35% tổng diện tích, vùng Tây Nguyên khoảng 76%và vùng đồng bằng Nam Bộ khoảng 34%. Diện tích đất này nếu được đầu tư cải tạo thì sẽ rất thuận lợi cho phát triển trồng trọt cây công nghiệp dài ngày, trong đó có cây chè. Với chất lượng đất và chủng loại đa dạng phong phú kết hợp nguồn nhiệt, ẩm dồi dào sẽ là cơ sở tốt để phát triển cây chè. Không chỉ có lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên mà Việt Nam còn có lợi thế về nguồn nhân lực. Với dân số 80% dân số sống bằng nghề nông có thể nói nguồn nhân lực cho nông nghiệp là rất dồi dào. Với mức độ tăng dân số như hiện nay thì bình quân mỗi năm sẽ có gần 1 triệu người bước vào tuổi lao động trong đó ở nông thôn và các tỉnh miền núi là 35 vạn người, số lao động dôi dư sẽ tạo ra nguồn lao động to lớn để tiến hành khai hoang mở đất, tận dụng những vùng đất có tiềm năng. Mặt khác, lao động nước ta rẻ, cần cù lao động, thông minh sáng tạo, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Bởi vậy lực lượng này thực sự đáp ứng nhu cầu và là yếu tố thúc đẩy sự phát triển trong sản xuất và xuất khẩu chè. Qua đánh giá tiềm năng, lợi thế so sánh của Việt Nam thì cây chè hoàn toàn phù hợp với lợi thế đó, vì vậy Việt Nam là một vùng đất hứa với các nhà đầu tư quan tâm việc phát triển chè Thứ ba: Cần nhận thức rằng trong bối cảnh giao lưu kinh tế ngày càng mở rộng cộng với sự tiến bộ về khoa học công nghệ diễn ra một cách nhanh chóng, những lợi thế tuyệt đối về điều kiện tự nhiên và nhân công rẻ sẽ giảm dần. Vì vậy chúng ta không được ỷ lại vào những điều kiện đó. Cùng với việc xác định các tiềm năng và lợi thế so sánh về mặt tự nhiên, cần phải nâng cao chất lượng nguồn lao động để tăng sức mạnh của lợi thế này, có như vậy các sản phẩm của Việt Nam mới thâm nhập và trụ lại ở thị trường nông sản thế giới với chất lượng cao, giá thành hạ 3. Vị trí của cây chè trong nền kinh tế quốc dân Về mặt nông nghiệp: Chè là cây trồng rất lâu đời ở Việt Nam, đến nay đã xác định được 16 tỉnh có khả năng thích hợp nhất để trồng chè, tập trung chủ yếu ở trung du miền Bắc và Tây Nguyên. Bên cạnh ưu thế về khí hậu, đất đai của thiên nhiên nhiệt đới Việt Nam có lợi cho sinh trưởng cây chè (mùa hái chè dài, thời gian kiến thiết ngắn) và các nguồn gen phong phú (chè rừng miền núi) cây chè còn có ý nghĩa hơn đối với người nông dân: Thứ nhất: Những năm gần đây với việc triển khai giao đất và khoán vườn chè cho người lao động theo Nghị định 01-CP của Chính phủ cùng với những giải pháp của ngành chè Việt Nam để giải quyết đủ việc làm cho cán bộ công nhân viên. Cùng với cơ chế và phương thức mua chè thuận lợi cho người lao động đã tạo động lực khuyến khích người lao động phấn khởi chủ động đầu tư thâm canh vườn chè để đạt năng suất và chất lượng cao, ở trung du và miền núi người dân có tập quán trồng lúa nương với thu nhập lúa nương trung bình 2-3 triệu/ha trong khi đó 1 ha chè trên vùng đồi núi khô cằn thu được 10-12 triệu/ha. Sau khi đã trừ đi các chi phí đầu tư ban đầu 1ha chè thu hoạch được bằng 3- 4 lần lúa nương. Điều này dẫn đến quyết định chuyển sang trồng chè thay vì trồng lúa nương trong nông dân Thứ hai: Nếu như người nông dân trồng chè sau khi sao thủ công có thể mang ngay ra chợ bán hoặc có người đến mua tận nhà và họ nhanh chóng có đủ tiền để chi tiêu thì tơ tằm, cao su, càphê lại không thể mang ra chợ để bán mà phải chờ khi sản xuất được một lượng lớn, như vậy là đã gây ứ đọng vốn và không thiết thực với

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1795.DOC
Tài liệu liên quan